Nho giáo có một vịthếhết sức to lớn trong đời sống xã hội Trung Quốc trong
nhiều thếkỷ. Nho giáo nhưlà một thành tốvăn hoá góp phần làm phong phú văn hoá
Trung Quốc vốn được hình thành trên nền tảng của văn hoá Hán cùng với sựgiao lưu
tiếp xúc văn hoá với các tộc người khác. Tuy nhiên, trong suốt chiều dài lịch sửmất
ngàn năm của Trung Quốc, Nho giáo được nhìn nhận hết sức khác nhau: có những
giai đoạn lịch sử, người ta đềcao Nho giáo, coi đó nhưlà chuẩn mực đểxây dựng đời
sống xã hội, lại có thời gian, người ta phê phán, bài bác, thậm chí phủnhận Nho giáo.
Đương nhiên, khi đã coi Nho giáo nhưlà một học thuyết thì việc xem xét, đánh giá
trong các giai đoạn lịch sửcũng là việc làm bình thường.
ỞViệt Nam trong những thập niên gần đây việc tìm hiểu Nho giáo có chiều
hướng gia tăng. Bên cạnh nhiều bộsách kinh điển Nho giáo được tái bản, nhiều công
trình nghiên cứu vềNho giáo lại càng trởnên càng thiết hơn, khi mà một sốnước
trong khu vực vốn chịu ảnh hưởng rất sâu đậm Nho giáo đang vươn lên thành những
“con rồng”. Hai cuộc toạ đàm vềNho giáo diễn ra tại Trường Đại học Khoa học xã
hội và Nhân văn giữa các nhà khoa học Mỹvà các nhà khoa học Việt Nam cũng
không ngoài mục đích góp phần nghiên cứu một cách toàn diện và hệthống Nho
giáo.
Nét đặc thù của triết học Trung Quốc nói chung hay Nho giáo nói riêng là có
xu hướng đi sâu vào giải quyết những vấn đềthực tiễn chính trị- đạo đức của xã hội
có nội dung bao trùm là con người, xây dựng con người, xã hội lý tưởng và con
đường trịnước. Ngay từkhi xâm nhập vào Việt Nam, Nho giáo đã nhanh chóng thích
nghi và phát triển mạnh mẽ, sự ảnh hưởng, tác động của nó đến đời sống người Việt
Nam rất sâu sắc không chỉtrong quá khứmà vẫn còn tiếp tục phát huy đến ngày nay,
góp phần phong phú thêm cho nền văn hóa Việt Nam. Vì vậy, đềtài: “tưtưởng triết
học của Nho giáo và những ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa tinh thần người
Việt” được thực hiện nhằm làm rõ hơn tưtưởng triết học chủ đạo của Nho giáo cũng
nhưtầm ảnh hưởng sâu rộng của nó đến đời sống người Việt Nam trãi qua bao thếhệ.
28 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 21986 | Lượt tải: 17
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tư tưởng triết học của nho giáo và những ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa tinh thần người việt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề tài: Tư Tưởng Triết Học Nho Giáo GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
CAO HỌC KHÓA K19
…………………... .. …..……………….
TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HỌC
Đề tài:
TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA NHO GIÁO VÀ
NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN ĐỜI SỐNG
VĂN HÓA TINH THẦN NGƯỜI VIỆT.
GVHD : TS. BÙI VĂN MƯA
SVTH : MAI THỊ CHÍN
THÁNG 3 NĂM 2010
HVTH: MAI THỊ CHÍN – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang 1
Đề tài: Tư Tưởng Triết Học Nho Giáo GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA
LÔØI CAÛM ÔN
YZ
Triết Học - một môn học đòi hỏi sự tư duy, nghiền ngẫm, nổ lực tìm tòi và nghiên
cứu của sinh viên. Có thể Triết Học mang đến sự khô khan nếu chúng ta chỉ học Triết
học để hoàn tất các môn trong Khóa học mà quên rằng hiểu được những triết lý bên
trong môn học này là điều rất thú vị, Triết học dạy chúng ta rất nhiều điều thâm thúy
về triết lý làm người v.v…
90 tiết học tuy là khoảng thời gian ngắn nhưng em đã được Thầy truyền đạt những
kiến thức quý báu về nội dung, về tư tưởng của môn học này. Tuy vẫn chưa hiểu được
tất cả những triết lý sâu xa và tinh tế của môn học nhưng em vẫn cảm nhận được
những hữu ích mà môn học đã mang lại.
