Có thể nói trong cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã xuất hiện nhiều anh hùng kiệt xuất. Những anh hùng này đều thực hiện một nhiệm vụ chung mà cuộc đấu tranh ở bất cứ thời kỳ nào đều phải đảm nhận: bảo vệ tổ quốc, giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước. Song mỗi anh hùng ở mỗi thời đại lại lãnh trách nhiệm khác nhau trong nhưng điều kiện và theo một yêu cầu không giống nhau và truyền lại cho thế hệ sau tiếp biết.
Đây là điều kiện chúng ta tìm thấy ở Hồ Chí Minh một nét truyền thống của anh hùng dân tộc trong quá khứ quyện chặt với một yếu tố của thời đại của bản thân.
Các anh hùng dân tộc thường xuất hiện ở những thời điểm gay go phức tạp nhất đối với vận mạnh dân tộc lúc mà quần chúng nhân dân cần có người tập hợp, lãnh đạo các cuộc đấu tranh. Tư tưởng hành động sáng suốt của cá nhân được đông đảo quần chúng ủng hộ đã đưa cuộc đấu tranh đi đến thắng lợi.
Hồ Chí Minh đước sản sinh trong truyền thống dân tộc kết hợp với nhưng điều kiện cụ thể của đất nước và quê hương, một yêu cầu của lịch sử Xã Hội Việt Nam thế kỹ XX và thời đại.
Hồ Chí Minh hiện thân của tinh hoa dân tộc, có vai trò rất lớn trong sự thắng lợi của CMVN. Đặc biệt là cách mạng tháng 8. Vậy Hồ Chí Minh đã có vai trò như thế nào để đưa đến sự thắng lợi trong Cách Mạng tháng 8?.
Xuất phát từ lý do trên tôi chọn đề tài “Vai trò của Hồ Chí Minh đối với thắng lợi của cánh mạ ng tháng 8 năm 1945 làm đề tài của bài tập lớn học phần lịch sử Việt Nam cận đại”.
21 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 10112 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Vai trò của Hồ Chí Minh đối với mạng tháng 8 năm 1945, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận
Vai trò của Hồ Chí Minh đối với mạng tháng 8 năm 1945A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Có thể nói trong cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã xuất hiện nhiều anh hùng kiệt xuất. Những anh hùng này đều thực hiện một nhiệm vụ chung mà cuộc đấu tranh ở bất cứ thời kỳ nào đều phải đảm nhận: bảo vệ tổ quốc, giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước. Song mỗi anh hùng ở mỗi thời đại lại lãnh trách nhiệm khác nhau trong nhưng điều kiện và theo một yêu cầu không giống nhau và truyền lại cho thế hệ sau tiếp biết.
Đây là điều kiện chúng ta tìm thấy ở Hồ Chí Minh một nét truyền thống của anh hùng dân tộc trong quá khứ quyện chặt với một yếu tố của thời đại của bản thân.
Các anh hùng dân tộc thường xuất hiện ở những thời điểm gay go phức tạp nhất đối với vận mạnh dân tộc lúc mà quần chúng nhân dân cần có người tập hợp, lãnh đạo các cuộc đấu tranh. Tư tưởng hành động sáng suốt của cá nhân được đông đảo quần chúng ủng hộ đã đưa cuộc đấu tranh đi đến thắng lợi.
Hồ Chí Minh đước sản sinh trong truyền thống dân tộc kết hợp với nhưng điều kiện cụ thể của đất nước và quê hương, một yêu cầu của lịch sử Xã Hội Việt Nam thế kỹ XX và thời đại.
Hồ Chí Minh hiện thân của tinh hoa dân tộc, có vai trò rất lớn trong sự thắng lợi của CMVN. Đặc biệt là cách mạng tháng 8. Vậy Hồ Chí Minh đã có vai trò như thế nào để đưa đến sự thắng lợi trong Cách Mạng tháng 8?.
