Tiểu luận Vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam

Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890 tại làng Hoàng Trù, nay thuộc xã Kim Liên huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An. Trong quãng thời gian từ khi sinh ra đến trước khi xuất dương, Bác đã sinh sống ở nhiều nơi. Đó là quê hương Nghệ Tĩnh với truyền thống yêu nước và đấu tranh chống Pháp kiên cường. Đó là thành Huế với bao cảnh đau lòng của một dân tộc bị làm nô lệ, Nguyễn Tất Thành là người thanh niên vượt qua gian khó, đã sớm bộc lộ mầm mống trí lớn của một con người mà sau này trở thành anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới. Thời thanh niên, Nguyễn Tất Thành được học chữ Hán, rồi chữ Pháp của nền giáo dục thực dân. Vốn là con người thông minh ham học hỏi, Nguyễn Tất Thành đã để ý đến câu khẩu hiệu của nước Pháp: tự do – bình đẳng – bác ái. Và người tự hỏi, đằng sau ba chữ đó là sự thật như thế nào. Và vì sao dân tộc ta vẫn phải chịu cảnh nô lệ lầm than. Những câu hỏi đó cộng với lòng yêu nước, ý chí vượt khó đã thôi thúc Người ra đi tìm đường cứu nước. Từ 1911-1920, Hồ Chí Minh đã khảo sát các cuộc cách mạng lớn trên thế giới. Năm 1920, lần đầu tiên Nguyễn Ái Quốc đọc được "Sơ thảo luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa" của Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã sáng tỏ, tin tưởng và cảm động đến phát khóc .Với việc gia nhập quốc tế cộng sản III, Nguyễn Ái Quốc đã từ chủ nghĩa yêu nước đến với Chủ Nghĩa Mac-Lenin, từ giác ngộ dan tộc đến giác ngộ giai cấp, từ người yêu nước trở thành người cộng sản. Nguyễn Ái Quốc đã hoạt động lý luận và thực tiễn trong Đảng Cộng Sản Pháp và Quốc Tế Cộng Sản. Năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu, sáng lập Hội Việt Nam thanh niên cách mạng, xuất bản báo Thanh niên, mở lớp huấn luyện chính trị, đào tạo cán bộ, đưa họ về nước hoạt động. Nguyễn Ái Quốc xuất bản tác phẩm "Bản án chế độ thực dân Pháp" 1925, "Đường Kách Mệnh" 1927. Tháng 2/1930, Hồ Chí Minh soạn thảo Chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, điều lệ vắn tắt. Tất cả điều đó hình thành cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường CM GPDT của VN.

docx13 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 7478 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC I. Mở đầu II. Quan điểm của Hồ Chí Minh về Cách Mạng Giải Phóng Dân Tộc (CM GPDT) CM GPDT muốn thắng lợi phải đi theo con đường Cách mạng vô sản (CMVS). CM GPDT muốn thắng lợi phải do đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. CM GPDT là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân, trên cơ sở liên minh công- nông. CM GPDT cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. CM GPDT phải được thực hiện bằng con đường bạo lực, kết hợp lực lượng chính trị của quần chúng với lực lượng vũ trang trong nhân dân. III. Vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam (VN) 1. Giai đoạn từ năm 1911-1930: 20 năm hoạt động sôi nổi, gian khó, dũng cảm và sáng tạo với tư cách một chiến sĩ cộng sản Quốc tế và người sáng lập ra đảng Cộng sản Việt Nam. 2. Giai đoạn từ 1930 đến 1945 : Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh lãnh đạo Đảng chuẩn bị về mọi mặt cho Tổng khởi nghĩa giành chính quyền IV.Kết luận I. Mở đầu Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890 tại làng Hoàng Trù, nay thuộc xã Kim Liên huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An. Trong quãng thời gian từ khi sinh ra đến trước khi xuất dương, Bác đã sinh sống ở nhiều nơi. Đó là quê hương Nghệ Tĩnh với truyền thống yêu nước và đấu tranh chống Pháp kiên cường. Đó là thành Huế với bao cảnh đau lòng của một dân tộc bị làm nô lệ, Nguyễn Tất Thành là người thanh niên