Việt Nam có nhiều điều kiện cho RNM sinh trưởng và phát triển,nhất là vùng ven biển đồng bằng Nam Bộ.
Trước chiến tranh,RNM chiếm diện tích tương đối lớn hơn 400.000 ha(Maurand,1943) chủ yếu là ở Nam Bộ: 250.000 ha.Hai vùng có rừng ngập mặn tập trung là bán đảo Cà Mau 150.000ha và vùng Rừng sát (Biên hòa và tp Hồ Chí Minh) 40.000ha.Do khai thác rừng để lấy than,gỗ,củi quá mức nên diện tích rừng giảm nhanh.Đến cuối năm 1960,rừng chỉ còn lại ¾.Từ năm 1962-1971,chiến tranh hóa học của Mĩ đã hủy diệt 104.123ha mà 52% ở Mũi Cà Mau và 41% ở Rừng Sát,còn lại là các tỉnh ở miền Tây Nam Bộ.Đến nay,phần lớn vùng bị rải chất độc hóa học,rừng đã tái sinh,nhưng thành phần chủ yếu là mắm và chà là.
Dựa vào các yếu tố địa lí,khảo sát thực địa và kết quả viên thám,RNM Việt Nam được chia làm 4 khu vực:
-Khu vực 1:bờ biển Đông Bắc,từ Mũi Ngọc đến Mũi Đồ Sơn
-Khu vực 2:bờ biển đồng bằng Bắc Bộ,từ Mũi Đồ Sơn đến Lạch Trường
-Khu vực 3: bờ biển Trung Bộ,từ Lạch Trường đến mũi Vũng Tàu
-Khu vực 4: bờ biển Nam Bộ,từ Mũi Vũng Tàu đến Hà Tiên.
17 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 8053 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Vai trò của rừng ngập mặn trong quá trình phát triển kinh tế - Xã hội và môi trường, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Nằm trong mối tương tác giữa đất liền và biển,rừng ngập mặn là một sinh cảnh có sức hấp dẫn đặc biệt về khả năng thích nghi và là nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá đối với người dân vùng ven biển .Rừng ngập mặn không những cung cấp các lâm sản có giá trị như than,củi,gỗ,ta nanh,thực phẩm,dược phẩm…mà còn là nơi nuôi dưỡng và sinh sản của nhiều loại hải sản,chim nước,chim di cư và một số loài động vật có ý nghĩa kinh tế lớn.Rừng ngập mặn còn có tác dụng to lớn trong việc hạn chế gió bão và sóng lớn bảo vệ bờ biển,bờ sông,điều hòa khí hậu,hạn chế xói lở,mở rộng diện tích bãi bồi,hạn chế sự xâm nhập mặn…
Trong phạm vi tiểu luận này,chúng em xin trinh bày những hiểu biết của mình về “ Vai trò của rừng ngập mặn trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội và môi trường”.Do khả năng của chúng em còn hạn chế cho nên bài tiểu luận này không thể tránh khỏi những sai sót,kính mong cô giáo thông cảm và góp ý thêm cho bài tiểu luận của chúng em được hoàn thiện hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
MỤC LỤC
I.Định nghĩa 3
II.Phân bố và hiện trạng rừng ngập mặn 3
1.Thế giới 3
2.Việt Nam 6
III.Vai trò của rừng ngập mặn đối với quá trình phát triển kinh tế-xã hội và môi trường: 7
1.Giá trị kinh tế-xã hội: 7
1.1 Cung cấp thực phẩm ( thủy sản,mật ong…) 8
1.2 Cung cấp dược phẩm 9
1.3 Cung cấp năng lượng 9
1.4 Cung cấp lâm sản (gỗ và sản phẩm ngoài gỗ ) 9
1.5 Cung cấp sinh khối và chất dinh dưỡng 10
1.6 Tạo sinh kế cho người dân 10
1.7 Bảo vệ cuộc sống 11
1.8 Du lịch sinh tái và nghiên cứu khoa học 11
2.Giá trị sinh thái 11
2.1 Duy trì tính đa dạng sinh học 12
2.2 Bảo vệ sinh thái ven biển 12
2.3 Cung cấp nơi cư trú và sinh sản cho sinh vật 12
3.Giá trị môi trường 12
3.1 Chống lại biến đổi khí hậu và điều hòa khí hậu 12
3.2 Phân hủy chất thải 13
3.3 Phòng chống gió,bão,sóng thần,nước biển dâng 14
3.4 Chống bức xạ mặt trời,hút bụi và chống ô nhiễm 15
3.5 Hạn chế xâm nhập mặn 16
3.6 Ngăn chặn xói mòn,lắng đọng trầm tích,mở rộng đất liền. 16
I.Định nghĩa:
Rừng ngập mặn (RNM) là kiểu rừng phát triển trên vùng đất lầy, ngập nước mặn, vùng cửa sông, ven biển, dọc theo cá sông ngòi, kênh rạch có nước lợ do thủy triều lên xuống hang ngày.