Xuất phát từ lý do trên tôi chọn đề tài “Vai trò của Hồ Chí Minh đối với thắng lợi của cánh mạ ng tháng 8 năm 1945 làm đề tài của bài tập lớn học phần lịch sử Việt Nam cận đại”.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
- Liên quan đến phạm vi nghiên cứu của đề tài đã có nhiều công trình nghiên cứu như cuốn “Vai trỏ của Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam của TS Huỳnh Công Kỳ’’, ĐHSP Huế, 2010 và “Lịch sử Việt Nam cận đại” của TS Huỳnh Công Kỳ (chủ biên), ĐHSP Huế tháng 2 /2012. Các công trình này đã trình bày một số vai trò của Hồ Chí Minh trong cách mạng nước ta đây là những tài liệu quan trọng để tôi kế thừa chỉnh lý, chọn lọc để làm bài tập lớn về “Vai trò của Hồ Chí Minh đối với mạng tháng 8 năm 1945’’.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là từ các hoạt động của Hồ Chí Minh để chỉ ra vai trò của Hồ Chí Minh đối với thắng lợi của cách mạng tháng 8.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài những hoạt động của người trước 1945.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu về vai trò của Hồ Chí Minh trong cách mạng tháng 8.
- Sưu tập và tìm kiếm các tranh ảnh gắn với những hoạt động của người trong cách mạng tháng 8 năm 1945.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Để hoàn thành bài tập lớn này tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu lịch sử, phương pháp logic …
- Tổng kết, so sánh, phân tích đối chiếu để làm rõ vai trò của Hồ Chí Minh đối với cách mạng tháng 8 năm 1945.
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG CỦA HỒ CHÍ MINH
1.1. Cuộc đời
Cuộc đời và sự nghiệp của chủ tịch Hồ Chí Minh gắn liền với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc vì độc lập tự do và tiến bộ Xã Hội. Suốt đời người phấn đấu cho mục tiêu lý tưởng này.
Hồ Chí Minh lúc nhỏ tên Nguyễn Sinh Cung, sau đổi thành Nguyễn Tất Thành, Sinh ngày 19-05-1890 trong một gia đình nhà nho yêu nước, gần gủi với nhân dân. Cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc thân sinh của người là nhà nho cấp tiến, có lòng yêu nước thương dân sâu sắc.
Quê ở Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An, đây là vùng đất rất giàu truyền thống văn hóa, đấu tranh chống ngoại xâm.
Từ thuở thiếu thời Nguyễn Tất Thành đã tận mắt chứng kiến cuộc sống nghèo khổ, bị áp bức, bốc lột đến cùng của dân tộc mình. Khi vào Huế, người tận mắt nhìn thấy tội ác thục dân Pháp và thái độ ươm heng bon phong kiến Nam Triều…Đã thôi thúc người đi tìm đương cứu nước.
Hồ Chí Minh có rất nhiều đóng góp cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam và của cá nhân. Người là “ Anh hung dân tộc Việt Nam- Chiến sĩ cách mạng quốc tế- danh nhân văn hóa thế giới”.
Từ 1911-1930” Tìm và xác định con đường cứu nước cho dân tộc.
Từ 1930-1945: Thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam và lãnh đạo nhân dân Việt Nam chiến đấu đưa đến sự thắng lợi của Cách Mạng tháng 8.
Từ 1945-1965: Trực tiếp lãnh đạo nhân dân chiến đấu chống đế quốc Mỹ, đã tiến hành nhiều hoạt động đối ngoại để nâng cao vị thế quốc tế của Cách Mạng nước ta và tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế.
Ngày 2-9-1969 Hồ Chí Minh qua đời đó là sự tổn thất rất lớn của dân tộc và nhân loại.
1.2. Sự nghiệp cách mạng
Phát huy truyền thống yêu nước bất khuất của dân tộc, truyền thống tốt đẹp của gia đình, phương hướng, với sự nhạy cảm đặc biệt về chính trị, Hồ Chí Minh đã sớm nhận ra những mắt hạn chế của những bậc tiền bối đi trước. Nguyễn Ái Quốc đã tự định ra cho mình một hướng đi mới.
Năm 1911 Nguyễn Tất Thành rời tổ quốc sang phương tây tìm đường cứu nước.
Năm 1919 thay mặt những người yêu nước tại Pháp, Nguyễn Ái Quốc gửi bản yêu sách của nhân dân An Nam tới hội nghị Vécxây, đòi chính phủ Pháp thừa nhận các quyền tự do, dân chủ và bình đẳng của nhân dân Việt Nam.
