Sự kiện Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ bảy của Hiệp hội các
nước Đông Nam Á (ASEAN) vào ngày 28/7/1975 không chỉ đánh dấu một bước
ngoặt quan trong trong tiến trình hội nhập của Việt Nam mà còn là một dấu mốc
quan trọng trong lịch sử phát triển của Hiệp hội. Lần đầu tiên Việt Nam tham gia
một tổ chức khu vực có nội dung h ợp tác phong phú, sâu rộng trên tất cả các lĩnh
vực như chính trị-an ninh, kinh tế và chuyên ngành. Sự kiện lịch sử quan trọng này
đã thể hiện rõ quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta trong việc triển khai đường lối
đối ngoại độc lập tự chủ, chính sách đa phương hóa, đa d ạng hóa quan hệ quốc tế,
đặc biệt là chính sách chủ động hội nhập khu vực và quốc tế theo đúng tinh th ần của
Đại hội VII (1991). Việc Việt Nam gia nhập ASEAN cũng mở ra một trang mới của
lịch sử ASEAN. Đánh giá về sự kiện này, Bộ trưởng Bộ ngoại giao Indonesia khi
đó nhấn mạnh: “Chúng ta vừa chứng kiến một sự kiện trọng đại trong niên sử của
ASEAN. Việc kết nạp Việt Nam vào gia đình ASEAN có ý nghĩa to lớn hơn nhiều,
chứ không phải chỉ là việc tăng số lượng thành viên từ sáu lên bảy”.
16 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 4016 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Vai trò của Việt Nam đối với asean trên lĩnh vực anh ninh - Chính trị - Ngoại giao, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Tiểu luận
Vai trò của việt Nam đối với ASEAN trên
lĩnh vực anh ninh-chính trị-ngoại giao
MỤC LỤC
MỤC LỤC .............................................................................................................. 1
2
LỜI NÓI ĐẦU ........................................................................................................ 3
NỘI DUNG ............................................................................................................. 5
1. Việt Nam gia nhập ASEAN xét từ góc độ an ninh-chính trị .............................. 5
2. Những đóng góp của Việt Nam trong lĩnh vực an ninh-chính trị-ngoại giao ..... 6
2.1. Thúc đẩy tiến trình thống nhất Đông Nam Á trong một tổ chức hợp tác khu
vực chung ......................................................................................................... 6
2.2. Tham gia tích cực vào các chương trình hợp tác sẵn có của ASEAN .......... 8
2.3. Đóng góp quan trọng cho sự hình thành các sáng kiến, cơ chế hợp tác mới
của ASEAN ..................................................................................................... 10
2.4. Góp phần mở rộng quan hệ ngoại giao và hợp tác quốc tế của ASEAN với
các nước bên ngoài ......................................................................................... 12
3. Những thuận lợi và thách thức mới đặt ra cho Việt Nam trên lĩnh vực an ninh-
chính trị-ngoại giao ............................................................................................ 12
3.1. Thuận lợi.................................................................................................. 12
3.2. Thách thức ............................................................................................... 14
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 15
Danh mục tài liệu tham khảo ................................................................................. 16
3
LỜI NÓI ĐẦU
Sự kiện Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ bảy của Hiệp hội các
nước Đông Nam Á (ASEAN) vào ngày 28/7/1975 không chỉ đánh dấu một bước
ngoặt quan trong trong tiến trình hội nhập của Việt Nam mà còn là một dấu mốc
quan trọng trong lịch sử phát triển của Hiệp hội. Lần đầu tiên Việt Nam tham gia
một tổ chức khu vực có nội dung hợp tác phong phú, sâu rộng trên tất cả các lĩnh
vực như chính trị-an ninh, kinh tế và chuyên ngành. Sự kiện lịch sử quan trọng này
đã thể hiện rõ quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta trong việc triển khai đường lối
đối ngoại độc lập tự chủ, chính sách đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế,
đặc biệt là chính sách chủ động hội nhập khu vực và quốc tế theo đúng tinh thần của
Đại hội VII (1991). Việc Việt Nam gia nhập ASEAN cũng mở ra một trang mới của
lịch sử ASEAN. Đánh giá về sự kiện này, Bộ trưởng Bộ ngoại giao Indonesia khi
đó nhấn mạnh: “Chúng ta vừa chứng kiến một sự kiện trọng đại trong niên sử của
ASEAN. Việc kết nạp Việt Nam vào gia đình ASEAN có ý nghĩa to lớn hơn nhiều,
chứ không phải chỉ là việc tăng số lượng thành viên từ sáu lên bảy”.
