Sự sống không bao giờ đứng yên một chỗ, trái lại, luôn luôn vận động và phát triển. “Trong quá trình phát triển, tất cả những gì trước kia là hiện thực thì hiện nay trở thành không hiện thực, mất tính tất yếu, mất quyền tồn tại, mất tính hợp lý của chúng; và hiện thực mới, đầy sinh lực, thay thế cho hiện thực đang tiêu vong”; “đối với triết học biện chứng thì không có gì là tối hậu, là tuyệt đối, là thiêng liêng cả” (C.Mác và PH. Ăng-ghen Toàn tập. Tập 21.Hà Nội 1995, tr. 393, tr.395, tr.421). Cái tiến bộ, khoa học phản biện lại cái lỗi thời để tiến tới sự đúng đắn và phát triển. Thực tế cho thấy xã hội nào càng mang tính chất phản biện cao thì xã hội đó càng có khả năng phát triển nhanh và vững chắc. Ngược lại, chỉ trong một xã hội phát triển thì tính phản biện xã hội mới được phát huy mạnh mẽ và hiệu quả.
Giám sát và Phản biện xã hội là hai khái niệm chức năng gắn bó mật thiết. Chỉ trên cơ sở giám sát một cách nghiêm túc thì mới có thông tin đầy đủ và thấu đáo làm tiền đề cho phản biện. Trong khoa học, phản biện cũng là một trong những cách thức chủ yếu để các nhà nghiên cứu tiệm cận tới các chân lý khoa học. Còn trong đời sống xã hội, phản biện là một công cụ không thể thiếu để tổ chức ra một xã hội dân chủ. Ở đây, theo quan niệm của người làm tiểu luận, các đối tượng gồm hệ thống bộ máy nhà nước, các cơ quan chức năng; đông dảo quần chúng nhân dân, các tổ chức phi chính phủ, dư luận xã hội đều vừa là đối tượng giám sát - phản biện, vừa là đối tượng chịu sự giám sát - phản biện nhằm vào những chủ trương, quyết sách, những hiện tượng, trào lưu, những quan điểm nảy sinh trong thực tế đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá – xã hội. DIỄN ĐÀN của các hoạt động này chính là BÁO CHÍ. Giám sát - Phản biện xã hội là một vấn đề hoàn toàn không mới, loài người đã làm quen với khái niệm này từ rất sớm và biến nó trở thành công cụ hữu hiệu để tạo ra nền dân chủ, tạo sự phát triển về chính trị của nhiều quốc gia tiên tiến. Trong thời đại ngày nay, giám sát - phản biện xã hội vẫn là một trong những vấn đề hệ trọng, là đối tượng cần nghiên cứu, nhất là đối với các quốc gia đi sau, các quốc gia đang phấn đấu cho nền dân chủ.
Tiểu luận “ Vai trò giám sát và phản biện xã hội của báo chí” ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận, gồm 3 phần nội dung chính:
Phần 1. Những khái niệm chung.
1.1 Giám sát xã hội
1.2 Phản biện xã hội
1.3 Mối quan hệ giữa báo chí, dư luận xã hội, giám sát và phản biện xã hội
Phần 2. Vai trò của báo chí trong Giám sát và Phản biện xã hội.
2.1 Báo chí - diễn đàn thể hiện giám sát và phản biện xã hội
2.2 Báo chí giám sát và phản biện xã hội thông qua những tính chất đặc thù
Phần 3. Báo chí với hiệu quả của chức năng Giám sát và Phản biện xã hội trong những năm gần đây.
3.1 Báo chí tiếp tục phát huy sức mạnh của “ Mắt sáng, bút sắc, lòng trong” trong sự nghiệp Đổi mới
3.2 Những hạn chế trong việc thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội của báo chí và giải pháp khắc phục.
