Thiệt hại ngoài hợp đồng là những thiệt hại gây ra không phải do vi phạm nghĩa
vụ có thoả thuận trong hợp đồng mà là do vi phạm pháp luật, do tội phạm, như do xâm
phạm sức khoẻ, tính mạng, do gây tai nạn gây ra, Bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng là thực hiện trách nhiệm dân sự. Bồi hoàn thiệt hại ngoài hợp đồng theo nguyên
tắc (Điều 610 - Bộ luật dân sự):
a. Toàn bộ và kịp thời: Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức
bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, về phương thức bồi
thường, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
b. Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây
thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình.
c. Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì người bị thiệt hại hoặc
người gây thiệt hại có quyền yêu cầu toà án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền
khác thay đổi mức bồi thường. Vd khi vết thương tái phát, ảnh hưởng nghiêm trọng đến
sức khoẻ, thì người bị thiệt hại có thể yêu cầu bồi thường thêm. Ngược lại, nếu phải bồi
thường vì người bị thiệt hại mất hoàn toàn khả năng lao động nhưng sau đó người này
lại lao động được thì người gây hại có thể yêu cầu toà án có thể thay đổi mức bồi
thường.
12 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2025 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Vai trò luật sư trong việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận
Vai trò luật sư trong việc bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Mục lục
Mục lục ......................................................................................................... 1
I. Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng ................................................. 3
II. Vai trò luật sư trong việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng ...... 3
1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ................................... 3
2. Đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ............................. 4
3. Việc xác định Toà án có thẩm quyền để thực hiện việc khởi kiện 6
4. Về điều kiện thực hiện quyền khởi kiện bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng ........................................................................................ 7
5. Về vấn đề chứng minh và xác định luật áp dụng............................ 8
a) Về vấn đề chứng minh .................................................................... 8
b) Về việc xác định luật áp dụng xác định thiệt hại.......................... 8
III. Kết luận .............................................................................................. 11
IV. Tài liệu tham khảo: ........................................................................... 12
I. Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Thiệt hại ngoài hợp đồng là những thiệt hại gây ra không phải do vi phạm nghĩa
vụ có thoả thuận trong hợp đồng mà là do vi phạm pháp luật, do tội phạm, như do xâm
phạm sức khoẻ, tính mạng, do gây tai nạn gây ra, … Bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng là thực hiện trách nhiệm dân sự. Bồi hoàn thiệt hại ngoài hợp đồng theo nguyên
tắc (Điều 610 - Bộ luật dân sự):
a. Toàn bộ và kịp thời: Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức
bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, về phương thức bồi
thường, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
b. Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây
thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình.
c. Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì người bị thiệt hại hoặc
người gây thiệt hại có quyền yêu cầu toà án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền
khác thay đổi mức bồi thường. Vd khi vết thương tái phát, ảnh hưởng nghiêm trọng đến
sức khoẻ, thì người bị thiệt hại có thể yêu cầu bồi thường thêm. Ngược lại, nếu phải bồi
thường vì người bị thiệt hại mất hoàn toàn khả năng lao động nhưng sau đó người này
lại lao động được thì người gây hại có thể yêu cầu toà án có thể thay đổi mức bồi
thường.
Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Xuất phát từ những quy định, những nguyên tắc của pháp luật nói chung và luật
dân sự nói riêng, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có điều kiện sau:
- Có thiệt hại xảy ra
- Phải có hành vi trái pháp luật.
- Phải có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi trái pháp
luật.
- Phải có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý của người gây thiệt hại.
II. Vai trò luật sư trong việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại
Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành thì trách nhiệm BTTH được
BLDS 2005 quy định tại Điều 307 về trách nhiệm BTTH nói chung và chương XXI về
trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng. Tuy nhiên, trong cả hai phần này đều không nêu rõ
khái niệm trách nhiệm BTTH mà chỉ nêu lên căn cứ phát sinh trách nhiệm, nguyên tắc
bồi thường, năng lực chịu trách nhiệm, thời hạn hưởng bồi thường…
Nhìn dưới góc độ khoa học pháp lý chúng ta thấy rằng, mỗi người sống trong xã
hội đều phải tôn trọng quy tắc chung của xã hội, không thể vì lợi ích của mình mà xâm
phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Khi một người vi phạm nghĩa vụ
pháp lý của mình gây tổn hại cho người khác thì chính người đó phải chịu bất lợi do
hành vi của mình gây ra. Sự gánh chịu một hậu quả bất lợi bằng việc bù đắp tổn thất
cho người khác được hiểu là bồi thường thiệt hại
Như vậy, có thể hiểu trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một loại trách nhiệm
Dân sự mà theo đó thì khi một người vi phạm nghĩa vụ pháp lý của mình gây tổn hại
cho người khác phải bồi thường những tổn thất mà mình gây ra.
2. Đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại
Là một loại trách nhiệm pháp lý nên ngoài những đặc điểm của trách nhiệm pháp
lý nói chung như do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng, áp dụng đối với người
có hành vi vi phạm pháp luật, luôn mang đến hậu quả bất lợi cho người bị áp dụng,
được đảm bảo thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước…. thì trách nhiệm bồi thường thiệt
hại còn có những đặc điểm riêng sau đây:
- Xét về cơ sở pháp lý: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một loại trách nhiệm
Dân sự và chịu sự điều chỉnh của pháp luật Dân sự. Khi một người gây ra tổn thất cho
người khác thì họ phải bồi thường thiệt hại và bồi thường thiệt hại chính là một quan hệ
tài sản do Luật Dân sự điều chỉnh và được quy định trong BLDS ở Điều 307 và Chương
XXI và các văn bản hướng dẫn thi hành BLDS.
- Với vai trò người luật sư khi tham gia xem xét các vụ kiện liên quan đến trách
nhiệm BTTH chỉ đặt ra khi thoả mãn các điều kiện nhất định đó là:
Có thiệt hại xảy ra
Thiệt hại là những tổn thất thực tế được tính thành tiền, do việc xâm phạm
đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, tài sản của cá nhân, tổ chức.
+ Thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ làm phát sinh thiệt hại về vật chất bao
gồm chi phí cứu chữa, bồi thường, chăm sóc, phục hồi chức năng bị mất, thu
nhập thực tế bị mất, bị giảm sút do thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ.
+ Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm uy tín bị xâm hại bao gồm chi phí hợp
lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút do
danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại.
+ Thiệt hại do bị tổn thất về tinh thần. Bộ luật Dân sự quy định: Toà án có
thể buộc người xâm hại "bồi thường một khoản tiền để bù đắp tổn thất về tinh
thần cho người bị thiệt hại, người thân thích gần gũi của nạn nhân".
Những quy định này chỉ định hướng nhưng chưa có tính định lượng trong việc
bồi thường thiệt hại.
Do đó luật sư là người phải xác định trong trường hợp nào được bồi
thường, bồi thường bao nhiêu, bồi thường cho ai... Ví dụ: Thiệt hại về tài sản,
biểu hiện cụ thể là mất tài sản, giảm sút tài sản, những chi phí để ngăn chặn,
hạn chế, sửa chữa thay thế, những lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác
công dụng của tài sản để tư vấn cho khách hàng.
Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật:
Quyền được bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, tài sản là một quyền
tuyệt đối của mọi công dân, tổ chức. Mọi người đều phải tôn trọng những quyền
đó của chủ thể khác, không được thực hiện bất cứ hành vi nào "xâm phạm" đến
các quyền đó. Bởi vậy, Điều 609 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về thiệt hại
do sức khoẻ bị xâm phạm. Việc "xâm phạm" mà gây thiệt hại có thể là hành vi vi
phạm pháp luật hình sự, hành chính, dân sự, kể cả những hành vi vi phạm
đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, vi phạm các quy tắc sinh hoạt trong
từng cộng đồng dân cư...
Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại với thiệt hại
xảy ra.
Thiệt hại xảy ra là kết quả của hành vi trái pháp luật hay ngược lại hành vi
trái pháp luật là nguyên nhân của thiệt hại xảy ra. Điều này được quy định tại
Điều 609 Bộ luật Dân sự dưới dạng: "Người nào... xâm phạm... mà gây thiệt
hại... thì phải bồi thường". Ở đây chúng ta có thể thấy hành vi đó.
Tuy nhiên, việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và
thiệt hại xảy ra trong nhiều trường hợp rất khó khăn. Do đó cần phải xem xét,
phân tích, đánh giá tất cả các sự kiện liên quan một cách thận trọng, khách quan
và toàn diện. Từ đó mới có thể rút ra được kết luận chính xác về nguyên nhân,
xác định đúng trách nhiệm của người gây thiệt hại.