Tháng 7 năm 1920 người đọc sơ khảo lần thứ 1 nhưng luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa.
Với việc biểu quyết tán thành Đệ Tam Quốc Tế (Quốc Tế III, tham gia thành lập Đảng Cộng Sản Pháp (tháng 12-1920) trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên.
Trong giai đoạn từ năm 1921 đến năm 1930 Nguyễn Ái Quốc có những hoạt động thực tiễn và hoạt động lý luận hết sức phong phú, sôi nổi trên địa bàn đất nước pháp ( 1921-1923) Liên Xô (1923-1924) Trung Quốc (1924-1927) Thái Lan (1928-1929) Trong thời gian này tư tưởng Hồ Chí Minh về Cách Mạng Việt Nam đã hình thành về cơ bản.
Tại Hương Cảng Trung Quốc Tháng 3-1930 người thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam
Tháng 10-1938 Nguyễn Ái Quốc tù Mátscơva về Trung Quốc.
Ngày 28-1-1941 sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài Nguyễn Ái Quốc trở về Tổ Quốc. Tại hội nghị trung ương lần Thứ 8 (từ 10 đến 19-5-1941 ) họp tại Pác Bó (Cao Bằng) Dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc, Ban chấp hành Tương Đảng Cộng Sản Đông Dương đã hoàn chỉnh việc chuyển hướng chiến lược của Cách Mạng Việt Nam.
CHƯƠNG 2. VAI TRÒ CỦA HỒ CHÍ MINH ĐỐI VỚI THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG THÁNG 8 NĂM 1945
2.1. Tình hình thế giới và trong nước
Đến đầu tháng 3-1945, chiến tranh thế giới thứ hai bước vào thời kỳ kết thúc, hồng quân Liên Xô Đã giải phóng hoàn toàn lảnh thổ Liên Xô Viết và đang đứng ở ngưỡng cửa sào huyệt của pháp xit Đức.
Nước Pháp được giải phóng, chính phủ kháng chiến Đờ Gôn lên cầm quyền. Ở mặt trận Thái Bình Dương, Nhật thất bại liên tiếp và đang bị hải quân Anh Mỹ phong tỏa. Nhật lúc bấy giờ chỉ còn con đường liên lạc duy nhất ở Đông Á- Nhật qua Đông Dương, vì Nhật cố bám lấy Đông Dương.
Ở Đông Dương, mâu thuẫn Nhật-Pháp ngày càng trở nên gay gắt. Bọn Pháp Đờ Gôn đang hoạt động ráo riết, âm mưu chờ đợi quân đồng minh vào đánh Nhật thì sẽ nhân cơ hội Phục quyền thống trị của chúng ở Đông Dương. Bọn Nhật biết rõ âm mưu của Pháp Đờ Gôn Nhưng chứng chưa làm ngay cuộc đảo chính để truất hẳn quyền bọn Pháp ở Đông Dương vì chúng biết rằng nếu cuộc xung đột quyết liệt giữa Pháp và Nhật nổ ra thì nhân dân Đông Dương nhân cơ hội đó nổi dậy tiêu diệt chúng. Chính vì vậy, mà Nhật-Pháp bề ngoài tạm hòa hoãn được ngày nào hay ngày đó. Nhưng chiến tranh không không cho phép chúng hòa hoản thế mãi đứng như nhân định ban thường vụ Trung Ương Đảng: “ Sự hòa hoãn này có khác chi một cáu nhọt bộc, chứa chất bên trong biết bao nhiêu vi trùng và máu mủ,chờ dịp chin mõm là vỡ tung ra…Cả hai quân thủ của nhân dân ta là Pháp-Nhật đang đóng một tấm kịch vô cùng giả dooivoo cùng nguy hiểm cho chúng, cả hai điều đang sửa soạn tiến tới chổ tao sống mày chết quyết liệt cùng với nhau”. Nhưng tình hình ngày càng nguy ngập ở Thái Bình Dương, đã buộc bọn Pháp xít Nhật làm cuộc đảo chính lật đổ Pháp độc chiếm Đông Dương để trừ mối họa quân Pháp đánh sau lưng khi quân đồng minh đổ bộ vào Đông Dương.