23 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 7879 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Vai trò của chức năng giám sát và phản biện xã hội trong hoạt động báo chí, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA BÁO CHÍ
*********
TIỂU LUẬN
Môn: XÃ HỘI HỌC TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG
ĐỀ TÀI:
VAI TRÒ CỦA CHỨC NĂNG GIÁM SÁT VÀ PHẢN BIỆN XÃ HỘI TRONG HOẠT ĐỘNG BÁO CHÍ
MỤC LỤC
Nội dung
Trang
Phần mở đầu
1
Phần 1. Những khái niệm chung
3
1.1 Giám sát xã hội
3
1.2 Phản biện xã hội
4
1.3 Mối quan hệ giữa báo chí, dư luận xã hội, giám sát và phản biện xã hội
6
Phần 2. Vai trò của báo chí trong chức năng giám sát và phản biện xa hội
8
2.1 Báo chí- diễn đàn thể hiện giám sát và phản biện xã hội
8
2.2 Báo chí giám sát và phản biện xã hội thong qua những tính chất đặc thù
11
Phần 3. Báo chí với hiệu quả của chức năng giám sát và phản biện xã hội những năm gần đây
13
3.1 Báo chí tiếp tục phát huy sức mạnh của “Mắt sáng, bút sắc, lòng trong” trong sự nghiệp Đổi mới
13
3.2 Những hạn chế trong việc thực hiện chức năng giám sát và phản biện của báo chí và giải pháp khắc phục
16
3.2.1 Những hạn chế
16
3.2.2 Giải pháp khắc phục
18
Kết luận
20
Tài liệu tham khảo
21
MỞ ĐẦU
Sự sống không bao giờ đứng yên một chỗ, trái lại, luôn luôn vận động và phát triển. “Trong quá trình phát triển, tất cả những gì trước kia là hiện thực thì hiện nay trở thành không hiện thực, mất tính tất yếu, mất quyền tồn tại, mất tính hợp lý của chúng; và hiện thực mới, đầy sinh lực, thay thế cho hiện thực đang tiêu vong”; “đối với triết học biện chứng thì không có gì là tối hậu, là tuyệt đối, là thiêng liêng cả” (C.Mác và PH. Ăng-ghen Toàn tập. Tập 21.Hà Nội 1995, tr. 393, tr.395, tr.421). Cái tiến bộ, khoa học phản biện lại cái lỗi thời để tiến tới sự đúng đắn và phát triển. Thực tế cho thấy xã hội nào càng mang tính chất phản biện cao thì xã hội đó càng có khả năng phát triển nhanh và vững chắc. Ngược lại, chỉ trong một xã hội phát triển thì tính phản biện xã hội mới được phát huy mạnh mẽ và hiệu quả.
Giám sát và Phản biện xã hội là hai khái niệm chức năng gắn bó mật thiết. Chỉ trên cơ sở giám sát một cách nghiêm túc thì mới có thông tin đầy đủ và thấu đáo làm tiền đề cho phản biện. Trong khoa học, phản biện cũng là một trong những cách thức chủ yếu để các nhà nghiên cứu tiệm cận tới các chân lý khoa học. Còn trong đời sống xã hội, phản biện là một công cụ không thể thiếu để tổ chức ra một xã hội dân chủ. Ở đây, theo quan niệm của người làm tiểu luận, các đối tượng gồm hệ thống bộ máy nhà nước, các cơ quan chức năng; đông dảo quần chúng nhân dân, các tổ chức phi chính phủ, dư luận xã hội…đều vừa là đối tượng giám sát - phản biện, vừa là đối tượng chịu sự giám sát - phản biện nhằm vào những chủ trương, quyết sách, những hiện tượng, trào lưu, những quan điểm nảy sinh trong thực tế đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá – xã hội. DIỄN ĐÀN của các hoạt động này chính là BÁO CHÍ. Giám sát - Phản biện xã hội là một vấn đề hoàn toàn không mới, loài người đã làm quen với khái niệm này từ rất sớm và biến nó trở thành công cụ hữu hiệu để tạo ra nền dân chủ, tạo sự phát triển về chính trị của nhiều quốc gia tiên tiến. Trong thời đại ngày nay, giám sát - phản biện xã hội vẫn là một trong những vấn đề hệ trọng, là đối tượng cần nghiên cứu, nhất là đối với các quốc gia đi sau, các quốc gia đang phấn đấu cho nền dân chủ.
Tiểu luận “ Vai trò giám sát và phản biện xã hội của báo chí” ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận, gồm 3 phần nội dung chính:
Phần 1. Những khái niệm chung.