Có lỗi của người gây thiệt hại
Người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm dân sự khi họ có lỗi. Xét về hình
thức lỗi là thái độ tâm lý của người có hành vi gây thiệt hại, lỗi được thể hiện
dưới dạng cố ý hay vô ý.
Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình
sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc không
mong muốn, nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra.
Vô ý gây thiệt hại là một người không thấy trước hành vi của mình có khả
năng gây ra thiệt hại mặc dù phải biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước
hành vi của mình có khả năng gây ra thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không
xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.
Lỗi là một trong bốn điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng nói riêng và trách nhiệm dân sự nói chung. Con người phải
chịu trách nhiệm khi họ có lỗi, có khả năng nhận thức và làm chủ được hành vi
của mình. Bởi vậy, những người không có khả năng nhận thức và làm chủ được
hành vi của mình sẽ không có lỗi trong việc thực hiện các hành vi đó.
Tuy nhiên, có trường hợp người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi
thường nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước
mắt và lâu dài của họ hoặc thiệt hại do lỗi cố ý của người bị thiệt hại, thì không
phải bồi thường.
Đây là những điều kiện chung nhất để xác định trách nhiệm của một người phải
bồi thường những thiệt hại do mình gây ra. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt
trách nhiệm BTTH có thể phát sinh khi không có đủ các điều kiện trên điển hình là các
trường hợp bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra.
Khi xét về hậu quả, trách nhiệm bồi thường thiệt hại luôn mang đến một hậu quả
bất lợi về tài sản cho người gây thiệt hại. Bởi lẽ, khi một người gây ra tổn thất cho
người khác thì tổn thất đó phải tính toán được bằng tiền hoặc phải được pháp luật quy
định là một đại lượng vật chất nhất định nếu không sẽ không thể thực hiện được việc
bồi thường. Do đó, những thiệt hại về tinh thần mặc dù không thể tính toán được
nhưng cũng sẽ được xác định theo quy định của pháp luật để bù đắp lại tổn thất cho
người bị thiệt hại. Và cũng chính vì vậy, thực hiện trách nhiệm bồi thường sẽ giúp khôi
phục lại thiệt hại cho người bị thiệt hại. khi đó yêu cầu về kỹ năng tính toán chính xác
những mức bồi thường hợp lý và có thể chấp nhận được tùy vào mỗi vai trò là người
bảo vệ cho nguyên đơn hay bị đơn.
- Vai trò người luật sư khi xác đinh rõ chủ thể bị áp dụng trách nhiệm: Ngoài
người trực tiếp có hành vi gây thiệt hại thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại còn được áp
dụng cả đối với những chủ thể khác đó là cha, mẹ của người chưa thành niên, người
giám hộ của người được giám hộ, pháp nhân đối với người của pháp nhân gây ra thiệt
hại, trường học, bệnh viện trong trường hợp người chưa thành niên, người mất năng
lực hành vi dân sự gây thiệt hại hoặc tổ chức khác như cơ sở dạy nghề…
3. Việc xác định Toà án có thẩm quyền để thực hiện việc khởi
kiện
- Về thẩm quyền sơ thẩm theo cấp Toà án:
Thông thường khi tham gia các việc kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại do tài sản
gây ra thuộc thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Toà án nhân dân cấp huyện. Tuy nhiên,
đối với những việc nêu trên nếu có một bên đương sự đang ở nước ngoài hoặc cần
phải uỷ thác tư pháp cho cơ quan lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài, cho Toà án
nước ngoài thì người bị thiệt hại phải yêu cầu Toà án cấp tỉnh thụ lý giải quyết (các
Điều 33, 34 BLTTDS). Do đó luật sư phải xem xét kỹ để tư vấn cho khách hàng khởi
kiện đúng cấp đúng theo trình tự
- Về thẩm quyền sơ thẩm theo lãnh thổ:
Theo quy định pháp luật tố tụng dân sự hiện hành thì Toà án nơi có bất động sản
có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp về bất động sản còn đối với các việc kiện
không phải là tranh chấp về bất động sản thì thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của
Toà án theo lãnh thổ được xác định theo nguyên tắc nơi hiện diện của bị đơn. Như vậy,
về nguyên tắc đối với các việc kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra thì
Toà án có thẩm quyền là Toà án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc
nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức. Tuy nhiên, nếu các đương sự có
thoả thuận với nhau bằng văn bản thì cũng có thể yêu cầu Toà án nơi cư trú, làm việc
của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cá nhân hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn, nếu
nguyên đơn là cơ quan, tổ chức (Điều 35 BLTTDS).