II.Phân bố và hiện trạng rừng ngập mặn
1.Thế giới
a,Phân bố:
/
/
Theo bản đồ, diện tích RNM lớn nhất là ở khu vực Indonesia với diện tích là 2000001 – 3000000 ha, tiếp theo là Châu Úc, Mĩ, Ấn Độ, Colombia, Việt Nam… với diện tích là 1000001 – 2000000 ha
RNM được giới hạn từ vĩ độ 30 ̊ N và 30 ̊ S. Phía bắc giới hạn bởi Nhật Bản (31̊ 22’ N) và Bermuda (32̊ 20’N). Phía nam giới hạn bởi New Zealand (38̊ 03’S) và Australia (38̊ 45’S) và bờ tây của Nam Phi (32̊ 59’S) (theo Spalding, 1997). RNM thường mở rộng về phía bờ biển ấm phía đông của Châu Mĩ và Châu Phi hơn là về phía bở biển lạnh phía tây. Sự khác biệt này xày ra do sự phân bố của các dòng nong, lạnh đại dương
Trong đó 5 quốc gia Indonesia, Australia, Nigeria, Mexico, Brazil chiếm 45% tổng diện tích toàn thế giới và chiếm 68% tổng diện tích RNM thế giới
/
Nguồn: FAO
B, Hiện trạng
Theo phân tích dữ liệu hiện có, khoảng 15.8 ha RNM được đánh giá còn tồn tại trên thế giới trong năm 2005, giảm đi 18.8 ha so với năm 1980. Đa phần được tìm thấy ở Châu Á, sau đó là Châu Phi, Bắc và trung Mĩ.
Châu Á, theo nghiên cứu của FAO (2006a) là khu vực có diện tích rừng bị mất lớn nhất thế giới, diện tích đó vào khoảng 6 triệu ha và 5 trong số 10 quốc gia có diện tích rừng bị mất lớn nhất trên toàn thế giới cũng được tìm thấy ở khu vực này.
Sau đây là biểu đồ Qui mô RNM trong quá khứ và hiện tại theo từng khu vực trong giai đoạn 1980-2005:
/
Nguồn: FAO
Tỷ lệ diện tích RNM bị mất có giảm từ 18.700 ha/năm (-1.04%) trong những năm 1980 xuống 10.200 ha/năm (-0.66%) trong giai đoạn 2000-2005
Theo tính toán cho biết trong 25 năm (1980-2005) có khoảng 3.6 triệu ha rừng bị mất, chiếm 20% tổng diện tích RNM thế giới. Trong đó Châu Á chiếm phần lớn nhất với hơn 1.9 triệu ha từ năm 1980, chủ yếu do chuyển đổi mục đích sử dụng đất trong giai đoạn 1980-1990. Ngoài ra, Bắc và Trung Mĩ và Châu Phi cũng góp phần không nhỏ với diện tích bị mất tương đương là 690.000 và 510.000 ha.
/
Diện tích RNM theo khu vực trên thế giới trong giai đoạn 1980-2005 ( Nguồn : FAO)
2.Việt Nam:
A , Phân bố:
Việt Nam có nhiều điều kiện cho RNM sinh trưởng và phát triển,nhất là vùng ven biển đồng bằng Nam Bộ.
Trước chiến tranh,RNM chiếm diện tích tương đối lớn hơn 400.000 ha(Maurand,1943) chủ yếu là ở Nam Bộ: 250.000 ha.Hai vùng có rừng ngập mặn tập trung là bán đảo Cà Mau 150.000ha và vùng Rừng sát (Biên hòa và tp Hồ Chí Minh) 40.000ha.Do khai thác rừng để lấy than,gỗ,củi quá mức nên diện tích rừng giảm nhanh.Đến cuối năm 1960,rừng chỉ còn lại ¾.Từ năm 1962-1971,chiến tranh hóa học của Mĩ đã hủy diệt 104.123ha mà 52% ở Mũi Cà Mau và 41% ở Rừng Sát,còn lại là các tỉnh ở miền Tây Nam Bộ.Đến nay,phần lớn vùng bị rải chất độc hóa học,rừng đã tái sinh,nhưng thành phần chủ yếu là mắm và chà là.