1.1 Giám sát xã hội
1.2 Phản biện xã hội
1.3 Mối quan hệ giữa báo chí, dư luận xã hội, giám sát và phản biện xã hội
Phần 2. Vai trò của báo chí trong Giám sát và Phản biện xã hội.
2.1 Báo chí - diễn đàn thể hiện giám sát và phản biện xã hội
2.2 Báo chí giám sát và phản biện xã hội thông qua những tính chất đặc thù
Phần 3. Báo chí với hiệu quả của chức năng Giám sát và Phản biện xã hội trong những năm gần đây.
3.1 Báo chí tiếp tục phát huy sức mạnh của “ Mắt sáng, bút sắc, lòng trong” trong sự nghiệp Đổi mới
3.2 Những hạn chế trong việc thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội của báo chí và giải pháp khắc phục.
PHẦN 1. NHỮNG KHÁI NIỆM CHUNG
1.1 Giám sát xã hội
Giám sát xã hội được hiểu là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý vào khách thể quản lý nhằm đảm bảo cho hoạt động có hiệu quả và đạt được mục đích đề ra. Đây là hoạt động có ý thức của con người. Mỗi hệ thống xã hội chịu sự tác động của nhiều mặt (tiêu cực lẫn tích cực) của đời sống. Vì vậy, thông tin phục vụ cho công tác giám sát phải là thông tin hai chiều: thuận và nghịch. Chiều thuận từ phía đối tượng chịu giám sát, nguồn tin thể hiện rõ cách thức, quan điểm hoạt động để đối tượng giám sát hiểu và kiểm soát. Chiều ngược lại từ phía đối tượng giám sát, phải là nguồn thông tin có tính chất đánh giá, phê bình, xây dựng, làm tiền đề cho việc điều chỉnh, sửa chữa, thay đổi tư duy và hành động mới. Giám sát xã hội bao gồm:
Giám sát hành chính các cơ quan chức năng thuộc hệ thống nhà nước
Giám sát thành viên của các tổ chức chính trị
Giám sát các phương tiện thông tin đại chúng
-Giám sát các thiết chế công dân
Giám sát mỗi người dân
Có hai bộ phận tham gia giám sát xã hội: bộ máy nhà nước và công dân. Trên thực tế thì các thiết chế nhà nước vốn đã được hình thành và hoạt động theo cơ chế tự giám sát và giám sát công dân. Tuy nhiên, một xã hội dân chủ là xã hội cần phải coi trọng sự giám sát của công dân đối với nhà nước. Đồng thời điều này cũng thể hiện trình độ phát triển, ý thức tự giác và thái độ trách nhiệm cao của người dân.
V.I Lênin đã nói : “Chính phủ cũng phải được dư luận công chúng kiểm soát” ( V.I Lênin toàn tập, tập 35, 1976.tr20). Ở Việt Nam, Hiến pháp năm 1992 đã quy định: “ Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện quyền giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Các cơ quan Nhà nước, cán bộ công chức Nhà nước chịu sự giám sát của nhân dân”. Đây là cơ sở pháp lý cao nhất cho sự khẳng định quyền giám sát của nhân dân đối với mọi hoạt động của xã hội.
Giám sát xã hội là giám sát lẫn nhau, giám sát từ nhiều góc độ một cách công bằng và có ý nghĩa xã hội. Giám sát không chỉ để kiểm tra, đánh giá phân tích hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân mà còn đề xuất giải pháp nhằm điều chỉnh kế hoạch, khắc phục thiếu sót, những cái lỗi thời, không còn phù hợp với định hướng và bản chất xã hội.
Trên tinh thần đó, giám sát không chỉ mang tính chất phê phán mà còn là sự biểu dương những cái mới, cái tiến bộ, tích cực. Cái Đúng, cái Sai, cái Lạc hậu, cái Tiến bộ…đều được phát hiện và soi chiếu rõ ràng. Như vậy cần phải đặt ra một yêu cầu là cần tạo ra một cơ chế hợp lý để đảm bảo cho giám sát xã hội trở thành hoạt động thực chất và hiệu quả.