Vì vậy, đêm 9-3-1945 Nhật nổ sung đánh Pháp cùng một lúc trên toàn Đông Dương. Quân Pháp chống cự yếu ớt, chỉ trong 3 ngày đã hền nhát đầu hang Nhật. Trong một thời gian ngắn ngủi, Toàn bộ máy thống trị thực dân Pháp ở Đông Dương bị spj đổ hoàn toàn.
Sau ngày 9-03-1945, Nhật vẫn duy trì bộ máy hành chính cũ của Pháp, chỉ thay thế viên chức của Pháp bằng viên chức của Nhật ở csc vị trí quan trọng. Lực lượng quân đội và cảnh sát của Pháp bị thay đổi khá triệt để. Hàng vạn quân Pháp và cảnh sát bị bắt giam giữ. Quân Nhật và Hiến binh được triển khai ở những vị trí chiến lược trên toàn Đông Dương. Nhật thành lập quân đội và cảnh sát bản xứ. Lực lượng bảo an binh được thành lập. Chính phủ thân Nhật do Trân Trong Kim đứng đầu đẫ thiết lập nhưng không có hữu hiệu mấy.
Sau khi lật đổ Pháp, Nhật chỉ giao cho Bảo Đại-Trần Trọng Kim cai quản Trung Kì. Trước nguy cơ thất bại ngày càng đến gần, Nhật mới trao trả dần Bắc Kì (2-05-1945), ba thành phố Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng (20-07-1945) và Nam Bộ (14-08-1945).
Cuộc đảo chính đã tạo ra một cuộc khủng hoảng chính trị khá trầm trọng ở Đông Dương.
2.2. Vai trò của Hồ Chí Minh đối với thắng lợi của cách mạng tháng 8 năm 1945
2.2.1. Hồ Chí Minh cùng trung ương Đảng hoàn chỉnh chủ yếu hướng chỉ đạo chiến lược Cách Mạng
* Hội nghị trung ương lần thứ 8 (05-1941).
Hội nghị trung ương Đảng (11-1039) đã đánh dấu sự chỉ đạo về chiến lược, sách lược cách mạng. Hội nghị Trung ương Đảng (11-1940) đả khẳng định những quân điểm của hội nghị trước đồng thời bổ sung một số điểm mới.
Thứ nhất: trên cơ sở khẳng định hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng dân tộc dân chủ, đả kịp thời chuyển hướng sự chỉ đạo chiến lược, nhằm tập trung giải quyết nhiệm vụ hang đầu là đánh đổ đế quốc tay sai, giành độc lập.
Hội nghị trung ương Đảng tháng 11-1939 xác định kẻ thù cụ thể, nguy hiểm nhất của cách mạng Đông Dương không phải là đó quốc và bọn tay sai phản bội dân tộc. Hội nghị đã khẳng định: “ Bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không còn con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc pháp, chống tất cả ách ngoại xam, vô luận da trắng hay da vàng, để tranh lấy giải phóng dân tộc”. Hội nghị trung ương Đảng lần thứ VIII nêu bật: “Nhiệm vụ giải phóng dân tộc, độc lập cho đất nước là nhiệm vụ trước tiên của Đảng ta; “Trong lúc này, không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đọi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia,dân tộc còn mãi chịu kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được” : “trong giai đoạn hiện tại,…nếu không đánh đuổi thực dân Pháp-Nhật thì vận mạng của dân tộc phải chịu kiếp ngựa trâu muôn đời, mà vấn đề ruộng đất cũng không làm sao gải quyết được”.
Để tập trung mũi nhọn cách mạng và kẻ thù chủ yếu của dân tộc, Đảng đã tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, mà chỉ ra khẩu hiệu giảm tô, giảm tức, tịch thu ruộng đất của bon đế quốc và bọn việt gian phản quốc chia cho nông dân, chia lại công điền cho hợp lý.