Bên cạnh đó, pháp luật cũng đã quy định về quyền lựa chọn của nguyên đơn
trong việc xác định Toà án có thẩm quyền giải quyết các yêu cầu về bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng mà không cần sự đồng thuận của người bị kiện. Cụ thể như sau:
Theo quy định tại điểm d Khoản 1 Điều 36 BLTTDS thì “ Nếu tranh chấp về bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi mình cư trú,
làm việc, có trụ sở hoặc nơi xảy ra việc gây thiệt hại giải quyết” nhằm mở rộng hơn
quyền lựa chọn của người bị thiệt hại trong việc xác định Toà án có thẩm quyền giải
quyết các tranh chấp về bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra. Theo luật thực định nếu
trách nhiệm bồi thường thiệt hại là trách nhiệm liên đới, do tài sản thuộc sở hữu chung
của nhiều người hoặc chủ sở hữu và người chiếm hữu cùng có lỗi trong việc gây ra
thiệt hại…thì Toà án có thẩm quyền giải quyết là Toà án nơi một trong các bị đơn cư
trú, làm việc hoặc có trụ sở giải quyết. Điểm h Khoản 1 Điều 36 BLTTDS quy định “Nếu
các bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở ở nhiều nơi khác nhau thì nguyên đơn có thể yêu
cầu Toà án nơi một trong các bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở giải quyết”.
Như vậy, tuỳ theo trường hợp mà Toà án có thẩm quyền theo lãnh thổ giải quyết
việc kiện bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra là Toà án nơi bị đơn, Toà án nơi nguyên
đơn hoặc Toà án nơi xảy ra thiệt hại. Để xác định nơi cư trú của cá nhân là nguyên đơn
hay bị đơn trong vụ kiện, cần căn cứ vào các quy định của BLDS (từ Điều 52 tới Điều
57)
4. Về điều kiện thực hiện quyền khởi kiện bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng
Trước khi tham gia các vụ kiện liên quan đến bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
người luật sư phải nghiên cứu kỹ, thời hiệu khởi kiện của vụ việc, thời điểm thiệt hại
xảy ra do hành vi trái pháp luật gây ra.
Về thời hiệu khởi kiện:
Trước đây, đối với các việc kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
pháp luật không quy định về thời hiệu khởi kiện nên trong thực tế các việc kiện yêu cầu
bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra không bị giới hạn về thời gian khởi kiện. Thế
nhưng, hiện nay theo Điều 607 BLDS thì thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt
hại là hai năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, chủ thể
khác bị xâm phạm. Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày 8/7/2006 về hướng dẫn áp
dụng một số quy định của BLDS về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có chỉ rõ hai
mốc thời gian để xác định thời hạn hai năm nói trên. Đối với những trường hợp bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh kể từ ngày 1/1/2005 thì thời hiệu khởi kiện là
2 năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác bị
xâm phạm. Đối với những trường hợp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh
trước ngày 1/1/2005 thì thời hiệu khởi kiện được tính từ ngày 1/1/2005.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp
nhân, chủ thể khác bị xâm phạm là ngày nào: Ngày xảy ra sự kiện thiệt hại hay ngày
mà quyền được bồi thường của người bị thiệt hại không được bên gây thiệt hại đáp
ứng. Ví dụ trong trường hợp nếu người bị thiệt hại mất hoàn toàn khả năng lao động
nhưng trong thời hạn hai năm kể từ ngày xảy ra thiệt hại mà họ không khởi kiện thì họ
có mất quyền khởi kiện hay không? Nếu quan niệm người bị thiệt hại không có quyền
khởi kiện nữa thì dường như mâu thuẫn với quy định “người bị thiệt hại được hưởng
bồi thường cho đến khi chết”. Tuy nhiên, người ta có thể lập luận rằng người bị thiệt hại
chỉ được hưởng bồi thường cho đến khi chết nếu đã khởi kiện khi sự việc còn thời hiệu
khởi kiện, ngược lại nếu không khởi kiện trong thời hạn đó thì sẽ không được hưởng
bồi thường. Nếu giải thích theo hướng này thì quả thực rất bất lợi cho người bị thiệt hại.