1.2 Phản biện xã hội
Phản biện là một hành vi xác định tính khoa học của hành động của con người, xuất hiện khi con người chuẩn bị hành động. Phản biện làm cho mỗi một hành vi được tiến hành trên cơ sở có một sự xác nhận có chất lượng khoa học đối với nó. Phản biện xã hội là một khái niệm chính trị, là biểu hiện đặc trưng chuyên nghiệp nhất của cái gọi là đời sống dân chủ. Phản biện trong một xã hội dân chủ là một loại "phản hành động" ("phản hành động" chứ không phải là "phản động"). Nó xuất hiện song song cùng với các hành động, nó xuất hiện đối lập với tất cả các hành động. Trong mỗi một xã hội bao giờ cũng có nhiều nhóm lợi ích khác nhau. Các nhóm lợi ích bao giờ cũng có nhu cầu tiến hành hành động vì một mục tiêu nào đó. Nhưng trên mỗi khía cạnh hay mỗi lĩnh vực của đời sống con người bao giờ cũng có những cách lý giải khác nhau và do đó có những cách hành động khác nhau để đạt được mục tiêu như vậy. Phản biện tạo ra một giai đoạn đệm cho quá trình hành động tự nhiên của các nhóm lợi ích, đó là giai đoạn thảo luận và thỏa thuận. Trong tác phẩm Triết học Pháp quyền, Hêghen đã chỉ ra rằng: Bằng con đường tranh luận và trao đổi, cho phép tách ra những cái chung có tỷ trọng hợp lý các ý kiến đã được thảo luận. Phản biện làm cho các hành vi chính trị, kinh tế và xã hội trở nên ít chủ quan hơn, tức là sự xung đột của các nhóm lợi ích đã được điều chỉnh thông qua thảo luận và thoả thuận. Nói cách khác, phản biện làm cho những cuộc xung đột trên thực tế trở thành cuộc xung đột của thảo luận, tức là biến sự xung đột lợi ích trong hành động thành các xung đột lợi ích trong thảo luận.
Nếu một xã hội không có phản biện và mỗi hành động đều được đương nhiên tiến hành thì đấy là cách thể hiện rõ rệt nhất tính chất phi dân chủ của xã hội. Bởi vì mỗi một hành động chính trị bao giờ cũng là kết quả thỏa thuận của các khuynh hướng chính trị, một hành động chính trị chỉ có thể được tiến hành khi nó là sự thúc bách của nhu cầu đời sống và để cân đối các nguyện vọng khác nhau của đời sống. Phản biện là một đòi hỏi khách quan của đời sống. Nói một cách khái quát, phản biện là một thể hiện của các phản hành động xuất hiện một cách tự nhiên trong một xã hội mà ở đó mỗi con người đều tự do bày tỏ các nguyện vọng của mình. Phản biện góp phần điều chỉnh các khuynh hướng kinh tế, văn hoá, chính trị, làm cho các khuynh hướng đó trở nên khoa học hơn, đúng đắn hơn và gần với đời sống con người hơn.
Giám sát và phản biện xã hội khác với việc hỏi ý kiến nhân dân. Hỏi ý kiến nhân dân là việc trưng cầu dân ý một cách không chuyên nghiệp và hoàn toàn không phải là phản biện. Phản biện là một hoạt động khoa học, phản biện là tranh luận một cách khoa học chứ không phải là tìm câu trả lời có đồng ý hay không. So với trưng cầu dân ý, phản biện hoàn toàn khác về chất. Trưng cầu dân ý là hỏi dân. Phản biện không phải là hỏi dân. Phản biện không phải là nhân dân trả lời mà là nhân dân nói tiếng nói của mình. Năm 1984, Ban Bí thư TW Đảng ra chỉ thị về công tác dân vận, trong đó có đề ra phương châm: “ Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Đấy là một hoạt động của xã hội dân sự, nhưng không phải là hoạt động nhân dân đơn giản mà là hoạt động thông qua một hệ thống tranh luận chuyên nghiệp. Cơ sở để người dân nói lên ý kiến của mình là lợi ích xã hội. Dư luận xã hội được hình thành thông qua con đường thảo luận, bàn bạc về những ý kiến mà người dân tiếp thu được. Báo chí chính là diễn đàn của cuộc thảo luận, bàn bạc xã hội đó. Bằng hoạt động truyền thông của mình, báo chí vừa là nơi nhân dân thể hiện vai trò giám sát, phản biện xã hội, mà bản thân báo chí cũng đang thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội của mình.