Mười bốn năm đã trôi qua kể từ ngày việc Nam đặt chân lên con tàu ASEAN.
Khoảng thời gian trên tuy chưa dài nhưng cũng đủ để đánh giá vai trò và những
đóng góp của Việt Nam đối với sự phát triển của ASEAN. Không ai có thể phủ
nhận vai trò tích cực của Việt Nam đối với ASEAN trong mọi lĩnh vực từ chính trị,
kinh tế đến hợp, văn hóa, xã hội. Tuy nhiên, trong bài viết này tôi chỉ xin tập trung
vào phân tích những đóng góp của Việt Nam đối với ASEAN trong lĩnh vực an
ninh-chính tri-ngoại giao. Trước khi đi vào đánh giá vai trò của Việt Nam trong lĩnh
vực này, bài viết sẽ phân tích bản chất của việc Việt Nam gia nhập ASEAN qua
lăng kính an ninh-chính trị, để từ đó thấy rõ hơn triển vọng vai trò của Việt Nam
trong lĩnh vực hợp tác này của ASEAN.
4
Do còn nhiều hạn chế trong nhận thức nên chắc chắn bài viết còn nhiều thiếu
xót. Rất mong nhận được sự đóng góp của thầy và các bạn để bài viết được hoàn
thiện hơn.
Hà nội, ngày 21 tháng 4 năm 2009
Sinh viên
Quách Thị Huyền
5
NỘI DUNG
1. Việt Nam gia nhập ASEAN xét từ góc độ an ninh-chính trị
Trong tuyên bố thành lập ASEAN năm 1967, các yếu tố kinh tế, văn hóa và xã
hội là trọng tâm hợp tác của ASEAN. Các mục tiêu chung nêu trong tuyên bố tập
trung vào lĩnh vực này. Chỉ có một mục tiêu đề cập phần nào đến hợp tác chính trị-
an ninh bằng cụm từ “góp phần thúc đẩy hòa bình và ổn định khu vực bằng việc tôn
trọng công lý và nguyên tắc pháp luật”. Tuy nhiên, thực tiễn lại cho thấy chính hợp
tác an ninh-chính trị mới thực sự là động lực để ASEAN ra đời. Việc Việt Nam gia
nhập vào ASEAN phần nào đó cũng chịu sự tác động của yếu tố an ninh-chính trị.
Chiến tranh lạnh kết thúc, vai trò của ASEAN trong chiến lược phát triển của
các nước lớn suy giảm. Do vậy, ASEAN có nhu cầu phải tạo ra một hình ảnh mới ở
khu vực Đông Nam Á. Bên cạnh đó, với xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế
quốc tế và khu vực, buộc các nước ASEAN phải chuyển trọng tâm sang hợp tác
kinh tế, mở cửa thị trường buôn bán. Điều này rất cần một môi trường chính trị ổn
định. Việc kết nạp Việt Nam vào Hiệp hội cũng không nằm ngoài tính toán này.
