1. Lý do chọn đề tài
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã đề ra mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" (Dẫn theo [2; 309]). Văn kiện đã chỉ rõ mục tiêu phấn đấu của toàn Đảng toàn dân trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước. Để thực hiện mục tiêu trên thì đổi mới về KT-XH là một việc làm cần thiết. Song hiện nay việc phát triển KT-XH theo định hướng XHCN ở Việt Nam vẫn còn một số khó khăn, hạn chế nhất định. Do đó việc vận dụng đúng đắn lý luận hình thái KT-XH vào sự nghiệp xây dựng CNXH là vô cùng quan trọng.
Nước ta tiến lên CNXH từ điều kiện riêng biệt: nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, lao động thủ công là chủ yếu. Do đó muốn thực hiện thành công sự nghiệp xây dựng CNXH ngoài nguồn nội lực còn cần phải vận dụng sáng tạo, khoa học lý luận hình thái KT-XH vào điều kiện đất nước.
Thế kỷ XXI là thế kỷ của nền kinh tế tri thức, của khoa học công nghệ, của xu thế toàn cầu hóa. điều đó đặt ra yêu cầu đối với sự phát triển kinh tế đất nước. Trong khi đó, hệ thống CNXH ở một số nước Đông Âu và Liên Xô lâm vào khủng hoảng trầm trọng, CNTB đạt được những thành tựu rực rỡ. Yêu cầu Đảng ta phải kiên định sáng suốt trong mục tiêu xây dựng CNXH cho phù hợp với xu hướng của thời đại và điều kiện cụ thể ở nước ta.
Với ý định phần nào giải đáp cho những vấn đề trên, chúng tôi lựa chọn đề tài: Vận dụng lý luận hình thái kinh tế - xã hội vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam đã được Đảng cụ thể hoá ở rất nhiều văn kiện đại hội Đảng. Từ Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12/1986) Đảng đã chỉ rõ mục tiêu xây dựng đất nước sau đổi mới. Mục tiêu đó càng được bổ sung và hoàn chỉnh hơn ở các Văn kiện ở Đại hội đại biểu lần VII, lần thứ VIII, lần thứ IX. Các văn kiện này đã cụ thể hóa từ đường lối cho đến cách thức, biện pháp, con đường để thực hiện thành công sự nghiệp xây dựng CNXH. Ngoài ra các cuốn Giáo trình Triết học Mác - Lênin (Nxb Chính trị Quốc gia, 2006), Giáo trình Triết học Mác - Lênin (Nxb Chính trị Quốc gia, 2007), Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng đã trình bày nhiều vấn đề liên quan đến sự vận dụng lý luận hình thái KT-XH vào sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta. Đó là những tư liệu vô cùng quan trọng gợi mở cho chúng tôi rất nhiều trong việc triển khai đề tài này.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Ở đề tài Sự vận dụng lý luận hình thái KT-XH vào sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam, chúng tôi thực hiện một số nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:
3.1. Giới thuyết về lý luận hình thái KT-XH và vai trò phương pháp luận của lý luận đó.
3.2. Chỉ rõ sự vận dụng lý luận hình thái KT-XH vào sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện tốt các nhiệm vụ nghiên cứu, trong quá trình triển khai đề tài này, chúng tôi vận dụng những phương pháp sau:
4.1. Phương pháp so sánh - đối chiếu.
4.2. Phương pháp phân tích - tổng hợp.
5. Cấu trúc tiểu luận
Ngoài phần mở đầu và kết thúc, nội dung chính của tiểu luận gồm 2 chương.
Chương 1: Lý luận hình thái KT-XH và vai trò phương pháp luận của lý luận đó.
Chương 2: Sự vận dụng lý luận hình thái KT-XH vào sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam.