Thiết nghĩ, sẽ hợp lý hơn nếu cho rằng khi hết thời hạn 2 năm kể từ ngày kết thúc việc
điều trị người bị thiệt hại không có quyền khởi kiện với các khoản chi phí để điều trị
nhằm khắc phục thiệt hại, còn đối với các khoản thu nhập bị mất hoặc bị giảm sút sau
khi điều trị thì thời hiệu khởi kiện là 2 năm tính theo định kỳ hàng tháng đối với từng
khoản thu nhập. Do đó pháp luật cần phải có những hướng dẫn cụ thể trong việc áp
dụng các quy định của BLDS về thời hiệu khởi kiện trong các vụ việc về yêu cầu bồi
thường thiệt hại do tài sản gây ra để bảo vệ quyền lợi chính đáng của người bị thiệt hại.
5. Về vấn đề chứng minh và xác định luật áp dụng
a) Về vấn đề chứng minh
Khi thực hiện việc khởi kiện trước Toà án để yêu cầu bồi thường thiệt hại do tài
sản gây ra thì về nguyên tắc người khởi kiện phải có trách nhiệm dẫn chứng các giấy
tờ, tài liệu để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Bị đơn nếu
có yêu cầu phản tố cũng có nghĩa vụ cung cấp các chứng cứ, tài liệu để chứng minh.
Với vai trò người luật sư bảo vệ quyền lợi của người nguyên đơn hoặc bị đơn cần
phải tìm hiểu các chứng cứ, tài liệu chứng minh, tài liệu liên quan đến thiệt hại thực tế,
các giám định khi cần
Trong việc kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra thì các chứng cứ tài
liệu được cung cấp là để làm rõ những vấn đề sau đây:
- Có thiệt hại thực tế xảy ra hay không và mức độ thiệt hại
- Người bị khởi kiện có hành vi trái pháp luật hay không? Nếu là tài sản gây thiệt
hại thì có sự kiện gây thiệt hại trái pháp luật hay không?
- Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật hoặc sự kiện gây thiệt hại trái
pháp luật và thiệt hại thực tế xảy ra
- Lỗi của người gây thiệt hại, lỗi của người bị thiệt hại
Bốn yếu tố này là cơ sở để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên
với vai trò luật sư của người bị khởi kiện có thể dẫn chứng những tài liệu để phản bác
lại yêu cầu khởi kiện như chứng minh thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị
thiệt hại, thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết.
Trong các vụ kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra, luật sư bảo vệ
người bị thiệt hại có thể cung cấp cho Toà án những tài liệu, hoá đơn, chứng từ để
chứng minh thiệt hại mà họ phải gánh chịu. Trong trường hợp cần thiết có thể tham
khảo ý kiến của các nhà chuyên môn (ý kiến của bác sĩ điều trị, hội đồng giám định y
khoa đối với thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ; tổn thất về tinh thần, về chi phí thực tế bỏ
ra để phục hồi nguyên trạng tài sản…) hoặc tham khảo ý kiến của cơ quan nơi người
lao động làm việc để xác định thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút.
b) Về việc xác định luật áp dụng xác định thiệt hại
Xuất phát từ nguyên tắc chung của pháp luật dân sự là tôn trọng và bảo vệ quyền
lợi hợp pháp của các cá nhân, tổ chức, khi các quyền này bị xâm phạm, gây thiệt hại,
việc bồi thường thiệt hại cho nạn nhân là một đòi hỏi cấp thiết và chính đáng. Chính vì
vậy, bên cạnh những quy định mang tính nguyên tắc chung về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do hành vi trái pháp luật gây ra, pháp luật còn quy định ngoại lệ đối với trách
nhiệm bồi thường do tài sản gây ra.
Khi giải quyết tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, cần phải thực
hiện đúng nguyên tắc bồi thường thiệt hại quy định tại Điều 605 BLDS. Cần phải tôn
trọng thoả thuận của các bên về mức bồi thường, hình thức bồi thường và phương
thức bồi thường, nếu thoả thuận đó không trái pháp luật, đạo đức xã hội.
Trong trường hợp các bên không thoả thuận được thì khi giải quyết tranh chấp về
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cần chú ý:
Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ, có nghĩa là khi có yêu cầu giải
quyết bồi thường thiệt hại do tài sản, sức khoẻ, tính mạng, danh d