Việt Nam có đường lối độc lập tự chủ và là nước đứng thứ hai về mặt dân số, đứng
thứ tư về diện tích ở Đông Nam Á. Do vậy, Việt Nam luôn là một nhân tố quan
trọng đối với hòa bình và ổn định khu vực. Các nước sáng lập ra ASEAN nhận thấy
việc đảm bảo chính trị-an ninh ở Đông Nam Á không thể thực hiện nếu thiếu vắng
thành viên Việt Nam. Vì vậy, trong Hội nghị Ngoại trưởng lần thứ 27 của ASEAN
tổ chức tại Băng Cốc từ ngày 22-27/7/1994, các nước ASEAN đã bày tỏ sự nhất trí
khi đưa ra tuyên bố tập thể sẵn sàng kết nạp Việt Nam thành thành viên chính thức
của ASEAN.
Về phía Việt Nam, đặt trong bối cảnh đất nước còn nhiều khó khăn do hệ quả
của chiến tranh cũng như trước xu hướng toàn cầu hóa thì việc gia nhập ASEAN là
chính là một cơ hội tốt để tạo dựng một môi trường thuận lợi cho việc triển khai
đường lối mở cửa cũng như phục vụ nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Đồng thời, việc gia nhập ASEAN góp phần nâng cao vị thế quốc tế cũng như
6
tạo dựng một hình ảnh mới cho đất nước. Việt Nam gia nhập ASEAN là hoàn toàn
đúng đắn và phù hợp với chủ trương của Đại hội Đảng VII: “ Việt Nam sẵn sàng là
bạn là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình,
độc lập và phát triển”.
Như vậy có thể thấy, trên cơ sở an ninh-chính trị, Việt Nam và các nước
ASEAN đã gặp nhau và tìm được tiếng nói chung, hai bên cùng có lợi. ASEAN
nhận thấy sức mạnh của Hiệp hội được tăng cường trên lĩnh vực an ninh, chính trị
nếu kết nạp Việt Nam. Còn Việt Nam nhận thấy tham gia vào ASEAN sẽ góp phần
tạo dựng môi trường an ninh, chính trị ổn định để phát triển đất nước.
2. Những đóng góp của Việt Nam trong lĩnh vực an ninh-chính trị-ngoại giao
2.1. Thúc đẩy tiến trình thống nhất Đông Nam Á trong một tổ chức hợp tác khu vực
chung
Trong thời kì Chiến tranh lạnh, quan hệ giữa các nước ASEAN với các nước
trong khu vực cụ thể các nước Đông Dương là quan hệ mang tính chất đối đầu, bị
chi phối bởi hệ tư tưởng: ASEAN đi theo con đường phát triển tư bản chủ nghĩa và
Đông Dương phát triển lên chủ nghĩa xã hội. Sự tồn tại của hai khối đối lập nhau về
hệ tư tưởng, chính trị và kinh tế-xã hội trong một Đông Nam Á về địa lý không chỉ
ngăn cản các nước trong khu vực phát triển các quan hệ hòa bình, hợp tác với nhau,
bổ sung các nguồn lực cho nhau để cùng phát triển mà còn tạo cơ hội cho các thế
lực bên ngoài có lợi ích trong một Đông Nam Á bị chia rẽ và xung đột, can thiệp
vào công việc nội bộ của khu vực. Vì vậy, trong Tuyên bố Băng Cốc năm 1967, các
nước sáng lập ra ASEAN đã bày tỏ mong muốn biến ASEAN trở thành mái nhà
chung của toàn khu vực. Tuy nhiên, do nhiều lý do khác nhau mà mong muốn này
đã không thể hiện thực hóa cho tới khi Chiến tranh lạnh kết thúc. Sau Chiến tranh
lạnh, quan hệ giữa Việt Nam nói riêng và ba nước Đông Dương nói chung với các
nước ASEAN đã cải thiện đáng kể. Việc Việt Nam chủ động giải quyết vấn đề
Campuchia đã tạo ra một bước ngoặt mang tính đột phá trong quan hệ giữa Việt
Nam với ASEAN. Đặc biệt, việc Việt Nam gia nhập ASEAN vào ngày 18/7/1995
đã mở ra thời kỳ mới cho ASEAN, chấm dứt tình trạng chia rẽ, đối đầu căng thẳng
7
trong khu vực và thực hiện ước mơ biến ASEAN thành một thực thể gồm 10 quốc