Em chân thành cảm ơn Thầy – TS. Bùi Văn Mưa – Tiểu Ban Triết Học – Khoa Lý
Luận Chính trị đã truyền đạt cho chúng em những kiến thức bổ ích cũng như những
tiết học rất vui tươi. Kính chúc Thầy luôn dồi dào sức khỏe và ngày càng đạt nhiều
thành tựu trong lĩnh vực giảng dạy.
Tp,HCM 3/2010
HVTH: MAI THỊ CHÍN – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang 2
Đề tài: Tư Tưởng Triết Học Nho Giáo GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA
LỜI MỞ ĐẦU
Nho giáo có một vị thế hết sức to lớn trong đời sống xã hội Trung Quốc trong
nhiều thế kỷ. Nho giáo như là một thành tố văn hoá góp phần làm phong phú văn hoá
Trung Quốc vốn được hình thành trên nền tảng của văn hoá Hán cùng với sự giao lưu
tiếp xúc văn hoá với các tộc người khác. Tuy nhiên, trong suốt chiều dài lịch sử mất
ngàn năm của Trung Quốc, Nho giáo được nhìn nhận hết sức khác nhau: có những
giai đoạn lịch sử, người ta đề cao Nho giáo, coi đó như là chuẩn mực để xây dựng đời
sống xã hội, lại có thời gian, người ta phê phán, bài bác, thậm chí phủ nhận Nho giáo.
Đương nhiên, khi đã coi Nho giáo như là một học thuyết thì việc xem xét, đánh giá
trong các giai đoạn lịch sử cũng là việc làm bình thường.
Ở Việt Nam trong những thập niên gần đây việc tìm hiểu Nho giáo có chiều
hướng gia tăng. Bên cạnh nhiều bộ sách kinh điển Nho giáo được tái bản, nhiều công
trình nghiên cứu về Nho giáo lại càng trở nên càng thiết hơn, khi mà một số nước
trong khu vực vốn chịu ảnh hưởng rất sâu đậm Nho giáo đang vươn lên thành những
“con rồng”. Hai cuộc toạ đàm về Nho giáo diễn ra tại Trường Đại học Khoa học xã
hội và Nhân văn giữa các nhà khoa học Mỹ và các nhà khoa học Việt Nam cũng
không ngoài mục đích góp phần nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống Nho
giáo.
Nét đặc thù của triết học Trung Quốc nói chung hay Nho giáo nói riêng là có
xu hướng đi sâu vào giải quyết những vấn đề thực tiễn chính trị- đạo đức của xã hội
có nội dung bao trùm là con người, xây dựng con người, xã hội lý tưởng và con
đường trị nước. Ngay từ khi xâm nhập vào Việt Nam, Nho giáo đã nhanh chóng thích
nghi và phát triển mạnh mẽ, sự ảnh hưởng, tác động của nó đến đời sống người Việt
Nam rất sâu sắc không chỉ trong quá khứ mà vẫn còn tiếp tục phát huy đến ngày nay,
góp phần phong phú thêm cho nền văn hóa Việt Nam. Vì vậy, đề tài: “tư tưởng triết
học của Nho giáo và những ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa tinh thần người
Việt” được thực hiện nhằm làm rõ hơn tư tưởng triết học chủ đạo của Nho giáo cũng
như tầm ảnh hưởng sâu rộng của nó đến đời sống người Việt Nam trãi qua bao thế hệ.