22 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 5150 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Vận dụng lý luận hình thái kinh tế - xã hội vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
KHOA SAU ĐẠI HỌC
----------*&*----------
PHAN SONG THOA
THPT HƯƠNG TRÀ
VẬN DỤNG LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ -
XÃ HỘI VÀO SỰ NGIỆP XÂY DỰNG
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HỌC
Vinh - 2009
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
KHOA SAU ĐẠI HỌC
----------*&*----------
VẬN DỤNG LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ -
XÃ HỘI VÀO SỰ NGIỆP XÂY DỰNG
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HỌC
Giáo viên hướng dẫn: NGUYỄN LƯƠNG BẰNG
Học viên thực hiện: NGUYỄN MẠNH TUẤN
Lớp: CAO HỌC 15 - HÓA HỮU CƠ
Vinh, năm 2007
KÝ HIỆU TRONG TIỂU LUẬN:
1. Chủ nghĩa tư bản (CNTB)
2. Chủ nghĩa xã hội (CNXH)
3. Kinh tế - xã hội (KT-XH)
4. Lực lượng sản xuất (LLSX)
5. Quan hệ sản xuất (QHSX)
MỤC LỤC
Trang
Mở đầu
3
1. Lý do chọn đề tài.
3
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
3
3. Nhiệm vụ nghiên cứu.
4
4. Phương pháp nghiên cứu.
4
5. Cấu trúc tiểu luận.
4
Chương 1: Lý luận hình thái KT-XH và vai trò phương pháp luận của lý luận đó.
5
1.1. Lý luận hình thái KT-XH.
5
1.2. Vai trò phương pháp luận của nó.
10
Chương 2: Sự vận dụng hình thái KT-XH vào sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam.
12
2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về CNXH trước những biến đổi của thời đại.
12
2.2. Sự vận dụng lý luận hình thái KT-XH vào sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam.
13
Kết luận.
18
Tài liệu tham khảo.
19
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã đề ra mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" (Dẫn theo [2; 309]). Văn kiện đã chỉ rõ mục tiêu phấn đấu của toàn Đảng toàn dân trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước. Để thực hiện mục tiêu trên thì đổi mới về KT-XH là một việc làm cần thiết. Song hiện nay việc phát triển KT-XH theo định hướng XHCN ở Việt Nam vẫn còn một số khó khăn, hạn chế nhất định. Do đó việc vận dụng đúng đắn lý luận hình thái KT-XH vào sự nghiệp xây dựng CNXH là vô cùng quan trọng.
Nước ta tiến lên CNXH từ điều kiện riêng biệt: nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, lao động thủ công là chủ yếu. Do đó muốn thực hiện thành công sự nghiệp xây dựng CNXH ngoài nguồn nội lực còn cần phải vận dụng sáng tạo, khoa học lý luận hình thái KT-XH vào điều kiện đất nước.
Thế kỷ XXI là thế kỷ của nền kinh tế tri thức, của khoa học công nghệ, của xu thế toàn cầu hóa... điều đó đặt ra yêu cầu đối với sự phát triển kinh tế đất nước. Trong khi đó, hệ thống CNXH ở một số nước Đông Âu và Liên Xô lâm vào khủng hoảng trầm trọng, CNTB đạt được những thành tựu rực rỡ. Yêu cầu Đảng ta phải kiên định sáng suốt trong mục tiêu xây dựng CNXH cho phù hợp với xu hướng của thời đại và điều kiện cụ thể ở nước ta.
Với ý định phần nào giải đáp cho những vấn đề trên, chúng tôi lựa chọn đề tài: Vận dụng lý luận hình thái kinh tế - xã hội vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam đã được Đảng cụ thể hoá ở rất nhiều văn kiện đại hội Đảng. Từ Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12/1986) Đảng đã chỉ rõ mục tiêu xây dựng đất nước sau đổi mới. Mục tiêu đó càng được bổ sung và hoàn chỉnh hơn ở các Văn kiện ở Đại hội đại biểu lần VII, lần thứ VIII, lần thứ IX. Các văn kiện này đã cụ thể hóa từ đường lối cho đến cách thức, biện pháp, con đường để thực hiện thành công sự nghiệp xây dựng CNXH. Ngoài ra các cuốn Giáo trình Triết học Mác - Lênin (Nxb Chính trị Quốc gia, 2006), Giáo trình Triết học Mác - Lênin (Nxb Chính trị Quốc gia, 2007), Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng đã trình bày nhiều vấn đề liên quan đến sự vận dụng lý luận hình thái KT-XH vào sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta. Đó là những tư liệu vô cùng quan trọng gợi mở cho chúng tôi rất nhiều trong việc triển khai đề tài này.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Ở đề tài Sự vận dụng lý luận hình thái KT-XH vào sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam, chúng tôi thực hiện một số nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:
3.1. Giới thuyết về lý luận hình thái KT-XH và vai trò phương pháp luận của lý luận đó.
3.2. Chỉ rõ sự vận dụng lý luận hình thái KT-XH vào sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện tốt các nhiệm vụ nghiên cứu, trong quá trình triển khai đề tài này, chúng tôi vận dụng những phương pháp sau:
4.1. Phương pháp so sánh - đối chiếu.
4.2. Phương pháp phân tích - tổng hợp.
5. Cấu trúc tiểu luận
Ngoài phần mở đầu và kết thúc, nội dung chính của tiểu luận gồm 2 chương.