1.3 Mối quan hệ giữa Báo chí – Dư luận xã hội – Giám sát, phản biện xã hội
Báo chí là trung tâm của phương tiện truyền thông đại chúng. Báo chí thể hiện rõ nhất tính chất của quá trình truyền thông: tính đại chúng, tính công khai, phương tiện cung cấp thông tin phong phú, về cơ bản là có tính định kì. Báo chí hoạt động theo nguyên tắc mô hình truyền thông của Laswell gồm: Nguồn (nhà báo, cơ quan báo chí), thông điệp (từ bài báo, chương trình), kênh truyền (các phương tiện kĩ thuật chuyên biệt ), đích (công chúng báo chí), phản hồi (thông tin đi ngược từ công chúng trở lại nguồn) và nhiễu (những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình truyền thông và thông điệp).
Dư luận xã hội là sự phản ánh tâm trạng xã hội của nhân dân nói chung về những vấn đề liên quan đến lợi ích xã hội, những lợi ích thường có tính cấp bách, nó là sự quan tâm của nhân dân nói chung, được phản ánh trong sự đánh giá của họ, dư luận xã hội dựa trên các quan hệ xã hội đang tồn tại. Con đường hình thành dư luận xã hội bao gồm:
Báo chí / các phương tiện truyền thông đại chúng cung cấp thông tin cho công chúng
Các nhóm xã hội thảo luận về thông tin, tạo nên sự tương tác ý kiến
Tạo nên sự đánh giá chung
Dẫn đến hành động chung
Mối quan hệ giữa báo chí với việc hình thành và thể hiện dư luận xã hội có tính chất biện chứng. Một mặt báo chí thoả mãn những nhu cầu ngày càng tăng của công chúng, mặt khác, bản thân công chúng lại đặt ra các yêu cầu mới đối với hoạt động của hệ thống báo chí. Sự trưởng thành trong mối quan hệ ấy thể hiện tính tích cực chính trị - xã hội của bản thân hệ thống báo chí và của công chúng báo chí. Báo chí vừa thể hiện dư luận xã hội, định hướng dư luận xã hội, vừa chịu sự tác động mạnh của dư luận xã hội
Kết cấu lợi ích là hạt nhân của dư luận xã hội. Đó cũng là nguyên nhân sâu xa của chức năng giám sát-phản biện xã hội. Không phải mọi sự kiện, vấn đề xã hội đều được dư luận xã hội phản ánh. Chủ đề của dư luận xã hội chỉ có thể là những vấn đề lợi ích có tính cấp bách. Khi lợi ích bị ảnh hưởng thì dư luận xã hội sẽ lên tiếng phản biện.
Như vậy, có thể kết luận rằng giữa báo chí – dư luận xã hội - chức năng Giám sát, Phản biện có quan hệ biện chứng với nhau. Tuy nhiên, trên thực tế, trong tập hợp các vấn đề báo chí theo dõi và phản ánh, có những vấn đề tạo nên dư luận xã hội, có những vấn đề thì không. Trong số các vấn đề tạo dư luận đó, không phải trường hợp nào cũng đưa ra tiếng nói phản biện. Suy ra, không phải mọi vấn đề báo chí nêu cũng có tính chất phản biện. Điều cần phải rút kinh nghiệm là báo chí cần làm sao để phần mang chức năng Giám sát - Phản biện ấy ngày càng mở rộng.