Đế quốc tay sai là kẻ thù chủ yếu của dân tộc, phải chĩa mũi nhọn đấu tranh đánh đổ chúng. Đó là chủ trương thực tế xã hội Việt Nam lúc đó là xã hội thuộc địa, nửa phong kiến. Chủ trương đó nhằm phân hóa sâu sắc hang ngũ kẻ thù, tạo đều kiện tranh thủ thêm bạn đồng minh của cách mạng, nhằm tập trung lực lượng đánh đổ kể thù nguy hiểm nhất.
2.2.2. Công lao trong cuộc xây dựng lực lượng Cách Mạng
-Hồ Chí Minh có công lao lớn trong cuộc xây dựng Lực lượng cách mạng.
Lực lực lượng cách mạng bao gồm có lục lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân. Để có lực lượng chính trị Người cho thành lập Mặt Trận Việt Minh ngày 19-05-1941) và đề ra Cương lĩnh 10 điểm cho Mặt Trận. Mặt trận Việt Minh có thành phần rất rộng, bao gồm tất cả các giai cấp, các tầng lớp yêu nước trong xã hội…Mặt trận Việt Minh và các hội cứu quốc chính là lực lượng chính trị hung hậu, là tượng trưng cho khối đại đoàn kết toàn dân.
Đến ngày 22/12/1944 người ra chỉ thị thành lập Đội “VIệt Nam tuyên truyền giải phóng quân” và đề ra hình thức hoạt động cho đội việt nam tuyên truyền, nghĩa là vừa đấu tranh chính trị, vừa đấu tranh vũ trang, nhưng lúc đầu chính trị phải trọng hơn quân sự.
Đội việt nam tuyên truyền giải phóng quân chính là tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam ngày nay. Tới thang04-1945, Người lại cùng trung ương Đảng cho triệu tập hội nghị quân sự Bắc Kỳ. Hội nghị đã ra quyết định thành lập Ủy quân sự Bắc Kỳ và cho hợp nhất hai đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và cứu quốc quân thành đội “Việt Nam giải phóng quân”. Nhờ có hai lực lượng chính trị, vũ trang trên, ta đã sử dụng kết hai hình thức đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang để tiến hành tổng khởi nghĩa.
- Hồ Chủ Tịch có công lớn trong xây dựng căn cứ địa cách mạng.
Căn cứ địa cách mạng có vai trò rất quân trọng vì là nhân tố thường xuyên quyết định thắng lợi của cách mạng nên khi đặt chân về nước Người đã cho xây dựng căn cứ Pắc Bó (Cao Bằng). Người chọn nơi đây là chổ đứng chân đầu tiên là vừa để tiện chỉ đạo phong trào trong nước, vừa để liên hệ với phong trào Cách mạng Thế giới. Từ Pắc Bó dần được mở rộng ra được nhiều nơi ở cấc tỉnh Cao-Bắc-Lạng. Lúc này Hồ Chủ Tịch còn ra chỉ thị Nam tiến để mở rộng dần căn cứ xuống các tỉnh miền xuôi. Đếm tháng 06/1945 Người Cùng với trung ương thành lập Ku giải phóng Việt Bắc gốm 6 tỉnh Cao-Bắc-Lạng-Hà-Tuyên-Thái. Trong khu giải phóng Người cho thi hành 10 chính sách của mặt trận VIệt Minh để biến khu giải phóng thành chổ dựa vững mạnh của cách mạng cả nước, đồng thời thí điểm một bước những chính sách ấy, rút kinh nghiệm trước khi rút ra cả nước sau này (10 chính sách ấy là đường lối đối nội và đối ngoại của Nhà Nước ta ngày nay). Từ căn cứ địa, khi thời cơ đến ta đã tiến lên giải phóng cả nước.