Chương 1: Lý luận hình thái KT-XH và vai trò phương pháp luận của lý luận đó.
Chương 2: Sự vận dụng lý luận hình thái KT-XH vào sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam.
Kết luận.
Tài liệu tham khảo.
Chương 1
LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ -XÃ HỘI
VÀ VAI TRÒ PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA LÝ LUẬN ĐÓ
1.1. Lý luận hình thái KT-XH
1.1.1. Tiền đề xuất phát để xây dựng lý luận hình thái KT-XH
Xã hội trong bất cứ giai đoạn lịch sử nào cũng là một hệ thống hết sức phức tạp bao gồm nhiều lĩnh vực như: kinh tế, văn hóa, tư tưởng... Tất cả các lĩnh vực đó đều tác động đến con người và thông qua hoạt động của con người, mà hoạt động của con người bao giờ cũng có ý thức, ý chí chỉ đạo. Chính vì vậy, việc giải thích về đời sống xã hội là một vấn đề hết sức phức tạp. Trong suốt quá trình lịch sử lâu dài trước khi Triết học Mác ra đời, các nhà triết học đều duy tâm trong lịch sử. Họ cho rằng lịch sử phát triển theo hướng nào là do đầu óc của các vĩ nhân.
Mác đã phê phán những tư tưởng duy tâm đó, ông đi từ một sự thật đơn giản đó là: Con người muốn tồn tại cần phải có thức ăn, thức uống, nhà ở. Những thứ này không có sẵn trong tự nhiên. Vì vậy, muốn có nó, con người phải tiến hành hoạt động sản xuất vật chất. Trong quá trình sản xuất vật chất con người ngày càng chế tạo ra nhiều công cụ sản xuất và phát triển cả về tư duy, thể chất. Để tồn tại và phát triển, con người không chỉ sản xuất ra của cải vật chất mà còn sản xuất ra của cải tinh thần, ra bản thân con người và các quan hệ xã hội.
Tuy nhiên, ở những thời điểm lịch sử khác nhau, hoạt động sản xuất vật chất lại được tiến hành theo những cách thức khác nhau. Cách thức khác nhau đó, Mác gọi là phương thức sản xuất. Chính phương thức sản xuất là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Như vậy, xuất phát từ sản xuất, C. Mác đã phân tích một cách khoa học mối quan hệ lẫn nhau giữa các mặt trong đời sống xã hội và phát hiện ra các quy luật vận động, phát triển của xã hội. Từ đó, C. Mác đi đến khái quát khoa học lý luận về hình thái KT-XH.
1.1.2. Khái niệm hình thái KT-XH
Giữa các mặt trong đời sống xã hội thống nhất biện chứng với nhau tạo thành các xã hội cụ thể tồn tại trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Các xã hội cụ thể đó được chủ nghĩa duy vật lịch sử khái quát thành phạm trù hình thái KT-XH như sau: "Hình thái KT-XH là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử: dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, và với một kiến thức thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy" [1; 389].
1.1.3. Phép biện chứng trong sự vận động, phát triển của các hình thái KT-XH
1.1.3.1. Biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất
Quá trình sản xuất của con người chịu sự tác động song cùng đó là con người quan hệ với tự nhiên thông qua việc sử dụng công cụ lao động và quan hệ con người với con người trong sản xuất để hợp thành phương thức sản xuất. Phương thức sản xuất là "cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở từng giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người" [1; 390].
Mỗi xã hội được đặc trưng bằng một phương thức sản xuất nhất định. Phương thức sản xuất là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng: Sự vận động, phát triển của phương thức sản xuất do sự tác động qua lại một cách biện chứng giữa LLSX và QHSX.