gia Đông Nam Á sống trong hữu nghị, hợp tác láng giềng, hội nhập khu vực và
quốc tế. Sự tham gia của Việt Nam vào Hiệp hội đã chứng tỏ khả năng dung nạp
các quốc gia có chế độ chính trị-xã hội khác nhau của ASEAN. Đồng thời, những
lợi ích chính trị mà Việt Nam nhận được từ tư cách thành viên ASEAN đã khích lệ
các nước còn lại của Đông Nam Á vững tâm gia nhập Hiệp hội. Rõ ràng, sự tham
gia của Việt Nam vào tổ chức ASEAN đã phá vỡ tất cả rào cản vốn từng tồn tại
trước đây giữa các nước trong khu vực và tạo ra con đường rộng mở cho các nước
còn lại của Đông Nam Á trong tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế. Nếu Việt
Nam phải mất 11 năm khi Brunei gia nhập ASEAN (1984) thì các nước Lào,
Mianma (1997) và Campuchia (1999) chỉ mất 2 năm để trở thành thành viên thứ 8,
9 và 10. Với việc Việt Nam sau đó là Lào, Mianma và Campuchia lần lượt gia nhập
tổ chức, ASEAN thực sự trở thành một tổ chức của cả khu vực Đông Nam Á.
ASEAN không chỉ mạnh lên về số lượng mà còn cả ở ý chí và lòng quyết tâm hội
nhập của tất cả các thành viên. Nhờ có sự thống nhất trên mà trong những năm qua
ASEAN đã đưa lại cho khu vực nhiều lợi ích quan trọng đặc biệt trong lĩnh vực an
ninh-chính trị-ngoại giao. Các nước ASEAN đã tìm được tiếng nói chung cho việc
giải quyết các vấn đề liên quan đến an ninh và ổn định khu vực. Ngoài ra, vị thế của
ASEAN nói chung và từng thành viên nói riêng, đã được nâng cao hơn trong nền
chính trị khu vực và quốc tế.
8
2.2. Tham gia tích cực vào các chương trình hợp tác sẵn có của ASEAN
Ngay từ khi chưa ra nhập ASEAN, Việt Nam đã kí Hiệp ước Thân thiện và
Hợp tác (TAC, còn gọi là Hiệp ước Bali 1992) và tham gia ngay từ đầu Diễn đàn
khu vực ASEAN (ARF).
TAC được coi là bộ nguyên tắc ứng xử trong quan hệ giữa các nước trong khu
vực. Hiện nay, Việt Nam cùng với các nước ASEAN đang tích cực vận động các
nước ngoài khu vực tham gia, nhất là các bên đối thoại của ASEAN nhưng vẫn đảm
bảo nguyên tắc: nước ngoài khu vực không can thiệp vào công việc nội bộ của các
nước Đông Nam Á. Từ năm 1998 đến năm 2000, Việt Nam cùng với các nước
ASEAN soạn thảo Quy chế hoạt động của Hội đồng tối cao của Hiệp ước TAC trên
cơ sở giữ vững những nguyên tắc cơ bản của Hiệp hội. Hội đồng tối cao TAC của
Hiệp ước TAC được coi là một cơ chế đầu tiên của ASEAN để giải quyết thông qua
cơ chế khu vực, tránh sự can thiệp của bên ngoài. Trong quá trình soạn thảo Quy
chế, Việt Nam luôn chú trọng tới nguyên tắc “đồng thuận” và “không can thiệp vào
công việc nội bộ”. Nhờ đó, một loạt vấn đề vướng mắc trong quan hệ giữa các nước
thành viên với nhau cũng như các nước trong tổ chức ASEAN và các nước ngoài
khu vực được giải quyết một cách ổn thỏa. Bằng chứng cho vấn đề này là việc kết
nạp Campuchia vào tổ chức ASEAN và Mianma vào ASEM hoặc là những tranh
chấp về biển Đông giữa Trung Quốc và các nước ASEAN mà Việt Nam và
Philippin là hai nước được giao trọng trách khởi thảo những vấn đề liên quan đến
cách ứng xử của các bên ở biển Đông. Với sự nỗ lực của của cả Việt Nam và
Philippin, đến tháng 12/2002, các nước ASEAN và Trung Quốc đã đạt được sự nhất
trí trong việc thông qua Tuyên bố về quy tắc ứng xử biển Đông.