2.2.3. Công lao trong việc tranh thủ sự ủng hộ của Quốc tế
Đến giữa năm 1942, việc thực hiện Nghị quyêt Hội nghị Trung ương VIII đã thu được nhiều kết quả. Phong trào chuyển biến mạnh. Nguyễn Ái Quốc nhận thấy cần phải liên hệ với phe đồng minh phát xít, tranh thủ sự giúp đỡ của họ để mở rộng ảnh hưởng hoạt động Việt Minh. Đây là một nhiệm vụ rất quan trọng nhưng đầy nguy hiểm và phức tạp. Nguyễn Ái Quốc đã đảm đương nhiệm vụ này. Tối 13/08/1942 với hai giấy giới thiệu mang tên Hồ Chí Minh đại diên cho hai tổ chức (Việt Nam độc lập đồng minh, Quốc tế phản xâm lược Việt Nam phân hội). Người đã lên đường sang Trung Quốc. Người đã bị chính quyền ở Túc Vinh (Vĩnh Tây) bắt giam, giải qua 30 nhà tù ở 13 huyện thuộc Quảng Tây. Đến tháng 9/1943 mới được thả. Cuối tháng 10/1943, Người bắt đầu tham gia một số hoạt động của tổ chức Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội, kêu gọi mở rộng đoàn kết các lực lượng yêu nước, các đảng phái chính trị thành mặt trận thống nhất để đấu tranh giải phóng dân tộc, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước Đồng minh, trước hết là của Trung Quốc nhằm hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, góp phần liên kết các lực lượng quốc tế chống phát xít Nhật, tạo ra nhịp cầu giữa cách mạng VIệt Nam và Quốc tế.
Tháng 2/1945. Hồ Chí Minh đi Côn Minh-Trung Quốc với quyết định bắt liên lạc với phe Đồng Minh (Mỹ) nhằm tranh thủ sự ủng hộ. Quan hệ hợp tác Việt-Mỹ được thiết lập trong công cuộc đấu tranh chống pháp xít Nhật.
2.2.4. Nhận định thời cơ và chớp thời cơ trong lảnh đạo tổng khởi nghĩa cách mạng tháng 8 năm 1945
Vấn đề thời cơ khởi nghĩa đã được V. I. Lê-nin nêu rõ trong tác phẩm Chủ nghĩa Mác và khởi nghĩa, coi khởi nghĩa là một nghệ thuật khi hội tụ ba điểm chủ yếu: "Muốn thắng lợi, khởi nghĩa không được dựa vào một cuộc âm mưu, một chính đảng, mà phải dựa vào giai cấp tiền phong. Đó là điểm thứ nhất. Khởi nghĩa phải dựa vào cao trào cách mạng của nhân dân. Đó là điểm thứ hai. Khởi nghĩa phải dựa vào một bước ngoặt trong lịch sử của cuộc cách mạng đang lên, khi mà tính tích cực của những bộ phận tiên tiến trong nhân dân lên cao hơn cả, khi mà những dao động trong hàng ngũ địch và trong hàng ngũ những người bạn mềm yếu, lừng chừng và không kiên quyết của cách mạng, mạnh hơn cả. Đó là điểm thứ ba"(2). ở nước ta, thời điểm tháng 8-1945 thật sự là một bước ngoặt lịch sử khi Đảng và giai cấp tiên phong đã phát triển mạnh mẽ, sẵn sàng đưa quần chúng vào hành động cách mạng với bản Chỉ thị Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta (ngày 12-3-1945) và Quyết định của Hội nghị Đảng toàn quốc ở Tân Trào (tháng 8-1945), đồng thời cao trào Kháng Nhật cứu nước đã mạnh hơn bao giờ hết, và kẻ thù (Nhật và chính quyền tay sai) đã hoang mang, dao động, nhất là khi Nhật tuyên bố đầu hàng Đồng minh (ngày 15-8-1945), và lực lượng quần chúng trung gian ngả về hàng ngũ cách mạng. Đảng đã quyết tâm phát động khởi nghĩa trong điều kiện như thế và đã giành thắng lợi.
Ngày 9/03/1945 đúng như dự đoán của Đảng và Hồ Chí Minh, Nhật tiến hành đảo chính Pháp trên toàn cõi Đông Dương, tạo ra tình hình khủng hoảng chính trị sâu sắc. Đảng ta và Hồ Chí Minh chủ trương “phát động phong trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa”. (thể hiện trong chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau về hành động của chúng ta” vào ngày 12/03/1945). Chủ trương trên thể hiện rõ sự lãnh đạo sáng suốt, kiên quyết kịp thời sáng tạo, làm kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng làm kim chỉ nam cho kháng Nhật cứu nước dẫn tới thắng lợi trực tiếp của tổng khởi nghĩa tháng 8/1945. Đầu tháng 6/1945. Hồ Chí Minh quyết định thành lập khu giải phóng Việt Bắc.