HVTH: MAI THỊ CHÍN – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang 3
Đề tài: Tư Tưởng Triết Học Nho Giáo GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA
MỤC LỤC
Chương 1: LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NHO GIÁO .......5
1.1. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ TRIẾT HỌC TRUNG HOA CỔ ĐẠI ....................5
1.1.1. Hoàn Cảnh Ra Đời: .................................................................................5
1.1.2. Đặc Điểm:................................................................................................5
1.2. TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA NHO GIÁO............................................5
1.2.1. Lịch sử hình thành:..................................................................................5
1.2.2. Các giai đoạn phát triển của nho giáo: ....................................................8
Chương 2: TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA NHO GIÁO.......................................8
2.1. CÁC TÁC PHẨM KINH ĐIỂN CỦA NHO GIÁO.......................................8
2.1.1. Ngũ Kinh:................................................................................................8
2.1.2. Tứ Thư.....................................................................................................9
2.2. TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA NHO GIÁO..............................................11
2.2.1. Tư tưởng triết học của Nho giáo nguyên thủy: .....................................11
2.2.2. Tư tưởng triết học của Nho giáo thể hiện qua quan niệm về Đạo Đức:15
2.2.3. Tư tưởng triết học Nho giáo qua thái độ của Nho giáo đối với cuộc
sống: 16
Chương 3: NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC NHO
GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN NGƯỜI VIỆT.......................18
3.1. Tiến trình du nhập của nho giáo vào Việt Nam............................................18
3.2. Ảnh hưởng Nho Giáo đến đời sống văn hóa tinh thần Người Việt..............20
3.2.1. Ảnh hưởng của Nho giáo đến Việt Nam...............................................20
3.2.2. Ảnh hưởng Nho giáo trong thời kỳ cách mạng dân tộc Việt Nam. ......20
3.2.3. Tư tưởng triết học nho giáo - nét văn hóa đặc trưng trong việc xây dựng
đời sống gia đình mới Việt Nam ngày nay..........................................................21
3.3. KẾT LUẬN ..................................................................................................27
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................28
HVTH: MAI THỊ CHÍN – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang 4
Đề tài: Tư Tưởng Triết Học Nho Giáo GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA
Chương 1: LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA
NHO GIÁO
1.1. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ TRIẾT HỌC TRUNG HOA CỔ ĐẠI
1.1.1. Hoàn Cảnh Ra Đời:
Trung Hoa là một đất nước rộng lớn thuộc vùng Đông Á có hai con sông lớn
(Hoàng Hà & Trường Giang). Vào thế kỷ 21 TCN chỉ là một vùng đất nhỏ ở trung
lưu Hoàng Hà, lãnh thổ được mở rộng dần cho đến thế kỷ 18.
Cư dân phía Bắc Trường Giang là dân tộc Hán, có nguồn gốc Mông Cổ
(Hoa/Hạ) sống du mục, (thích săn bắn, chinh phục). Cư dân phía Nam Trường Giang
là các dân tộc Bách Việt, sống nông nghiệp (định canh, định cư) có nền văn hóa riêng
nhưng dần dần bị dân tộc Hán đồng hóa. Xã hội chia làm hai loại người (quân tử và
tiểu nhân)…
Lịch sử Trung Hoa cổ đại đầy biến động, với các vương triều khác nhau đã để
một nền văn hóa rực rỡ với nhiều trường phái triết học sâu sắc.
1.1.2. Đặc Điểm:
• Nền triết học đồ sộ nhưng tập trung giải quyết các vấn đề do thực tiễn đạo đức,
chính trị, xã hội của thời đại đặt ra.
• Xuất phát từ quan hệ giữa Thiên – Địa – Nhân mà chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa duy tâm xung đột nhau xung quanh vấn đề cội nguồn, số phận, bản
tính,..của con người; nhằm xây dựng một quan niệm nhân sinh vững chắc,
giúp con người vươn lên trong điều kiện xã hội đầy phức tạp và biến động.
• Các trường phái triết học khác nhau, vừa phê phán xung đột, vừa hấp thụ tư
tưởng của nhau để bổ sung, hoàn chỉnh lý luận của chính mình và chịu ảnh
hưởng tư tưởng biện chứng trong kinh dịch.