Dựa vào các yếu tố địa lí,khảo sát thực địa và kết quả viên thám,RNM Việt Nam được chia làm 4 khu vực:
-Khu vực 1:bờ biển Đông Bắc,từ Mũi Ngọc đến Mũi Đồ Sơn
-Khu vực 2:bờ biển đồng bằng Bắc Bộ,từ Mũi Đồ Sơn đến Lạch Trường
-Khu vực 3: bờ biển Trung Bộ,từ Lạch Trường đến mũi Vũng Tàu
-Khu vực 4: bờ biển Nam Bộ,từ Mũi Vũng Tàu đến Hà Tiên.
Khu vực 1: bờ biển Đông Bắc,từ Mũi Ngọc đến Mũi Đồ Sơn
Khu vực này có một số điều kiện tự nhiên tương đối thuận lợi: Các bãi lầy ven biển có nhiều đảo bảo vệ,ít chịu tác động của bão,gió mạnh và song.
Các sông chính có độ dốc cao,dòng chảy mạnh đem phù sa ra tận biển,còn dọc các triền song rất ít bãi lầy.
Đặc điểm các quần xã RNM ở khu vực 1 là hệ thực vật gồm những loài ưa mặn và chịu muối giỏi,không có loài ưa lợ.Thành phần loài nghèo hơn ở miền Nam(24 loài). Hầu hết các loài cây ngập mặn ở đây như đước vòi,vẹt,dù,trang,sú lại rất ít gặp ở Nam Bộ. Có thể chúng không cạnh tranh nổi với các loài khác.
Khu vực 2: bờ biển đồng bằng Bắc Bộ,từ mũi Đồ Sơn đến Lạch Trường.
Vùng ven biển nằm trong phạm vi bồi tụ của song Thái Bình,sông Hồng và các phụ lưu nên phù sa nhiều,giàu chất dinh dưỡng,bãi bồi rộng ở cả cửa sông và ven biển,nhưng chịu tác động mạnh của song gió do thiếu bình phong bảo vệ ở ngoài,nồng độ muối trong năm lại thay đổi nhiều.
Khu vực 3: bờ biển Trung Bộ, từ Lạch Trường đến mũi Vũng Tàu
Đây là 1 dải rất hẹp,bờ biển song song với dãy Trường Sơn.Do địa hình rất phức tạp,có chỗ núi ăn ra sát biển,có chỗ tác động của biển khá nổi bật,tạo nên các đụn cát.Tác động của bão,gió mùa Đông bắc gây sóng gió.Do đó qoàn khu vực gần như không có RNM.
Khu vực 4: bờ biển Nam Bộ,từ mũi Vũng Tàu đến Hà Tiên
Miền ven biển Nam Bộ có địa hình thấp và bằng phẳng,hệ thống sông nối với nhiều rạch chằng chịt,hằng năn chuyển ra biển hang trăm triệu tấn phù sa giàu chất dinh dưỡng.Điều kiện sinh thái ở đây thuận lợi cho RNM sinh trưởng và phát triển mạnh,them vào đó khu vực này gần các quần đảo Indonesia,Malaysia,là những nơi xuất phát của các cây ngập mặn.Nhờ các dòng nước nóng và gió Tây Nam chuyển các cây con và hạt giống tới đây nên thành phần phong phú và kích thước cây lớn nhất nước ta.
Ở kinh rạch,nồng độ muối trong mùa khô cao hơn ở cửa sông chính,do đó thành phần cây ưa mặn chiếm ưu thế,chủ yếu là đước,vẹt,su,dà.
Dọc các triền sông phía trong,quần thể mấm,lưỡi,đòng phát triển cùng với loài dây leo là cốc kèn. Đi sâu vào nội địa thì bần chua thay thế dần,có chỗ cho dừa nước mọc hoặc được trồng thành bãi,lẫn với mái dầm,một loài cây chỉ thị cho nước lợ.