Cuối tháng 7/1945 tại bản Nà Lừa. Hồ Chí Minh nói với Võ Nguyên Giáp: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiêm quyết giành cho được độc lập” Nhờ chủ trương đúng đắn, đến đầu tháng 8/1945, lực lượng cách mạng đã thống nhất toàn quốc. Chiến tranh du kích và khởi nghĩa từng phần, thành lập chính quyền cách mạng kết hợp đấu tranh chặt chẽ với đấu tranh chính trị ở nhiều địa phương. Đội tiên phong cách mạng của giai cấp công nhân và toàn thể dân tộc Việt Nam đã chuẩn bị đầy đủ các điều kiện cho một cuộc tổng khởi nghĩa, chỉ chờ thời cơ khách quan thuận lợi là cuộc tổng khởi nghĩa có thể nổ ra.
Sau khi Mỹ thả quả bom nguyên tử đầy tiên xuống Hirosima (Nhật Bản). Người chỉ thị chuẩn bị họp gấp Hội nghị toàn quốc của Đảng. Theo giỏi sát tình hình của thế giới, ngày 21/08/1945. Người nhận đươc tin Chính phủ Nhật gửi công hàm cho phe Đồng minh đề nghị đàm phán ngừng bắn và lập lại hòa bình. Quân Nhật ở Đông Dương mất tinh thần hoang mang riệu rã. Chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim hoàn toàn tê liệt từ trên xuống dưới, nhưng phát xít Nhật và bè lủ tay sai còn có những âm mưu vớt vát cứu nguy cho chế độ thuộc địa trong cơn hấp hối. Ngọn lửa cách mạng của quần chúng lên cao chưa từng thấy. Các tầng lớp trung gian đã ngã hẳn về cách mạng. Tình hình trên đây chứng tỏ tình thế cách mạng trực tiếp đã chin muồi. Thời cơ ngàn năm có một đã xuất hiện.
Song cách mạng nước ta đang đứng trước tình thế một mình đối phó với nhiều kẻ thù vì các thế lực Anh, Pháp, Mỹ, Trung Hoa Dân Quốc điều có mưu đồ riêng đối với đông dương. Bọn Việt Nam Quốc dân đảng. Việt Nam cách mạng Đồng minh hội theo quân đội Trung Hoa Dân Quốc kéo về nước mưu toan cướp chính quyền. Lợi dụng thời cơ, bọn phản động trong nước cũng hoạt động ráo riết chống phá. Trước tình thế trên Đảng ta đứng dầu là Hồ Chí Minh đã có quyết định sang suốt: phát động toàn dân tổng khởi nghĩa giành chính quyền từ quân đội Nhật với tư cách làm chủ nhà nước đón tiếp quân Đồng minh vào giải giáp quân Nhật, trước khi quân Pháp tập hợp tàn quân và đưa quân viễm chinh xâm lược nước ta một lần nữa để phá tan âm mưu của chủ nghĩa đế quốc. Chủ trương trên được thể hiện trong Nhị quyết của Hội nghị toàn quốc của Đảng( Từ 13 đến 14-08-1945) và Đại hội Quốc dân Tân Trào (Từ 16 đến 17-08-1945). Việc chớp lấy thời cơ cũa Đảng và Hồ Chí Minh trên đây rất sáng suốt và kịp thời. Vì thời cơ Cách mạng than Tám chỉ diễm ra từ khi Pháp xít Nhật đầu hang Đồng minh không điều kiện đến cuối tháng 8/1945, nếu khởi nghĩa trước ngày Pháp xít Nhật đầu hàng (12-8) thì cách mạng không thể thắng lợi được vì quân Nhật còn mạnh: còn nếu chần chừ không chớp lấy thời cơ, khi quân Đồng minh vào giải giáp quân Nhật mới khởi nghĩa thì cách mạng cũng không thành công vì thực tiễn lịch sử cho thấy khi quân Đồng minh vào Đông Dương, chúng đã có âm mưu bóp chết cách mạng nước ta,