"LLSX là toàn bộ các lực lượng được con người sử dụng trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất. Nó bao gồm người lao động với một thể lực, tri thức, kỹ năng lao động nhất định và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động. Trong quá trình sản xuất sức lao động của con người kết hợp với tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động, tạo thành LLSX" [1; 391].
"Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất. QHSX gồm 3 mặt: Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất ra" [1; 392].
LLSX và QHSX tồn tại không tách rời nhau, thống nhất biện chứng với nhau Trong đó, sự vận động, phát triển của LLSX quuết định quan hệ sản xuất, làm cho quan hệ sản xuất biến đổi phù hợp với nó. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của LLSX, nó có tác dụng thúc đẩy mở đường LLSX phát triển. Nhưng do LLSX là yếu tố động, biến đổi nhanh, quan hệ sản xuất biến đổi chậm, QHSX trở thành không phủ hợp với LLSX. Khi đó, QHSX trở thành "xiềng xích" cản trở sự phát triển của LLSX. Để mở đường cho LLSX phát triển phải xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập QHSX mới phù hợp với trình độ phát triển của LLSX. Khi QHSX mới ra đời, một phương thức sản xuất mới tương ứng xuất hiện. Do đó lịch sử phát triển của xã hội loài người là lịch sử kế tiếp nhau của các phương thức sản xuất.
LLSX quyết định QHSX, nhưng QHSX có sự tác động trơ lại sự phát triển của LLSX. Khi QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX thì nó là động lực mở đường cho LLSX phát triển. Ngược lại, khi QHSX không phù hợp với trình độ phát triển của LLSX thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của LLSX. Khi này theo quy luật chung, QHSX cũ được thay thế bằng QHSX mới phù hợp với trình độ phát triển của LLSX. Tuy nhiên, việc giải quyết mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX không phải đơn giản. Trong xã hội có giai cấp phải thông qua đấu tranh giai cấp, thông qua cách mạng xã hội.
1.1.3.2. Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
QHSX được hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất tạo thành quan hệ vật chất của xã hội. Trên cơ sở quan hệ sản xuất hình thành nên quan hệ chính trị và tinh thần của xã hội. Hai mặt đó được khái quát thành cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội.
"Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định" [1; 397]. Cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể bao gồm QHSX thống trị, QHSX tàn dư của xã hội cũ và QHSX mầm mống của xã hội tương lai.
"Kiến thúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật... cùng với những thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội,... được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định" [1; 397].
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng thống nhất biện chứng với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng.
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng biểu hiện ở chỗ: Mỗi cơ sở hạ tầng sẽ hình thành nên một kiến trúc thượng tầng tương ứng với nó. Tính chất của kiến trúc thượng tầng do tính chất của cơ sở hạ tầng quyết định. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào thống trị về kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống trị về mặt chính trị và đời sống tinh thần của xã hội. Các mâu thuẫn về kinh tế quyết định các mâu thuẫn về chính trị, tư tưởng. Tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng (nhà nước, pháp quyền, triết học...) đều trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng , do cơ sở hạ tầng quyết định.
Cơ sở hạ tầng thay đổi thì kiến trúc thượng tầng sớm hay muộn cũng thay đổi theo. C. Mác viết: "Cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ kiến trúc thượng tầng đồ sộ cùng bị đảo lộn ít nhiều, nhanh chóng". Sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng không chỉ diễn ra trong giai đoạn thay thế hình thái KT-XH này bằng hình thái KT-XH khác, mà còn diễn ra trong quá trình biến đổi của một hình thái KT-XH . Trong các yếu tố của kiến trúc thượng tầng, có yếu tố thay đổi nhanh cùng sự thay đổi của cơ sở hạ tầng (chính trị, pháp quyền) nhưng cũng có yếu tố thay đổi chậm như tôn giáo, nghệ thuật...
Kiến trúc thượng tầng có tính độc lập tương đối và có tác động trở lại đối với cơ sở hạ tầng. Tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng đều có tác động đến cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, mỗi yếu tố khác nhau, có vai trò khác nhau, có cách thức tác động khác nhau. trong xã hội có giai cấp, nhà nước là yếu tố tác động mạnh nhất đối với cơ sở hạ tầng. Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng diễn ra theo 2 chiều. Nếu kiến trúc thượng tầng tác động phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan thì nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển; nếu tác động ngược lại sẽ kìm hãm phát triển kinh tế, kìm hãm tiến bộ xã hội. Nếu kiến trúc thượng tầng kìm hãm sự phát triển kinh tế thì sớm hay muộn, bằng cách này hay cách khác, kiến trúc thượng tầng cũ sẽ được thay thế bằng kiến trúc thượng tầng mới để thúc đẩy kinh tế tiếp tục phát triển.