B , Hiện trạng:
Ở Việt Nam, những nguồn tài nguyên rừng ngập mặn đã được sử dụng bởi nhân dân sống trong vùng biển nhiều thế kỷ không gây ra sự mất cân bằng sinh thái. Tuy nhiên trong những năm gần đây, sự gia tăng dân số (đặc biệt sự di dân), lợi tức của nhân dân địa phương thấp, và sự phát triển nhanh chóng kinh tế đã gây ra sự khai thác quá mức và sự phá hoại gây hậu quả cho những khu rừng ngập mặn. Bên cạnh đó, chính sách của Việt Nam cho sự tái xây dựng kinh tế làm phát triển sự khai thác những nguồn tài nguyên thiên nhiên, dưới chính sách này, sự phát triển nuôi tôm trong những khu vực rừng ngập mặn là một trong những chiến lược phát triển quốc gia. Chính vì vậy mà thủy canh được xem như một trong những mối đe dọa quan trọng của rừng ngập mặn Việt Nam.
Việt Nam có chiều dài bờ biển 3.200 km nhưng tỉ lệ diện tích rừng ngập mặn lại không tương xứng,có xu hướng giảm dần cả về diện tích lẫn chất lượng.Theo thống kê của Viện khoa học Lâm Nghiệp Việt Nam,năm 1943, nước ta có hơn 408.500ha rừng ngập mặn,nhưng đến hết tháng 12-2006 chỉ còn 209.740ha.
Hiện trong số 65.963 ha đất có rừng ngập mặn phòng hộ trước đê có khoảng 32.870 ha rừng bị suy thoái, không bảo đảm được chức năng phòng hộ. Trong số 209.740 ha đất có rừng, diện tích rừng trồng chỉ khoảng 152.000 ha (chiếm 72,5% tổng diện tích đất có rừng ngập mặn của cả nước) chất lượng rừng kém cả về mật độ, chiều cao, đường kính, thành phần loài và trữ lượng rừng. Do đó, giá trị phòng hộ và kinh tế rất thấp. Điều này dẫn đến nạn sụt lở bờ biển, đê biển và bờ ở các cửa sông đang diễn ra rất nghiêm trọng trong những năm qua. Theo ước tính, thiệt hại hằng năm do bão gây ra từ 1.767 tỉ đến 5.098 tỉ đồng (riêng năm 2006 thiệt hại lên đến 18.700 tỉ đồng).
III.Vai trò của rừng ngập mặn trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội và môi trường.
1.Giá trị kinh tế-xã hội.
1.1 Cung cấp thực phẩm
A,Cung cấp thủy sản
Rừng ngập mặn là hệ sinh thái có năng suất sinh học rất cao, đặc biệt là nguồn lợi thủy sản. Người ta ước tính trên mỗi ha RNM năng suất hàng năm là 91kg thủy sản (Snedaker, 1975). Riêng đối với các loài tôm, cua, cá…sống trong RNM, hàng năm thu hoạch khoảng 750.000 tấn.
-Tính bình quân trên mỗi ha đầm lầy RNM cho năng suất hàng năm là 160 kg tôm xuất khẩu (Chan, 1986)
-Tính cả các loài hải sản đánh bắt được ở vùng ven biển, của sông có RNM hoặc liên quan RNM thì sản lượng lên tới 925.000 tấn, tương đương với 1% sản lượng thủy sản đánh bắt trên toàn thế giới
-Theo Ronnback (1999), 1 ha RNM tạo ra:
13 - 756 kg tôm he ( 91 – 5192 USD
13 – 64 kg cua bể ( 39 – 352 USD
257 – 900 kg cá ( 475 – 713 USD
500 – 979 kg ốc, sò ( 140 – 274 USD
-Theo nhiều nghiên cứu cho rằng, việc đánh bắt thủy sản có năng suất cao chủ yếu ở các vùng nước nông, ven bờ, cửa sông. Do vùng này tập trung các chất dinh dưỡng do sông mang từ nội địa ra và nước triều đem từ biển vào