vượt qua gian khó, đã sớm bộc lộ mầm mống trí lớn của một con người mà sau này trở thành anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới. Thời thanh niên, Nguyễn Tất Thành được học chữ Hán, rồi chữ Pháp của nền giáo dục thực dân. Vốn là con người thông minh ham học hỏi, Nguyễn Tất Thành đã để ý đến câu khẩu hiệu của nước Pháp: tự do – bình đẳng – bác ái. Và người tự hỏi, đằng sau ba chữ đó là sự thật như thế nào. Và vì sao dân tộc ta vẫn phải chịu cảnh nô lệ lầm than. Những câu hỏi đó cộng với lòng yêu nước, ý chí vượt khó đã thôi thúc Người ra đi tìm đường cứu nước. Từ 1911-1920, Hồ Chí Minh đã khảo sát các cuộc cách mạng lớn trên thế giới. Năm 1920, lần đầu tiên Nguyễn Ái Quốc đọc được "Sơ thảo luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa" của Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã sáng tỏ, tin tưởng và cảm động đến phát khóc .Với việc gia nhập quốc tế cộng sản III, Nguyễn Ái Quốc đã từ chủ nghĩa yêu nước đến với Chủ Nghĩa Mac-Lenin, từ giác ngộ dan tộc đến giác ngộ giai cấp, từ người yêu nước trở thành người cộng sản. Nguyễn Ái Quốc đã hoạt động lý luận và thực tiễn trong Đảng Cộng Sản Pháp và Quốc Tế Cộng Sản. Năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu, sáng lập Hội Việt Nam thanh niên cách mạng, xuất bản báo Thanh niên, mở lớp huấn luyện chính trị, đào tạo cán bộ, đưa họ về nước hoạt động. Nguyễn Ái Quốc xuất bản tác phẩm "Bản án chế độ thực dân Pháp" 1925, "Đường Kách Mệnh" 1927. Tháng 2/1930, Hồ Chí Minh soạn thảo Chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, điều lệ vắn tắt. Tất cả điều đó hình thành cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường CM GPDT của VN. II. Quan điểm của Hồ Chí Minh về Cách Mạng Giải Phóng Dân Tộc (CM GPDT) 1.CM GPDT muốn thắng lợi phải đi theo con đường Cách Mạng Vô Sản (CMVS). Sở dĩ các phong trào yêu nước VN cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 thất bại là do chưa có đường lối và phương pháp đấu tranh đúng đắn. Khi chủ nghĩa đế quốc (CNĐQ ) đã thành một hệ thống thế giới thì một mặt, chúng đấu tranh với nhau để giành giật thuộc địa, mặt khác, chúng thống nhất với nhau để đàn áp phong trào đấu tranh của các dân tộc thuộc địa. Vì vậy trong cuộc đấu tranh chống CNĐQ, giai cấp vô sản chính quốc và nhân dân các dân tộc thuộc địa có chung 1 kẻ thù. CNĐQ như con đỉa hai vòi, 1 vòi bám vào chính quốc, 1 vòi bám vào thuộc địa. Muốn đánh thắng CNĐQ, phải đồng thời cắt cả hai vòi của nó đi. Vì vậy, CMVS ở chính quốc phải kết hợp với CM GPDT ở thuộc địa. "CM GPDT muốn thắng lợi phải đi theo con đường CMVS, tức là phải theo đường lối Mac-Lenin". 2.CM GPDT muốn thắng lợi phải do đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Nguyễn Ái Quốc khẳng định, muốn GPDT thành công "trước hết phải có đảng cách mệnh...đảng có vững cách mệnh mới thành công...đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt...Bây giờ chủ nghĩa nhiều, học thuyết nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin". CM GPDT phải có đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo theo nguyên tắc đảng kiểu mới của Lênin. Chỉ có cuộc cách mạng do chính đảng giai cấp vô sản lãnh đạo mới thực hiện được sự thống nhất giữa GPDT, giải phóng giai cấp, giải phóng con người (Bác phê phán các lãnh tụ yêu nước tiền bối chưa nhận thức được tầm quan trọng của chính đảng cách mạng và 1 đường lối chính trị đúng đắn). 3.CM GPDT là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân, trên cơ sở liên minh công- nông. Theo Hồ Chí Minh, cách mạng giải phóng dân tộc “ là việc chung của toàn dân chứ không phải là việc của một hai người”. Người phân tích: “ dân tộc cách mệnh chưa phân giai cấp, nghĩa là sĩ, công, nông, thương đều nhất trí chống lại cường quyền”.Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của nhân dân trong khởi nghĩa vũ trang. Người coi sức mạnh vĩ đại và năng lực sáng tạo vô tận của quần chúng là then chốt bảo đảm thắng lợi .Trong cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Người xác định lực lượng cách mạng bao gồm toàn dân tộc: Đảng phải tập hợp đại bộ phận giai cấp công nhân, nông dân, dân cày, tiểu thương …đi vào phe giai cấp vô sản; với bộ phận phú nông, địa chủ, tư bản Việt Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng thì phải đánh đổ.  Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quóc Mỹ, Hồ Chí Minh lấy dân làm nguồn gốc sức mạnh.Người đặt niềm tin ở truyền thống yêu nứơc nồng nàn của nhân dân Việt Nam . Người khẳng định: “Địch chiếm trời, địch chiếm đất nhưng làm sao chiếm lòng yêu nướic nồng nàn của nhân dân ta”. Xuất phát từ tưong quan lực lượng lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, Hồ Chí Minh chủ trương phát động chiến tranh nhân dân. Kháng chiến toàn dân gắn với kháng chiến toàn diện.Lực lượng toàn dân là điều kiện để đấu tranh toàn diện với kẻ thù đế quốc, giải phóng dân tộc.  Trong chiến tranh, “ quân sự là việc chủ chốt”, nhưng phải kết hợp chặt chẽ với đấu tranh chính trị. Đấu tranh ngoại giao cũng là một mặt trận có ý nghĩa chiến lược,có tác dụng thêm bạn bớt thù, phân hoá và cô lập kể thù, tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế. Đấu tranh kinh tế là ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm phát triển kinh tế của ta, phá hoại kinh tế của địch. Chiến tranh về mặt văn hoá hay tư tưỏng so với những mặt khác cũng không kém quan trọng”. Mục đích cách mạng và chiến tranh chính nghĩa – vì độc lập tự do,làm cho khả năng tiến hành chiến tranh mhân dân trở thành hiện thực, làm cho nhân dân tự giác tham gia kháng chiến. Tư tưởng chiến tranh nhân dân của Hồ Chí Minh là ngọn cờ cổ vũ, dẫn dắt cả dân tộc ta đứng lên kháng chiến và kháng chiến thắng lợi, đáng thắng hai đế quốc hùng mạnh làm nên tháng lợi vĩ đại có tính thời đại sâu sắc. 4. CM GPDT cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Trong phong trào cộng sản quốc tế đã từng tồn tại quan điểm cho rằng CM thuộc địa phụ thuộc vào CMVS ở chính quốc thắng lợi. Luận cương về phong trào CM ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa nêu ở đại hội VI quốc tế cộng sản 1928: "chỉ có thể thực hiện hoàn toàn công cuộc GPDTcác thuộc địa khi giai cấp vô sản giành được thắng lợi ở các nước tư bản tiên tiến". Ý kiến này đã giảm tính chủ động, sáng tạo của CM thuộc địa. Ngay từ đại hội V quốc tế cộng sản (1924), Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ: vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh GCVS ở các nước đi xâm lược thuộc địa phải gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các nước thuộc địa..." Dựa vào quan điểm của Mác, "sự nghiệp giải phóng của giai cấp công nhân phải là sự nghiệp của bản thân giai cấp công nhân". Nguyễn Ái Quốc đi đến kết luận: "công cuộc giải phóng anh, em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em." Nguyễn Ái Quốc nhận thức thuộc địa là khâu yếu của CNĐQ và nhờ đánh giá đúng sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, ngày từ năm 1924, Người đã nói: CM thuộc địa không những không phục thuộc vào CMVS ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước"..."họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở Phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn". Đây là cống hiến sáng tạo của Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mac-Lenin. CM VN đã chứng minh luận điểm của Hồ Chí Minh là đúng. 5.CM GPDT phải được thực hiện bằng con đường bạo lực, kết hợp lực lượng chính trị của quần chúng với lực lượng vũ trang