Sau khi gia nhập ASEAN, Việt Nam đã tổ chức thành công Hội nghị Cấp cao
ASEAN-6 tại Hà Nội (12/1998), giúp ASEAN duy trì đoàn kết, hợp tác và củng cố
vị thế quốc tế trong lúc Hiệp hội đang ở thời điểm khó khăn nhất do tác động của
cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính năm 1997, nhất là việc hoàn tất ý tưởng một
ASEAN-10. Đồng thời, Hội nghị thông qua Chương trình Hành động Hà Nội
(HPA) để thực hiện Tầm nhìn ASEAN 2020.
9
Hai năm sau đó, Việt Nam đảm nhận cương vị Chủ tịch Ủy ban thường trực
ASEAN (ASC) khóa 34 từ tháng 7-2000 đến tháng 7-2001và đã tổ chức thành công
hàng loạt Hội nghị cấp Bộ trưởng quan trọng của ASEAN tại Hà Nội năm 2008. Ở
cương vị Chủ tịch ASC, Việt Nam đã chủ động định hướng hoạt động của Hiệp hội
vào hướng ưu tiên hiện nay là thu hẹp khoảng cách phát triển và giúp đỡ các thành
viên mới khả năng liên kết khu vực. Việc xác định chủ đề cho Hội nghị Bộ trưởng
Ngoại giao ASEAN lần thứ 34 là vì một ASEAN “ổn định, đoàn kết, tăng cường
liên kết và mở rộng hợp tác với bên ngoài” do Việt Nam nêu lên đã được các nước
ASEAN và các bên đối thoại của ASEAN hoan nghênh. Đặc biệt, Tuyên bố Hà Nội
về thu hẹp khoảng cách phát triển thông qua tại Hội nghị đã mang dấu ấn Việt Nam,
vừa đáp ứng nhu cầu ASEAN muốn tăng cường liên kết nội khối, vừa phục vụ thiết
thực nhu cầu vươn lên, phát triển theo kịp các nước ASEAN của bốn nước thành
viên mới Campuchia, Lào, Mianma và Việt Nam. Tuyên bố đã tiếp tục trở thành tài
liệu định hướng quan trọng cho hoạt động hợp tác của ASEAN trong nhiều năm tới.
Việt Nam là thành viên tham gia tích cực Diễn đàn khu vực ASEAN. Với tư
cách là nước sáng lập ra ARF, Việt Nam đã góp phần xây dựng ARF trở thành một
diễn đàn đối thoại quan trọng về an ninh khu vực, kiên trì đấu tranh giữ vững các
tính chất, nguyên tắc của Diễn đàn và duy trì vai trò chủ đạo của ASEAN. Khi đưa
ra các quyết sách về các vấn đề trọng đại, nhất là những vấn đề liên quan đến định
hướng phát triển tương lai của Hiệp hội, tiếng nói của Việt Nam luôn được các nước
lắng nghe, nể trọng. Đặc biệt, trên cương vị chủ tịch ARF, Việt Nam đã tích cực chủ
động triển khai các hoạt động theo các chức năng nhiệm vụ của mình và có nhiều
đóng góp quan trọng vào việc tăng cường hơn nữa sự đoàn kết nhất trí trong
ASEAN, thúc đẩy sự hợp tác về mọi mặt giữa các nước ASEAN và giữa ASEAN
với các nước và các bên đối thoại, nhất là hợp tác Đông Á. Đặc biệt, trong tình hình
ASEAN đang gặp một số khó khăn do tác động của toàn cầu hóa, kinh tế các nước
đang phục hồi nhưng còn chưa vững chắc, một số nước có khó khăn nội bộ có thể
tác động tình hình ổn định chung của khu vực, Việt Nam luôn coi trọng việc duy trì
và bảo vệ hòa bình ổn định trong khu vực thông qua vai trò chủ đạo của ASEAN
10
trong Diễn đàn ARF, kiên trì củng cố sự đoàn kết ASEAN trên cơ sở giữ vững
những nguyên tắc cơ bản của Hiệp hội. Mặt khác, Việt Nam luôn đề cao nhiệm vụ
trọng tâm là đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hợp tác nhiều mặt trong ASEAN, nhất
là hợp tác kinh tế và hợp tác thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các nước thành
viên, đồng thời tranh thủ mở rộng quan hệ đối ngoại với các nước, các tổ chức và
các khu vực khác.