1.2. TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA NHO GIÁO
1.2.1. Lịch sử hình thành:
Khổng giáo (Nho giáo) là một giáo lý đạo đức cơ bản xuất xứ ở Trung Quốc vào
thế kỷ thứ 5 và 6 trước CN. Dựa trên những cơ cấu và sự tu tập nó đã phổ biến lâu
HVTH: MAI THỊ CHÍN – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang 5
Đề tài: Tư Tưởng Triết Học Nho Giáo GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA
đời trong xã hội Trung Quốc, chẳng hạn hệ thống gia tộc và sự thờ cúng ông bà, tổ
tiên của nó, Khổng giáo đã trở thành hệ thống tư tưởng có ảnh hưởng lớn nhất Trung
Quốc, cùng tồn tại với Lão giáo (đạo) và Phật giáo qua nhiều thế kỷ. Người sáng lập
ra nó đức Khổng Phu Tử (551-479 trước CN) một nhà cải cách chính trị cũng là một
nhà giáo dục, ngài bất mãn với sự suy đồi đạo đức trong thời đại của mình và tìm
cách khôi phục lại những giá trị mà ngài cho là những phong tục tốt đẹp của thời đại
Hoàng Kim. Những tư tưởng triết lý, đạo lý và tín ngưỡng đặt nền tảng cho một hệ
thống đạo đức đã tồn tại qua nhiều thời gian thử thách.
Trãi qua hơn hai nghìn năm, tư tưởng nho giáo ảnh hưởng đối với Trung Quốc
không chỉ về chính trị, văn hóa mà còn thể hiện trong hành vi và phương thức tư duy
của mỗi con người Trung Quốc. Có học giả còn xem nho giáo là tư tưởng tôn giáo
của Trung Quốc. Trong thực tế, nho giáo là một trong rất nhiều trường phái thời cổ
Trung Quốc, nó là tư tưởng triết học chứ không phải là tôn giáo và được coi là tư
tưởng chính thống trong xã hội phong kiến hơn hai nghìn năm ở Trung Quốc và có
ảnh hưởng tới một số nước ở Châu Á .
1.2.2. Các giai đoạn phát triển của nho giáo:
Nho giáo nguyên thủy (tiền Tần/Khổng –Mạnh): Thời Xuân Thu, Khổng Tử đã
san định, hiệu đính và giải thích bộ Lục kinh gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ,
Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc. Về sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn
năm bộ kinh thường được gọi là Ngũ kinh. Sau khi Khổng Tử mất, học trò của ông
tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn Luận ngữ. Học trò xuất sắc nhất của - Khổng Tử
là Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử, dựa vào lời thầy mà soạn ra sách Đại học. Sau đó,
cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, còn gọi là Tử Tư viết ra cuốn Trung Dung.
Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà sau này học trò của ông chép
thành sách Mạnh Tử. Từ Khổng Tử đến Mạnh Tử hình thành nên Nho giáo nguyên
thủy, còn gọi là Nho giáo tiền Tần (trước đời Tần), Khổng giáo hay "tư tưởng Khổng-
Mạnh". Từ đây mới hình thành hai khái niệm, Nho giáo và Nho gia. Nho gia mang
tính học thuật, nội dung của nó còn được gọi là Nho học; còn Nho giáo mang tính tôn
giáo. Ở Nho giáo, Văn Miếu trở thành thánh đường và Khổng Tử trở thành giáo chủ,
giáo lý chính là các tín điều mà các nhà Nho cần phải thực hành.
HVTH: MAI THỊ CHÍN – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang 6
Đề tài: Tư Tưởng Triết Học Nho Giáo GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA
Hán Nho: Đến đời Hán, Đại Học và Trung Dung được gộp vào Lễ Ký. Hán Vũ
Đế đưa Nho giáo lên hàng quốc giáo và dùng nó làm công cụ thống nhất đất nước về
tư tưởng. Và từ đây, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống bảo vệ chế độ phong
kiến Trung Hoa trong suốt hai ngàn năm. Nho giáo thời kỳ này được gọi là Hán Nho.
Điểm khác biệt so với Nho giáo nguyên thủy là Hán Nho đề cao quyền lực của giai
cấp thống trị, Thiên Tử là con trời, dùng "lễ trị" để che đậy "pháp trị”.