trong nhân dân. a) Bạo lực cách mạng trong cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Các thế lực đế quốc sử dụng bạo lực để xâm lược và thống trị thuộc địa, đàn áp dã man các phong trào yêu nước. Chế độ thực dân , tự bản thân nó đã thành một hành động bạo lực của kẻ mạnh với kẻ yếu.Chưa đè bẹp đựoc ý chí xâm lựoc của chúng thì chưa thể có thắng lợi hoàn toàn. Vì thế con đường để giành và giữ độc lập là con đường cách mạng bạo lực. Quán triệt quan điểm sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, Hồ Chí Minh cho rằng bạo lực của cách mạng cũng là bạo lực của quần chúng.Hình thức của bạo lực cách mạng bao gồm cả đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang. Trong chiến tranh cách mạng, lực lượng đấu tranh vũ trang và đấu tranh vũ trang giữ vị trí quyết định trong việc tiêu diệt lực lượng quân sự địch, làm thất bại những âm mưu quân sự và chính trị của chúng.Nhưng đấu tranh vũ trang không tách biệt với đấu tranh chính trị. Theo Hồ Chí Minh, các đoàn thể cách mạng càng phát triển, quần chúng đấu tranh chính trị càng mạnh thì càng có cơ sở vững chắc để tổ chức lực lượng vũ trang và tiến hành đấu tranh vũ trang. Xuất phát từ tình yêu thương con người,quý trọng sinh mạng con người, Hồ Chí Minh luôn tranh thủ khả năng giành và giữ chính quyền ít đổ máu nhất. Người tìm mọi cách ngăn chăn xung đột vũ trang, tìm cách giải quyết bằng hoà bình, chủ động đàm phán, thưong lượng, chấp nhận những nhượng bộ có nguyên tắc. Việc tiến hành chiến tranh chỉ là phải pháp bắt buộc cuối cùng. Chỉ khi không còn khả năng hoà hoãn, khi kẻ thù ngoan cố bám giữ lập trường,chỉ muốn giành thắng lợi bằng quân sự, thì Hồ Chí Minh mới kiên quyết phát động chiến tranh. Trong khi tiến hành chiến tranh, Người vẫn tìm mọi cách để vãn hồi hoà bình. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Người nhiều lần gửi thư cho Chính Phủ và người dân Pháp cho các chính phủ các nhà hoạt động chính trị, văn hóa các nước vừa tố cáo cuộc chiếm tranh xâm lược của thực dân Pháp vừa kêu gọi đàm phán hoàn bình. Tư tưỏng bạo lực cách mạng và tư tưỏng nhân đạo hoà bình thống nhất biện chứng với nhau trong tư tưởng Hồ Chí Minh.Người chủ trương yêu nứoc, thương dân, yêu chuộng hoà bình, tự do, công lý,tranh thủ hoà bình giải quyết xung đột, nhưng khi không thể tránh khỏi chiến tranh thì phải kiên quyết tiến hành chiến tranh, kiên quyết dùng bạo lực cách mạng, dùng khởi nghĩ và chiến tranh cách mạng để giành, giữ và bảo vệ hoà bình, vì độc lập tự do. b) Phưong châm chiến lược đánh lâu dài trong cách mạng giải phóng dân tộc. Trước những kẻ thù lớn mạnh, Hồ Chí Minh chủ trương sử dụng phương châm chiến lược đánh lâu dài. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Người nói : “Địch muốn tốc chiến tốc thắng. Ta lấy trường kỳ kháng chiến trị nó, thì địch nhất định thua,ta nhất địng thắng”.Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi. Kháng chiến phải trường kỳ vì đất ta hẹp, dân ta ít, nước ta nghèo ta phải chuẩn bị lâu dài và phải có sự chuẩn bị toàn diện của toàn dân. Trong kháng chiến chông Mỹ, cứu nước, Người khẳng định:” Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa.Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập tự do. Đến ngày thắng lợi nhân dân ta sẽ xây dựng đất nước đàng hoàng hơn,to đẹp hơn!” Độc lập tự chủ, tự lực tự cường kết hợp với sự giúp đỡ của quốc tế là một quan điểm nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh.Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Người đã động viên sức mạnh của toàn dân tộc, đông thời ra sức vận động, trang thủ sự giúp đỡ quốc tế to lớn và có hiệu quả cả về vật chất lẫn tinh thần, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để kháng chiến thắng lợi. III.Vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam 1.Giai đoạn từ năm 1911-1930: 20 năm hoạt động sôi nổi, gian khó, dũng cảm và sáng tạo với tư cách một chiến sĩ cộng sản Quốc tế và người sáng lập ra đảng Cộng sản Việt Nam. Trong những năm đầu hoạt động cách mạng cho đến 1930. Nguyễn Ái Quốc đã có vai trò rất lớn đối với sự nghiệp CM GPDT nước nhà. Vai trò đó được thể hiện ở các mặt sau đây: Trước hết, khi rời Tổ Quốc. Người đã đi đến rất nhiều nước trên thế giới ở cả Châu Âu, Châu Mỹ, Châu Phi nhưng ở đâu Người cũng hòa mình với cuộc sống của những người dân lao động cho nên Người rất thấu hiểu nỗi khổ của họ. Những chuyến đi đó giúp Người rút ra một kết luận rằng: Trên thế giới này, ở đâu bọn đế quốc thực dân cũng đều độc ác, ở đâu những người lao động cũng đều bị áp bức bóc lột dã man; trên thế giới này con người có nhiều màu da khác nhau, nhưng chung quy chỉ có hai hạng người: hạng người bị bóc lột và hạng người đi bóc lột. Năm 1917, Người từ Anh trở lại Pháp, chọn Pari làm điểm dừng chân hoạt động. Tại đây, hoạt động đầu tiên của Người là đấu tranh đòi cho binh lính và thợ thuyền Việt Nam được sớm hồi hương trở về với gia đình. Năm 1919, Người gia nhập Đảng Xã Hội Pháp, một đảng tiến bộ chủ trương chống lại các chính sách áp bức bóc lột của thực dân Pháp ở các nước thuộc địa. Tháng 6 năm 1919, nhân dịp các nước thắng trận trong Chiến tranh thế giới thứ nhất họp Hội nghị Vecsxai ở Pháp, Nguyễn Aí Quốc thay mặt nhóm người Việt Nam yêu nước tại Pháp gửi tới Hội nghị Bản yêu sách của nhân dân Việt Nam để tố cáo chính sách của thực dân Pháp và đòi chính phủ Pháp phải thực hiện các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Bản yêu sách gồm 8 điểm như sau: 1. Tổng ân xá tất cả những người bản xứ bị án tù chính trị. 2. Cải cách nền pháp lý Đông Dương bằng cách để người bản xứ cũng được quyền hưởng những quyền bảo đảm về mặt pháp luật như người Âu châu. Xóa bỏ hoàn toàn các tòa án đặc biệt dùng làm công cụ để khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhất trong nhân dân An Nam. 3. Tự do báo chí và tự do ngôn luận. 4. Tự do lập hội và hội họp. 5. Tự do cư trú ở nước ngoài và tự do xuất dương. 6. Tự do học tập, thành lập các trường kĩ thuật và chuyên nghiệp ở tất cả các tỉnh cho người bản xứ 7. Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật. 8 .Có đại biểu thường trực của người bản xứ do người bản xứ bầu ra tại Nghị viện Pháp để giúp cho Nghị viện biết được những nguyện vọng của người bản xứ. Những yêu sách nói trên không được chấp nhận, nhưng nó đã có ý nghĩa rất lớn. Đó là đòn tấn công trực diện đầu tiên của nhà cách mạng trẻ tuổi Nguyễn Aí Quốc vào bọn trùm đế quốc và nó đã có tiếng vang lớn đối với nhân dân Việt Nam, nhân dân Pháp và nhân dân các nước thuộc địa Pháp. Một bài học lớn đã được rút ra: “Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới”. Thứ hai, Nguyễn Aí Quốc là người đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam: Sau nhiều năm bôn ba hải ngoại tìm đường cứu nước, bắt đầu từ 1911. Tháng 7 năm 1920. Nguyễn Aí Quốc đọc được Bản sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin đăng trên báo Nhân đạo - cơ quan Trung ương của Đảng Cộng sản Pháp. Người vui mừng đến phát khóc lên và muốn nói to lên như đang nói trước đông đảo quần chúng: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta” . Nguyễn Aí Quốc đã tìm thấy con đường cứu nước giải phóng dân tộc. Người khẳng định: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. Từ đó Nguyễn Aí Quốc hoàn toàn tin vào Lênin, tin vào Quốc tế thứ ba. Quyết tâm đó của Nguyễn Aí Quốc càng được khẳng định rõ ràng khi tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp họp ở Tua vào cuối tháng 12 năm 1920 Người đã bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế thứ III và tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Hành động đó của Nguyễn Aí Quốc là sự kiện đánh dấu bước ngoặt lớn trong hoạt động cũng như tư tưởng chính trị của Người, từ lập trường yêu nước chuyển sang lập trường cộng sản. Sự kiện đó cũng mở ra cho cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam một giai đoạn phát triển mới, “giai đoạn gắn phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào công nhân quốc tế, đưa nhân dân Việt Nam đi theo con đường mà chính Người đã trải qua, từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác-Lênin và đi theo con đường cách mạng vô sản”, nó đánh dấu bước mở đường giải quyết cuộc khủng hoảng về đường lối giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Sau này, chính Người đã thừa nhận: “Lúc đầu chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ không phải là chủ nghĩa cộng sản đã làm tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ III. Từng bước một trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lí luận Mác – Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. Thứ Ba, Nguyễn Aí Quốc là người đã tích cực chuẩn bị tiền đề về chính trị, tư tưởng và tổ chức cách mạng cho sự ra đời của chính đảng vô sản ở Việt Nam : Sau khi đã tìm được con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc thông qua việc tiếp nhận chủ nghĩa Mác – Lênin và trở thành người cộng sản, từ 1921 trở đi Nguyễn Aí Quốc vừa hăng say hoạt động cách mạng, vừa học tập nghiên cứu lý luận để bổ sung và hoàn thiện tư tưởng cứu nước của mình, đồng thời tích cực tìm mọi cách để truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam nhằm chuẩn bị tiền đề về chính trị, tư tưởng cho việc thành lập chính đảng vô sản ở Việt Nam. Trong điều kiện chính sách thống trị của Thực dân Pháp hết sức hà khắc, chúng tìm cách bưng bít mọi tư tưởng cách mạng tiến bộ trên thế giới thêm vào đó trình độ học vấn của nhân dân ta trong giai đoạn này còn thấp. Nguyễn Aí Quốc đã phải suy nghĩ, tìm tòi những hình thức thích hợp để từng bước truyền bá chủ nghĩa Mác –Lênin vào phong trào cách mạng Việt Nam. Người đã vận dụng những nguyên lý cơ bản của học thuyết này thành những vấn đề chính trị, đường lối, đạo đức để truyền bá vào Việt Nam . * Thời gian ở Pháp: Từ 1921 Nguyễn Aí Quốc dựa vào sự giúp đỡ của Đảng cộng sản Pháp đã cùng với một số người yêu nước của các thuộc địa Pháp sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa ở Pari để đoàn kết các lực lượng cách mạng chống chủ nghĩa thực dân và thông qua tổ chức này để đem chủ nghĩa Mác – Lênin đến với với các dân tộc thuộc địa. Hội quyết định sáng lập ra tờ báo Le Paria ( Báo Người cùng khổ) làm cơ quan ngôn luận của mình và ra số đầu tiên vào ngày 1/4/1922, tờ báo Người cùng khổ do Nguyễn Aí Quốc chủ biên kiêm chủ bút đã vạch trần chính sách đàn áp, bóc lột dã man của Chủ nghĩa đế quốc nói chung và đế quốc Pháp nói riêng, đồng thời thức tỉnh các dân tộc bị áp bức nổi dậy đấu tranh tự giải phóng. Ngoài việc thành lập Hội liên hiệp thuộc địa và xuất bản báo Người cùng khổ, Nguyễn Aí Quốc còn tích cực tổ chức các buổi diễn thuyết và viết nhiều bài đăng trên các báo Nhân đạo, Đời sống công nhân, tập san Thư tín quốc tế…và viết cuốn sách nổi tiếng Bản án chế độ thực dân Pháp (xuất bản 1925). Mặc dù nhà cầm quyền Pháp tìm mọi cách ngăn chặn, cấm đoán nhưng các sách báo đó vẫn được bí mật chuyển về Việt Nam đúng vào lúc phong trào cách mạng Việt Nam đang phát triển mạnh, đặc biệt bước đầu xuất hiện những xu hướng cộng sản. Nhờ đó nhân dân ta, trước hết là những người tiểu tư sản trí thức yêu nước, tiến bộ ngày càng hiểu hơn bản chất của chủ nghĩa đế quốc nói chung và đế quốc Pháp nói riêng, hi
Luận văn liên quan