-Bản than RNM là một hệ thống nuôi trồng hải sản tự nhiên, nó cung cấp vật liệu làm nhà, nhuộm lưới, làm dụng cụ đánh bắt trong nghề cá, đồng thời cung cấp vật liệu xây dựng làm nơi ở cho làng cá
B,Cung cấp mật ong
Theo thống kê cho biết có 21 loài cây cho mật nuôi ong
Ví dụ như: - Hoa đước cung cấp phấn cho ong làm mật
-Rừng tram thu hút ong mật đến làm tổ →mang lại giá trị dinh dưỡng rất cao
Một thời đây từng là nghề mang lại giá trị kinh tế cao. Nhiều đến mức người ta phải phân chia rừng để thu thuế những người làm nghề “ăn ong”
Ví dụ như tại Bangladesh, có khoảng 185 tấn mật và 44.4 tấn sáp ong được thu hoạch hàng năm ở khu vực phía tây RNM
C,Cung cấp đường
-Dừa nước là cây sống rất phổ biến ở những khu vực có RNM, hơ nữa nó lại rất dễ trông và không gây ảnh hưởng đến đất
-Tỷ lệ đường trong cuống buồng quả dừa nước khá cao khoảng 13-17%. Trong điều kiện trồng đúng qui cách, đất tốt, tại Malaysia đã thu hoạch 20.3 tấn đường/ha/năm, còn trồng đại trà cho năng suất bình quân 5-7 tấn/ha/năm mà chỉ cần sử dụng 5-6 công lao động cho mỗi ha
-Sản xuất đường từ dừa nước đơn giản hơn và có những mặt thuận lợi hơn so với qui trình sản xuất đường từ mía. Nếu mía ở vùng ven biển thì đất phải bừa kĩ, nhiều nơi phải lên luống, hàng năm phải trồng lại, phải có máy ép và xử lí bã. Thì dừa nước chỉ cần trồng 1 lần, từ năm thứ 5 trở đi thì thu hoạch liên tục, dụng cụ thu hoạch nhựa đơn giản, chỉ cần ống tre để hứng nhựa sau đó cô thành đường hoặc các sản phẩm khác .
1.2 Cung cấp dược phẩm
Theo thống kê, có khoảng 21 loài cây dung làm thuốc
-Đây là tiềm năng cho cuộc sống con người, động vật, ngăn ngừa mầm bệnh và có khả năng nghiên cứu các bệnh nan y do virut gây ra như AIDS (Kathirasan, 2000)
-Tại Việt Nam, từ lâu đã được sử dụng làm thuốc nam chữa các bệnh thông thường, được trình bày tóm tắt trong bảng dưới đây:
Tên khoa học
Tên địa phương
Công dụng
Bộ phận sử dụng
Rhizophora apiculata
Đước
Tannin dung để chữa bỏng và vết thương phần mềm
Vỏ, than, cành
R.mucronata
Đưng, đước bộp
Bỏng, vết thương phần mềm và sốt rét thay kí ninh
nt
R.stylosa
Đâng, đước vòi
Bỏng và vết thương phần mềm
nt
Ipomoea-pes-caprae
Muống biển
Giảm sốt, đau đầu
Hạt (sắc lên)
Pluchea pteropoda
Cúc tần
Đau dạ dày
Cả cây lá (xông)
Xylocarpus moluccensis
Xu ổi
Chỗ bị đứt chảy máu, vết thương ngoài da
lá
1.3 Cung cấp năng lượng
-Than đước, vẹt được ưa chuộng, phần lớn than ít khói, nhiệt lượng cao
1 tấn than của cây ngập mặn tương đương với 5 tấn than đá
Than đước cho năng lượng là 6675 kcal
Than vẹt cho năng lượng là 6375 Kcal
-Ngoài ra, than đước còn được sử dụng trong kĩ nghệ luyện kim
-Than cóc vàng được sử dụng cháy máy tàu trong đại chiến thế giới thứ 2
1.4.Cung cấp lâm sản
-Những cây gỗ (5 – 6 loài phổ biến) và cho trữ lượng lớn, thuộc các chi mắm, vẹt đước, cóc. Tùy vùng, điều kiện sinh thái, kích thước khác nhau mà cách sử dụng của chúng khác nhau
Ví dụ như ở Ngọc Hiển (Cà Mau): rừng đước già 30 tuổi cho trữ lượng 210m3/ha; có khu vực cho trữ lượng 450 – 600m3/ha (Phân viện điều tra quy hoạch rừng, 1985)