Tống Nho: Đến đời Tống, Đại Học, Trung Dung được tách ra khỏi Lễ Ký và
cùng với Luận ngữ và Mạnh Tử tạo nên bộ Tứ Thư. Tứ thư và ngũ kinh là kinh điển
nho giáo. Nho giáo thời kỳ nay được gọi là Tống nho, với các tên tuổi như Chu Hy
(thường gọi là Chu Tử), Trình Hạo, Trình Di. (Ở Việt Nam, thế kỷ thứ 16, Nguyễn
Bỉnh Khiêm rất giỏi Nho học nên được gọi là "Trạng Trình"). Phương Tây gọi Tống
nho là "Tân Khổng giáo". Điểm khác biệt của Tống nho với Nho giáo trước đó là việc
bổ sung các yếu tố "tâm linh" (lấy từ Phật giáo) và các yếu tố "siêu hình" (lấy từ Đạo
giáo phục vụ cho việc đào tạo quan lại và cai trị).
HVTH: MAI THỊ CHÍN – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang 7
Đề tài: Tư Tưởng Triết Học Nho Giáo GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA
CHƯƠNG 2: TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA NHO GIÁO
2.1. CÁC TÁC PHẨM KINH ĐIỂN CỦA NHO GIÁO
Để hiểu được tư tưởng triết học của nho giáo lúc bấy giờ, cần điểm qua các tác
phẩm kinh điển của Nho giáo gồm 02 (hai) bộ Ngũ Kinh và Tứ Thư. Đây là hai bộ
sách nổi tiếng mà hệ thống kinh điển đó hầu hết viết về xã hội, về những kinh nghiệm
lịch sử Trung Hoa, ít viết về tự nhiên. Điều này cho thấy rõ xu hướng biện luận về xã
hội, về chính trị, về đạo đức là những tư tưởng cốt lõi của Nho gia.
2.1.1. Ngũ Kinh:
Giáo lý của Khổng Tử dựa trên sáu quyển sách cổ: Dịch, Thư, Thi, Lễ, Nhạc
Và Xuân Thu. Bốn trong sáu quyển này được đề cao với từ “Kinh”- Kinh Dịch, Kinh
Thư, Kinh Thi, Nhạc Kinh vào thế kỷ thứ 2 trước CN, do bởi sách nhạc mất đi, năm
cuốn còn lại được đặt tên là Ngũ Kinh.
Kinh Thi là người bạn đồng hành của ngài. Chắc hẳn ông ta đã thuộc lòng nó và
hát nó. Ngài đề cập hoặc trích dẫn nó khoảng 20 lần trong Luận Ngữ. Kinh thi có 305
bài hát, bao gồm các bài hát ca tụng triều đại được hát ở triều đình nhà Chu và những
bài dân ca khác biệt với những phần của đế chế nhà Chu. Theo truyền thống, nhà vua
phái các quan lại đi khắp nơi để thu thập các bài dân ca để ông ta có thể tìm hiểu về
những gì người dân nghĩ suy nơi sự cai trị của mình.
Khổng Tử giới thiệu Kinh Thi cho các môn sinh của ngài với một vài lý do.
Đầu tiên giúp cho họ hiểu được các phong tục, tập quán quốc gia khác nhau. Thứ hai,
giúp cho họ sống hòa thuận với người khác. Thứ ba, nó là phương tiện hòa giải tình
cảm của họ. Cuối cùng, nó sẽ đưa họ đến với muôn thú và cỏ cây.
Về “Kinh Thư” là sách ghi lại các truyền thuyết, biến cố về các đời vua cổ có
trước Khổng Tử. Khổng Tử san định lại để các ông vua đời sau nên theo gương các
minh quân như Nghiêu, Thuấn chứ đừng tàn bạo như Kiệt, Trụ.
“Kinh Dịch” là một cẩm nang về sự tiên đoán có từ đời nhà Chu và sau đó được
các nhà uyên bác của đạo Khổng mở rộng. Bằng cách vận dụng các cây que bằng
cọng cỏ thì có thể tạo ra 64 ngôi sao sáu cánh, liên kết tất cả các cấu trúc này và biến
đổi thành vũ trụ.