2.3. Đóng góp quan trọng cho sự hình thành các sáng kiến, cơ chế hợp tác mới của
ASEAN
Tham gia vào ASEAN, Việt Nam không chỉ tham gia vào các chương trình
hợp tác sẵn có mà Việt Nam còn có nhiều đóng góp có giá trị được ASEAN chấp
nhận. Trong Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ 5 (12/1998) sáng kiến của nước
ta về hợp tác phát triển các vùng nghèo liên quốc gia dọc hành lang Đông-Tây thuộc
lưu vực sông Mê Công ở Lào, Capuchia và Đông Bắc Thái Lan nhằm xóa đói giảm
nghèo, thu hẹp khoảng cách giữa các nước và các vùng trong lãnh thổ Hiệp hội đã
được chấp nhận và đưa vào Chương trình Hành động Hà Nội. Càng tham gia vào
các hoạt động của ASEAN, Việt Nam càng có khả năng bộc lộ được những khả
năng tiềm ẩn của mình. Các sáng kiến mà Việt Nam đưa ra ngày càng có tầm vóc
chiến lược và sức sống lâu dài hơn. Một trong những sáng kiến đó là Tuyên bố Hà
Nội về thu hẹp khoảng cách phát triển nhằm tăng cường liên kết ASEAN do Việt
Nam đưa ra tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 34 tổ chức tại Hà
Nội vào tháng 7/2001. Trong bản Tuyên bố trên, các nhà lãnh đạo ASEAN đã bày
tỏ “quyết tâm thúc đẩy hợp tác có hiệu quả và giúp đỡ lẫn nhau thông qua các nỗ
lực chung nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các nước thành viên ASEAN”.
Việt Nam luôn là quốc gia có sáng kiến hay đưa ra trong các cuộc họp. Tại
Hội nghị APEC-11 “Thế giới của sự khác biệt: Đối tác vì tương lai” tổ chức tại
Băng Cốc, Thái Lan (20-21/10/2003), Việt Nam đã đưa ra hai sáng kiến: thứ nhất,
cần tăng cường hợp tác đầu tư cho cân bằng với hợp tác thương mại nhằm thúc đẩy
đầu tư nội khối APEC, trong đó dành ưu tiên đầu tư vào ASEAN; thứ hai, đưa ra
một số biện pháp cụ thể triển khai kế hoạch hành động hỗ trợ các doanh nghiệp vừa,
11
nhỏ và “siêu nhỏ”, trong đó có việc đề xuất thành lập Quỹ xây dựng năng lực hỗ trợ
các doanh nghiệp “siêu nhỏ”. Chỉ 4 năm sau khi gia nhập APEC, Việt Nam đã đề
xuất đăng cai Hội nghị cấp cao APEC-14 vào năm 2006 và được APEC ủng hộ.