-Sản phẩm của chúng được sử dụng đa mục đích:
Làm cột kèo, xẻ ván làm nhà, đóng đồ dung thông thường. Một số nơi dung làm tà vẹt chống lò
Sử dụng cho công nghiệp: làm nút chai, cốt mũ, cho sợi
Gỗ tạp cho vỏ bào làm ván ép, bột giấy
-Ngoài ra phải kể đến cây dừa nước rất đặc trưng và phổ biến:
Sử dụng lá dừa lợp nhà, làm vách; dụng cụ gia đình: gầu, chổi…; lá non gói bánh, cuống lá làm phao lưới đánh cá, vỏ ngoài cuống làm vật cách điện có chất lượng tốt; sợi đập từ cuống, bẹ lá làm dây thừng, dây chão bền, chịu mặn
Nhân dân huyện Bình Đại (Bến Tre) dùng bẹ lá dừa nước già đóng xít nhau làm
đáy cống các đầm tôm thay gỗ, ván. Sau 5 năm mới hỏng
1.5Cung cấp sinh khối và chất dinh dưỡng
-Tạo năng suất sơ cấp cao, cung cấp sản lượng lá rơi rụng khá lớn, làm giàu cho đất rừng và vùng cửa sông ven biển kế cận (Odum và Heald, 1957; Lee,1989)
-Tổng sinh khối RNM toàn cầu tương đương 8.7 GT khô ( lưu trữ khoảng 4.0 GT C) (Twilley, 1992)
-Lượng rơi rụng của lá vào khoảng 8 – 20 tấn/ha trong đó 79.7% là lá (GS.Phan Nguyên Hồng và cs, 1988)
Sản lượng lá rơi rụng tạo ra các sản phẩm:
Sử dụng trực tiếp bởi một số loài động vật
Sử dụng gián tiếp: một phần nhỏ ở dạng chất hữu cơ (CHC) hào tan cung cấp cho một số loài dinh dưỡng bằng con đường thẩm thấu. Chủ yếu là chuyển thành thức ăn phế liệu hoặc cặn vẩn nuôi sống hàng loạt động vật ăn mung bã thực vật
-Tạo nguồn thức ăn hữu cơ hòa tan có giá trị với vi sinh vật và động vật nguyên sinh. Số kịp bị khoáng hóa sẽ cung cấp muối vô cơ cho sự phát triển của thực vật phù du và các loài thực vật khác
1.6 Tạo sinh kế cho người dân:
-Trong chiến lược phát triển kinh tế hướng tới phát triển bền vững, hệ sinh thái rừng ngập mặn và đất ngập nước đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế các địa phương ven biển, đặc biệt là hai đồng bằng quan trọng (sông Hồng và sông Cửu Long) nơi tập trung nhiều dân cư và là vựa lúa của quốc gia.
-Hệ sinh thái rừng ngập mặn, trước hết cung cấp sự đa dạng về các loại hình kinh tế, bổ sung cho sự phát triển nông nghiệp lúa gạo, cho vùng duyên hải tại hai đồng bằng này với các giá trị kinh tế trực tiếp trước mắt như khai thác gỗ, củi, lá, cành cây từ cây RNM, các loài thuỷ sản đặc biệt là nguồn giống tôm, cua con trong hệ sinh thái rừng ngập mặn và các giá trị khác như dược phẩm, ngọc trai, mật ong vv.. Những giá trị trực tiếp này đã góp phần ổn định kinh tế cho nông dân vùng duyên hải, bổ sung và nâng cao chất lượng cuộc sống, qua đó nâng cao sản lượng và chất lượng cho sản xuất nông nghiệp.
1.7 Bảo vệ cuộc sống:
-Rừng ngập mặn (RNM) là hệ sinh thái đa dạng, có vai trò rất quan trọng, được ví như lá chắn xanh bảo vệ vùng cửa sông, cửa biển để chống xói lở, hạn chế tác hại của gió bão, mở rộng đất liền.RNM còn được ví như một nhà máy lọc sinh học khổng lồ, nó không chỉ hấp thụ khí CO2 do hoạt động công nghiệp và sinh hoạt thải ra, mà còn sinh ra một lượng ô-xy rất lớn, làm cho bầu không khí trong lành.