HVTH: MAI THỊ CHÍN – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang 8
Đề tài: Tư Tưởng Triết Học Nho Giáo GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA
Không còn cốn sách “Lễ” nào tồn tại vào thời Khổng Tử. Tuy vậy, cuốn Lễ ký
chứa đựng các tư liệu vào đầu thời kỳ nhà Chu nhưng thực tế nó được biên soạn sau
này, đưa ra tình huống cổ điển. Cuốn sách này quan trọng của Lễ Nghi cũng như tạo
cho nó có sự phù hợp với thời thế. Ví dụ, khi một người trị vì qua đời, các quan lại và
hầu thiếp đều bị chôn theo để linh hồn họ tiếp tục đi theo hầu hạ. Sách lễ đã phản đối
việc đó bằng cách dùng hàng mã thay thế, vừa đáp ứng cho mục tế lễ, vừa thể hiện
tình cảm người sống dành cho người chết.
“Kinh Xuân Thu” ghi lại các biến cố xảy ra ở nước Lỗ, quê của Khổng Tử.
Khổng Tử không chỉ ghi chép như một sử gia mà theo đuổi mục đích trị nước nên
ông chọn lọc các sự kiện, ghi kèm các lời bình, sáng tác thêm lời thoại để giáo dục
các bậc vua chúa. Đây là cuốn kinh Khổng Tử tâm đắc nhất. (Xuân thu có nghĩa là
mùa xuân và mùa thu, ý nói những sự việc xảy ra).
2.1.2. Tứ Thư
Là bốn quyển sách kinh điển của văn học Trung Hoa được Chu Hy thời nhà
Tống lựa chọn làm nền tảng cho triết học Trung Hoa và Khổng giáo. Chúng bao gồm:
Đại Học, Trung Dung, Luận ngữ, Mạnh Tử.
“Đại học” là sách dùng để dạy cho học trò từ 15 tuổi trở lên, khi bước vào bậc
đại học, dạy cho biết cách xử sự ở đời để lớn lên ra gánh vác việc nước.
Theo các Nho gia, sách Đại Học do Tăng Tử làm ra để diễn giải các lời nói của
Khổng Tử.
Mục đích và tôn chỉ của sách này là nói về đạo quân tử, trước hết phải sửa cái
đức của mình cho sáng tỏ để mọi người noi theo, làm sao cho đến chổ chí thiện.
Muốn được vậy, phải sử dụng Bát điều mục (tám điều): cánh vật, trí tri, thành ý,
chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Cái gốc của đạo quân tử là sự “tu
thân”. Cho nên trong sách Đại học có câu : “Tự thiên tữ dĩ chí ư thứ nhân, nhứt thị
giai dĩ tu thân vi bổn” (Nghĩa là : “từ vua cho đến thường dân, ai ai cũng đều lấy sự
sửa của mình làm gốc”)
“Trung Dung” là sách Trung Dung do Tử Tư làm ra. Tử Tư là học trò của Tăng
Tử, cháu nội của Khổng Tử, thọ được cái học tâm truyền của Tăng Tử.
Trong sách Trung Dung, Tử Tư dẫn những lời của Không Tử nói về đạo “trung
dung”, tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức trung hòa,
HVTH: MAI THỊ CHÍN – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang 9
Đề tài: Tư Tưởng Triết Học Nho Giáo GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA
không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho
thành người quân tử, để cuối cùng thành thánh nhân.
Cả hai quyển sách Đại Học và Trung Dung trước đây là những thiên trong
Kinh Lễ, sau các Nho gia đời Tống tách riêng ra làm hai quyển để hợp với sách Luận
Ngữ và Mạnh Tử thành bộ Tứ Thư.