1.1.3.3. Sự phát triển của các hình thái KT-XH là một quá trình lịch sử - tự nhiên
Từ sự phân tích quy luật vận động phát triển khách quan của xã hội. Mác đã đi đến kết luận: "Sự phát triển của những hình thái KT-XH là một quá trình lịch sử - tự nhiên". Nói sự phát triển của hình thái KT-XH là một quá trình lịch sử - tự nhiên có nghĩa là nó diễn ra một cách khách quan theo quy luật chứ không theo ý muốn chủ quan của con người. Tức là xã hội loài người cũng có quá trình phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện.
Động lực của sự vận động, phát triển của xã hội nằm ngay trong lòng xã hội với sự tác động, chi phối của hai quy luật cơ bản là quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng và các quy luật khác. Nguồn gốc sâu xa của sự vận động, phát triển của các hình thái KT-XH là sự phát triển của LLSX.
Tuy nhiên con đường phát triển của mỗi dân tộc không chỉ bị chi phối bởi quy luật chung mà còn bị tác động bởi các điều kiện phát triển cụ thể của mối dân tộc như về điều kiện tự nhiên, chính trị, truyền thống văn hóa,... Như vậy, lịch sử phát triển nhân loại vừa tuân theo những quy luật chung, vừa rất phong phú, đa dạng. Mỗi dân tộc đều có nét độc đáo riêng trong lịch sử phát triển của mình. Có những dân tộc lần lượt trải qua các hình thái KT-XH từ thấp đến cao, nhưng cũng có dân tộc bỏ qua một hay một số hình thái KT-XH nào đó. Như vậy, quá trình lịch sử tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những diễn ra bằng con đường tuần tự mà còn bao hàm cả sự bỏ qua trong những điều kiện nhất định, một hoặc một vài hình thái KT-XH nhất định.
1.2. Vai trò phương pháp luận của lý luận hình thái KT-XH
Lý luận hình thái KT-XH ra đời là một bước chuyển biến cách mạng trong nhận thức về đời sống xã hội. Lý luận đó đã mang lại một phương pháp luận thực sự khoa học cho nhận thức và hoạt động thực tiễn cải tạo xã hội theo con đường tiến bộ.
Lý luận hình thái KT-XH chỉ ra: sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định quá trình sinh họat xã hội, chính trị và tinh thần nói chung .
Lý luận hình thái KT-XH chỉ ra: Xã hội không phải là sự kết hợp một cách ngẫu nhiên, máy móc mà là một cơ thể sống sinh động, các mặt tác động qua lại chặt chẽ với nhau. Muốn nhận thức đúng đời sống xã hội phải phân tích một cách sâu sắc mối quan hệ giữa các mặt của đời sống xã hội. Vịêc cải tạo xã hội cũ xây dựng xã hội mới, phải tiến hành một cách đồng bộ tất cả các mặt: LLSX, QHSX, cơ sở hạ tầng , kiến trúc thượng tầng.
Lý luận hình thái KT-XH chỉ ra rằng: sự phát triển của các hình thái KT-XH là một quá trình lịch sử tự nhiên, tức diễn ra theo các quy luật khách quan, chứ không phải theo ý muốn chủ quan. Do đó việc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới đòi hỏi phải nhận thức và vận dụng đúng quy luật khách quan, chống chủ quan duy ý chí.
Không những thế, lý luận hình thái KT-XH vừa chỉ ra quy luật phát triển chung của nhân loại, vừa chỉ ra mỗi dân tộc do điều kiện lịch sử cụ thể mà có còn đường phát triển riêng, đặc thù. Để nhận thức đúng đắn con đường phát triển của mỗi dân tộc phải kết hợp việc nghiên cứu những quy luật chung với việc nghiên cứu một cách cụ thể điều kiện cụ thể của mỗi dân tộc.