Đặc biệt, năm 2004, trong các ngày 7-9 tháng 10 Việt Nam với tư cách là nước chủ
nhà đã tổ chức thành công Hội nghị Diễn đàn cấp cao hợp tác Á-Âu lần thứ 5
(ASEM-5) tại Hà Nội. Tại Hội nghị này, với nhiều sáng kiến đưa ra và những nỗ
lực hoạt động đóng góp vào kết quả chung, chúng ta đã làm đẹp thêm hình ảnh một
nước Việt Nam năng động, ổn định, giàu tiềm năng , đáng tin cậy và đang chủ động
hội nhập quốc tế theo tinh thần Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của tất
cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình và phát triển.
Gần đây, Việt Nam đã tích cực và chủ động trong việc đóng góp nội dung cho
“Tuyên bố Bali II" và "Dự thảo Cộng đồng ASEAN” nhằm hình thành Tuyên bố và
Kế hoạch hành động của Cộng đồng An ninh ASEAN. Việt Nam cho rằng, cách
tiếp cận An ninh toàn diện với việc khẳng định sự ổn định của chính trị-xã hội, tăng
trưởng kinh tế với thu hẹp khoảng cách phát triển, xóa đói giảm nghèo làm nền tảng
và cơ sở đảm bảo sự bền vững của Cộng đồng An ninh ASEAN (ASC). Ý kiến, đề
xuất này được các nước ASEAN nhất trí, và được nhấn mạnh trong Hành động của
Cộng đồng An ninh ASEAN. Ngoài ra, Việt Nam đã vận động nhiều nước khác đề
cao chủ quyền quốc gia, đưa vào văn kiện ASC những cụm từ hoặc tuyên bố mạnh
mẽ như "các nước ASEAN không để lãnh thổ của mình được phép sử dụng vào mục
đích chống phá các nước khác; cũng không cho phép can thiệp quân sự từ bên ngoài
vào dưới bất kỳ hình thức và biểu hiện nào". Đây là một trong những tuyên bố
mạnh mẽ nhất của ASEAN từ trước tới nay về chính trị và an ninh.
Sáng kiến gần đây nhất của nước ta vào sự phát triển của ASEAN là sáng kiến
xây dựng Cộng đồng văn hóa-xã hội ASEAN. Với việc đề xuất sáng kiến này, Việt
Nam đã góp phần hoàn tất cơ sở lý luận cho việc xây dựng Cộng đồng ASEAN dựa
trên 3 trụ cột là Cộng đồng An ninh, Cộng đồng kinh tế và Cộng đồng văn hóa-xã
hội.
12
2.4. Góp phần mở rộng quan hệ ngoại giao và hợp tác quốc tế của ASEAN với các
nước bên ngoài
Sự tham gia một cách có hiệu quả của Việt Nam trong ASEAN đã góp phần
quan trọng cho việc mở rộng hợp tác của ASEAN với các đối tác bên ngoài, nhất là
các đối tác và láng giềng của Việt Nam. Điều này được thể hiện bằng việc Việt
Nam đã góp phần làm tăng mối quan hệ giữa ASEAN và Trung Quốc, ASEAN và
Liên bang Nga, ASEAN và Ấn Độ, ASEAN và EU.
Cùng với quan hệ Việt -Trung được cải thiện nhanh chóng trong thập niên
qua, vị thế địa lý chiến lược và sự phát triển năng động của Việt Nam thực sự đã và
đang đóng góp một phần quan trọng làm cho ASEAN-Trung Quốc xích lại gần
nhau hơn, hiểu biết và hợp tác nhiều hơn.
Hơn nữa, cùng với sự lớn mạnh của ASEAN, Việt Nam đã và đóng vai trò
không nhỏ trong cân bằng chiến lược và ảnh hưởng giữa các nước lớn. Việt Nam
mở rộng quan hệ với Mỹ và Nhật Bản và Trung Quốc trên một phương diện nào đó
đã cùng các nước ASEAN lợi dụng mâu thuẫn giữa các nước lớn trong khu vực
Châu Á-Thái Bình Dương để các nước lớn kiềm chế nhau nhằm bảo vệ hòa bình an