PHẦN 2. VAI TRÒ CỦA BÁO CHÍ TRONG VIỆC GIÁM SÁT VÀ PHẢN BIỆN XÃ HỘI
2.1 Báo chí - diễn đàn thể hiện tính Giám sát và Phản biện xã hội
Tính đến tháng 6/2007, cả nước có khoảng 630 cơ quan báo chí với 830 ấn phẩm các loại, in ấn khoảng 800 triệu bản /năm; phát hành 75% ở thành phố, đô thị; bình quân 8tờ/người/năm. Bên cạnh đó là hệ thống các Đài Phát thanh - Truyền hình từ TW đến địa phương, mạng lưới báo điện tử… Điều này vừa thể hiện sự tăng nhanh quy mô của hệ thống báo chí nước ta, vừa khẳng định chủ trương phát triển diễn đàn của xã hội cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
Báo chí truyền thông tin đến công chúng một cách đều đặn và gián tiếp. Nó vừa phải hướng đến các đối tượng công chúng nói chung, vừa phải quan tâm tới nhu cầu thông tin của các nhóm công chúng cụ thể. Hoạt động của báo chí luôn chịu sự tác động từ hai phía: phía các thiết chế xã hội mà nó làm công cụ (báo chí là công cụ tuyên truyền của bộ máy chính quyền), phía thứ hai là từ công chúng báo chí.
Báo chí thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội trước hết ở việc cung cấp thông tin chân thực, khách quan theo cả hai chiều. Tính chân thực khách quan chính là điểm mấu chốt trong việc đưa ra những đánh giá đúng đắn dư luận xã hội. Một mặt, với khả năng thông tin nhanh nhạy, chính xác, báo chí là phương tiện tối ưu để truyền tải đến công chúng đường lối, chính sách, hướng dẫn về phương thức, tính chất hoạt động của Nhà nước và các tổ chức xã hội. Mặt khác, báo chí phản ánh đời sống hiện thực với những “phản ứng” của xã hội một cách kịp thời và chân thực. Sự định hướng dư luận của báo chí thể hiện qua việc đăng tải các bài bình luận, phân tích và giải thích các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước để quần chúng hiểu, động viên và tổ chức họ áp dụng các chính sách đó vào thực tế đời sống. Báo chí tham gia vào việc kiểm tra các cơ quan TW, địa phương, các tổ chức, cá nhân trong xã hội trong việc thực hiện các quy định của luật pháp và các quy ước văn hoá xã hội của đời sống nhân dân. Hoạt động này đòi hỏi báo chí phải phát hiện kịp thời những sai lầm, khuyết điểm, những khó khăn, cản trở trong việc tổ chức và thực hiện các quy tắc xã hội. Kết qủa hoạt động kiểm tra, giám sát của báo chí là nguồn thông tin quan trọng để giúp các cơ quan có thẩm quyền kịp thời uốn nắn và có những biện pháp điều chỉnh thích hợp. Vấn đề quan trọng đặt ra cho báo chí cách mạng trong kiểm tra, giám sát là chỉ ra các sai lầm, khuyết điểm trên cơ sở xây dựng theo chiều hướng tốt đẹp, tích cực, chứ không phải là phủ nhận hoặc đánh đổ. Đó cũng là ý nghĩa của tinh thần Phản biện trên báo chí. “Phải phê bình với tinh thần thành khẩn, xây dựng (trị bệnh cứu người). Chớ phê bình lung tung, không chịu trách nhiệm. ( Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb Sự thật, Hà Nội. 1989).
Báo chí là diễn đàn của nhân dân và sự giám sát, phản biện của dư luận xã hội được thể hiện ngày càng sâu sắc trên báo chí. Nhân dân có thể phát biểu ý kiến, nguyện vọng của mình về các vấn đề trong đời sống xã hội. Sự dân chủ trong hoạt động báo chí một phần là do sự dân chủ trong trình bày ý kiến của công chúng. Thông qua báo chí, quần chúng thể hiện sự giám sát và phản biện xã hội của mình. Trên cơ sở ý kiến nhân dân, lập trường chính trị và sự am hiểu các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội của nhà báo, tờ báo, tính giám sát và phản biện của báo chí cao hơn, sâu sắc, hiệu quả và có tác động mạnh mẽ hơn. Vì vậy, điều quan trọng là báo chí phải tạo được niềm tin đối với công chúng, niềm tin đối với sự trung thực, khách quan, dũng cảm và tiến bộ. Để làm được điều này, báo chí cần phải góp phần tăng cường dân chủ hoá các mặt đời sống xã hội, tổ chức và động viên nhân dân tham gia vào hoạt động quản lý xã hội, mà trước hết là tham gia vào các diễn đàn, đóng góp ý kiến trên báo chí.