Từ khi Mác xây dựng nên lý luận hình thái KT-XH cho đến nay loài người đã có những bước phát triển hết sức to lớn về mọi mặt. Điều đó đã khẳng định tính đúng đắn, khoa học của lý luận đó.
Chương 2
SỰ VÂN DỤNG LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI
VÀO SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về CNXH trước những biến đổi của thời đại
Mác và Ăng ghen đã vận dụng lý luận hình thái KT-XH vào phân tích xã hội tư bản. Hai ông tìm ra được quy luật phát sinh, phát triển và diệt vong của nó đồng thời dự báo về sự ra đời của hình thái KT-XH cao hơn. Hình thái cộng sản chủ nghĩa - giai đoạn đầu là CNXH.
Sự ra đời của CNXH, chủ nghĩa cộng sản là tất yếu, không phải do ý muốn chủ quan, mà dựa trên những tiền đề vật chất nhất định và là kết quả của việc giải quyết mâu thuẫn vốn có trong lòng xã hội tư bản. Do đó vừa phải kế thừa những thành tựu của xã hội tư bản, vừa xóa bỏ những tồn tại hạn chế của nó, tiến tới giải phóng con người, xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn.
Mặc dù không phủ nhận hoàn toàn CNTB, nhưng sự thay thế CNTB bằng một chế độ xã hội khác cao hơn là tất yếu và con đường duy nhất là thông qua cách mạng vô sản. Bởi trong lòng xã hội tư bản đã tự bộc lộ những hạn chế, sự phát triển không đồng đều về kinh tế. Điều đó đã làm cho quan hệ kinh tế - tư nhân, quan hệ tư hữu ngày càng trở nên không phù hợp nữa. Do đó chúng ta thấy rằng, CNXH có thể thắng thế (được minh chứng bằng thắng lợi cách mạng tháng Mười Nga năm 1917). Từ đó, Lênin đã chỉ rõ hai con đường cơ bản quá độ lên CNXH.
Con đường thứ nhất: Quá độ trực tiếp lên CNXH. Đây là con đường tiến lên CNXH đối với các nước tư bản phát triển.
Con đường thứ 2: Quá độ lên CNXH thông qua những khâu trung gian, nhiều bước quá độ. Đây là con đường tiến lên CNXH đối với các nước lạc hậu, kinh tế kém phát triển.
Trên cơ sở phân tích cụ thể tình hình và điều kiện nước Nga, Lênin đã chỉ rõ con đường tiến lên CNXH của nước Nga còn lạc hậu. Thừa nhận nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, khuyến khích phát triển sản xuất, lợi dụng CNTB làm mắt xích trung gian giữa nền tiểu sản xuất và CNXH, làm phương tiện, con đường, phương pháp, phương thức để tăng LLSX lên. Từ đó xây dựng Liên Xô trở thành một nước CNXH theo mô hình kế hoạch hóa tập trung. Song mô hình kinh tế này dần dần bộc lộ những hạn chế (không khai thác được các năng lực sản xuất trong nước, không phát huy được nhiệt tình, chủ động sáng tạo của con người, không đẩy nhanh được tiến bộ khoa học công nghệ, giao lưu quốc tế...). Nó không còn thích hợp nữa, nhưng do chậm nhận thức và đổi mới đã dẫn đến khủng hoảng KT-XH. Dẫn đến sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô và Đông Âu - sự sụp đổ mô hình CNXH tập trung quan, quan liêu, bao cấp.
Trong khi đó, CNTB đạt được những thành tựu hết sức to lớn về kinh tế, khoa học công nghệ. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã tạo ra tiền đề vật chất để cho xã hội tiếp tục phát triển. Cuộc cách mạng này làm cho LLSX thay đổi về căn bản: chuyển từ công nghệ cơ khí lên xã hội tự động, sử dụng công nghệ hiện đại, các nguồn năng lượng mới, "khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, lao động trí tuệ chiếm vị trí cao". Vấn đề hình thành và phát triển kinh tế tri thức đang là vấn đề có tính thời sự. Sự phát triển kinh tế kéo theo sự phát triển của tất cả các mặt trong đời sống xã hội. Những sự thay đổi đó là tiền đề vật chất cần thiết cho sự ra đời của CNXH, Chủ nghĩa cộng sản. Quá độ lên CNXH là xu thế của thời đại. Vấn đề đó được đặt ra ở các nước