-Vai trò của RNM trong việc bảo vệ môi trường là “lá phổi xanh” rất quan trọng đối với các thành phố, nhưng vai trò của RNM còn nhiều hơn, nó còn như những “bức tường xanh” có tác dụng phòng hộ trước gió và sóng biển. Nhiều cơn bão lớn đổ bộ vào nước ta những năm qua, nơi nào RNM được trồng và bảo vệ tốt thì các đê biển vùng đó vẫn vững vàng trước sóng to gió lớn. Theo nhóm khảo sát của GS-TSKH Phan Nguyên Hồng (Trung tâm Nghiên cứu Sinh thái Rừng Ngập mặn, Đại học Sư phạm Hà Nội), độ cao sóng biển giảm mạnh khi đi qua dải RNM .
1.8 Du lịch sinh thái và nghiên cứu khoa học :
Rừng ngập mặn có vai trò quan trọng trong du lịch sinh thái và huấn luyện,nghiên cứu,giảng dạy…
-Trong hoạt động du lịch, RNM là nguồn tài nguyên du lịch sinh thái hết sức quý giá. Tại Việt Nam, những năm gần đây khách du lịch ngày càng có xu hướng tìm đến tham quan, nghiên cứu các khu RNM, theo đó, nguồn lợi ngành Du lịch thu được từ hệ sinh thái này cũng tăng lên. RNM thực sự trở thành đối tượng tiềm năng đối với hoạt động khai thác phát triển du lịch nói riêng, kinh tế - xã hội nói chung.
-Ví dụ: Rừng ngập mặn Vàm Sát –Cần Giờ: Cánh rừng đước của Vàm Sát trải rộng cả một vùng rộng lớn, nhưng thực tế, mảnh đất này lại nằm không xa trung tâm Sài Gòn và được ví như "lá phổi xanh" của thành phố. Vàm Sát hiện được coi là điểm đến du lịch hấp dẫn cho người dân thành phố và khách thập phương. Không chỉ tận hưởng không khí trong lành mà du khách còn có nhiều trải nghiệm thú vị với các trò: câu cua, câu cá, chèo thuyền ba lá, đi cầu khỉ... cũng như thưởng thức các món ăn đặc sản.
-Tuy nhiên, hiện nay hệ sinh thái RNM đang đứng trước nguy cơ bị suy giảm và ô nhiễm do biến đổi khí hậu và sự khai thác không hợp lý của con người. Là ngành được hưởng lợi từ hệ thống RNM, do đó ngành Du lịch cũng chịu ảnh hưởng không nhỏ trước thực trạng này. Bởi khi sự đa dạng sinh học dần mất đi, vẻ đẹp nguyên sơ và môi trường xanh - sạch của RNM bị hủy hoại, chắc chắn du khách sẽ không còn hứng thú với RNM, Du lịch Việt Nam sẽ giảm sức cạnh tranh với các nước trên thế giới. Hơn nữa, khi diện tích RNM suy giảm, môi trường sẽ bị ô nhiễm nặng nề hơn, thiên tai đến nhiều hơn, từ đó gây nguy hiểm và trở ngại lớn đối với các hoạt động du lịch...
2.Giá trị sinh thái
Theo Clark (1997) “ Rừng ngập mặn cùng với hệ sinh thái cỏ biển và san hô tạo ra mối lien kết tam giác cho nhiều tiến trình sinh thái,sinh học,hóa học và lí học”.Rừng ngập mặn có vai trò quan trọng như lọc sinh học trong việc xử lí chất thải.Đầm lầy có tác dụng lọc nước,tận dụng các chất bổ và hấp thu các chất độc.Tuy nhiên rừng ngập mặn lại rất nhạy cảm đối với sự ô nhiễm.
2.1 Duy trì tính đa dạng sinh học
Loài người đã bước vào thời đại công nghiệp với tốc độ gia tăng dân số lên đến 1 tỷ người cùng với sự phong phú chưa từng có về đa dạng sinh học.
-Hệ sinh thái rừng ngập mặn cung cấp các nguồn gen vô cùng quý giá nhằm duy trì tính đa dạng sinh học của hệ động thực vật.
- Trong kế hoạch hành động về bảo vệ và phát triển RNM, cần thiết phải thiết lập một cơ chế nhằm bảo vệ sự đa dạng của các loài động thực vật và nhất là những nguồn gen quý hiếm. Chỉ có sự đa dạng và sự nguyên sơ của tự nhiên mới thu hút được các loài động vật từ khắp các nơi di cư đến và điều này càng làm tăng tính đa dạng của các khu rừng, đồng thời hạn chế được những rủi ro và những mối đe doạ đối với các l