Báo chí cần thông tin cho nhân dân về tình trạng của dư luận xã hội trên các vấn đề đang tạo nên mối quan tâm chung của toàn thể xã hội, nhất là những vấn đề có tính cấp bách. Hình thành dư luận xã hội về một vấn đề nhằm thúc đẩy hoặc hạn chế sự phát triển của thực tế đó. Góp phần điều chỉnh hành vi của các cá nhân trong xã hội, làm tăng cường tính tích cực chính trị của quần chúng. Tích cực chính trị thể hiện ở việc quần chúng quan tâm, thảo luận, góp ý kiến xây dựng và phản biện cho các vấn đề xã hội.
Báo chí trước đây còn coi trọng chức năng thông tin tuyên truyền, phổ biến các chính sách từ phía các cấp lãnh đạo. Gần đây, quan điểm về làm báo đã thay đổi, báo chí ngày càng làm tốt chức năng “ diễn đàn của nhân dân”. Nhân dân có thể thông qua các ban Bạn đọc, Hộp thư, Đường dây nóng, mục Góp ý kiến, bình chọn…trên tất cả các loại hình báo chí từ báo in, đến phát thanh, truyền hình, báo điện tử để phát biểu, thể hiện ý kiến và nguyện vọng của mình. Vai trò Giám sát và phản biện của dư luận xã hội ngày càng được thể hiện sâu sắc trên báo chí. Mặc dù, do tính chất của truyền thông đại chúng, sự phản hồi diễn ra chậm, gián tiếp nhưng dư luận xã hội-thước đo của tâm trạng xã hội đã có được một diễn đàn sâu rộng để thể hiện. Nhân dân thông qua báo chí để góp ý kiến về các Dự thảo luật, các chính sách liên quan đến quốc kế dân sinh; phát hiện và yêu cầu các cơ quan chức năng làm sáng tỏ và xử lí nghiêm minh những vụ việc vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức xã hội…Báo chí cần tôn trọng ý kiến của nhân dân, tạo niềm tin cho quần chúng, trở thành “cây bút có thẩm quyền”. Có thể nói, tai mắt của nhân dân đã thực sự góp phần vào sự phát triển và định giá của tờ báo.
2.2 Báo chí Giám sát và Phản biện xã hội thông qua những tính chất đặc thù
Trong vai trò giám sát và phản biện của mình, báo chí không chỉ thông tin mà còn phải thể hiện chính kiến, quan điểm của mình đối với các vấn đề trong cuộc sống xuất phát từ phía các cơ quan chức năng và cả từ phía quần chúng.
Tính chân thật là nguyên tắc quan trọng hang đầu của báo chí. Trong điều kiện của một Đảng cầm quyền, báo chí trở thành báo chí xã hội chủ nghĩa, nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật là quan điểm của Đảng, đồng thời là sự cụ thể hoá tính chân thật của báo chí trong tình hình mới.
Sự thật có mặt tốt, mặt chưa tốt, thậm chí có mặt xấu. Sự thật hay bị che dậy bởi thói khoa trương, thổi phồng thành tích. Nhìn thẳng vào sự thật để giám sát và phản biện xã hội có nghĩa là phải nói đầy đủ cả những điểm tốt, thành công và những khuyết điểm, khó khăn, thất bại. Đánh giá đúng sự thật đặt ra yêu cầu ở mức độ cao hơn, gắn liền với nhìn thẳng vào sự thật. Nhìn thẳng vào sự thật cho chúng ta thấy những dữ kiện đầy đủ, tình hình thực tế đang diễn ra. Đánh giá đúng sự thật lại cần đòi hỏi người viết có phương hướng và năng lực tư duy, để có thể trình bày một cách chân thực và đi đế bản chất của thông tin sự việc. Có thể nói, nhìn thẳng vào sự thật và đánh giá đúng sự thật là sự cụ thể hoá của chức năng giám sát và phản biện xã hội của báo chí.
Tính công khai là một trong những tính chất của báo chí. Tính công khai n