“Luận Ngữ” là sách sưu tập ghi chép lại những lời dạy của Không Tử và
những lời nói của người đương thời. Sách Luận Ngữ gồm 20 thiên, mỗi thiên đều lấy
chữ đầu mà đặt tên, và các thiên không có liên hệ với nhau. Đọc sách này, người ta
hiểu được phẩm chất tư cách và tính tình của Khổng Tử, nhất là về giáo dục, ông tỏ ra
là người thấu hiểu tâm lý của từng học trò, khéo đem lời giảng dạy thích hợp với từng
trình độ, từng hoàn cảnh của mỗi người. Như có khi cùng một câu hỏi mà ông trả lời
cho mỗi người mỗi cách.
Luận Ngữ dạy đạo quân tử một cách thực tiễn, miêu tả tính tình đức độ của
Khổng Tử để làm mẫu mực cho người đời sau noi theo.
“Mạnh Tử” Sách Mạnh Tử là bộ sách làm ra bởi Mạnh Tử và các môn đệ của
ông như : Nhạc Chính Khắc, Công Tôn Sửu, Vạn Chương… ghi chép lại những điều
đối đáp của Mạnh Tử với các vua chư hầu, giữa Mạnh Tử và các học trò cùng với
những lời phê bình của Mạnh Tử về các học thuyết khác như : học thuyết của Mặc
Tử, Dương Chu. Sách Mạnh Tử gồm 7 thiên, chia làm 2 phần: tâm học và chính trị
học.
Tâm học: Mạnh Tử cho rằng mỗi người đều có tính thiện do Trời phú cho. Sự
giáo dục phải lấy tính thiện đó làm cơ bản, giữ cho nó không mờ tối, trau dồi nó để
phát triển thành người lương thiện. Tâm là cái thần minh của Trời ban cho người.
Như vậy, tâm của ta với tâm của Trời đều cùng một thể. Học là để giữ cái Tâm, nuôi
cái Tính, biết rõ lẽ Trời mà theo chính mệnh. Nhân và nghĩa vốn có sẳn trong lương
tâm của người. Chỉ vì ta đắm đuối vào vòng vật dục nên lương tâm bị mờ tối, thành
ra bỏ mất nhân nghĩa. Mạnh Tử đề cập đến khí Hạo nhiên, cho rằng nó là cái tinh
thần của người đã hợp nhất với Trời.
Chính trị học : Mạnh Tử chủ trương: Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh.
Đây là một tư tưởng rất mới và rất táo bạo trong thời quân chủ chuyên chế đang thịnh
hành. Mạnh Tử nhìn nhận chế độ quân chủ, nhưng vua không có quyền lấy dân làm
HVTH: MAI THỊ CHÍN – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang 10
Đề tài: Tư Tưởng Triết Học Nho Giáo GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA
của riêng cho mình. Phải duy dân và vì dân. Muốn vậy, phải có luật pháp công bằng,
dẫu vua quan cũng không được vượt ra ngoài pháp luật đó. Người trị dân, trị nước
phải chăm lo việc dân việc nước, làm cho đời sống của dân được sung túc, phải lo
giáo dục dân để hiểu rõ luật pháp mà tuân theo, lấy nhân nghĩa làm cơ bản để thi
hành. Chủ trương về chính trị của Mạnh Tử vô cùng mới mẽ và táo bạo, nhưng rất
hợp lý, làm cho những người chủ trương quân chủ thời đó không thể nào bắt bẻ được.
Có thể đây là lý thuyết khởi đầu để hình thành chế độ quân chủ lập hiến sau này.
2.2. TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA NHO GIÁO
2.2.1. Tư tưởng triết học của Nho giáo nguyên thủy:
Là triết lý của Khổng Tử và Mạnh Tử về Đạo làm người quân tử và cách thức
trở thành người quân tử, cách cai trị đất nước. Nó được trình bày trong một hệ thống
các tư tưởng về đạo đức – chính trị - xã hội có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Nho gia nguyên thủy cho rằng, nền tảng của xã hội, cơ sở của gia đình không
phải là những quan hệ kinh tế - xã hội mà là những quan hệ đạo đức - chính trị tam
cương là ba quan hệ vua –tôi, cha – con, chồng – vợ . Các quan hệ này được Nho Gia
gọi là Đạo. Khi các quan hệ này chính danh, nghĩa là: vua ra vua, tôi ra tôi; cha ra
cha, con ra