Việt Nam chính thức được gia nhập vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)
vào ngày 07/11/2006 và là thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại lớn nhất hành tinh
này. Đây là một thuận lợi đồng thời cũng là một thách thức lớn đối với các doanh nghiệp
Việt Nam. Bên cạnh những khó khăn về ngành nghề, thương hiệu, tài chính, thị
trường., các doanh nghiệp còn gặp khó khăn trong việc gây dựng cho mình một đội
quân “tinh nhuệ”. Đó chính là đội ngũ nhân viên có năng lực, phẩm chất, sáng tạo, nhiệt
tình và gắn bó với doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần có một chiến lược nhân sự toàn diện
trong đó việc đầu tiên là phải xây dựng một chương trình tuyển dụng, đào tạo lao động
tốt cho mình.
Cha ông ta cũng đã từng đúc kết “Dụng nhân như dụng mộc”. Gỗ mà tốt, chắc
chắn làm khung; gỗ mềm, đẹp làm bề mặt; gỗ không tốt, không đẹp làm bộ phận bên
trong không cần chịu lực. Biết sử dụng từng loại gỗ cho từng sản phẩm, từng bộ phận
sản phẩm cũng giống như sử dụng người phải đúng người đúng việc, phát huy được sở
trường, khả năng của từng người. Nguồn lực con người chính là nguồn lực quan trọng
nhất của mỗi tổ chức, mỗi doanh nghiệp. Để có thể sử dụng đúng người phải bắt đầu
ngay từ khâu tuyển dụng. Làm tốt công tác tuyển dụng, doanh nghiệp sẽ thu hút được
những con người có năng lực, phẩm chất và sở thích phù hợp với doanh nghiệp, với
công việc mà họ sẽ làm.
Tuy nhiên việc tuyển dụng, đào tạo nhân lực là một công việc phức tạp, hoàn toàn
không thể dựa vào trực giác mà phải theo quy trình, phương pháp khoa học. Bài viết này
tìm hiểu về “Vận dụng phép biện chứng duy vật trong triết lý tuyển dụng, đào tạo
nhân sự tại Công ty Cổ Phần Hóa An” và ảnh hưởng của triết lý đó đến tuyển dụng,
đào tạo nhân sự công ty từ năm 2010 đến năm 2015.
25 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 3336 | Lượt tải: 7
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Vận dụng phép biện chứng duy vật trong triết lý tuyển dụng, đào tạo nhân sự tại Công ty Cổ Phần Hóa An, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận triết học GVHD:TS.Lê Thị Kim Chi
Tiểu luận
Vận dụng phép biện chứng duy vật trong triết lý tuyển
dụng, đào tạo nhân sự tại Công ty Cổ Phần Hóa An
Nhóm 1 QTKD K3 trang 1
Tiểu luận triết học GVHD:TS.Lê Thị Kim Chi
LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam chính thức được gia nhập vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)
vào ngày 07/11/2006 và là thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại lớn nhất hành tinh
này. Đây là một thuận lợi đồng thời cũng là một thách thức lớn đối với các doanh nghiệp
Việt Nam. Bên cạnh những khó khăn về ngành nghề, thương hiệu, tài chính, thị
trường..., các doanh nghiệp còn gặp khó khăn trong việc gây dựng cho mình một đội
quân “tinh nhuệ”. Đó chính là đội ngũ nhân viên có năng lực, phẩm chất, sáng tạo, nhiệt
tình và gắn bó với doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần có một chiến lược nhân sự toàn diện
trong đó việc đầu tiên là phải xây dựng một chương trình tuyển dụng, đào tạo lao động
tốt cho mình.
Cha ông ta cũng đã từng đúc kết “Dụng nhân như dụng mộc”. Gỗ mà tốt, chắc
chắn làm khung; gỗ mềm, đẹp làm bề mặt; gỗ không tốt, không đẹp làm bộ phận bên
trong không cần chịu lực... Biết sử dụng từng loại gỗ cho từng sản phẩm, từng bộ phận
sản phẩm cũng giống như sử dụng người phải đúng người đúng việc, phát huy được sở
trường, khả năng của từng người. Nguồn lực con người chính là nguồn lực quan trọng
nhất của mỗi tổ chức, mỗi doanh nghiệp. Để có thể sử dụng đúng người phải bắt đầu
ngay từ khâu tuyển dụng. Làm tốt công tác tuyển dụng, doanh nghiệp sẽ thu hút được
những con người có năng lực, phẩm chất và sở thích phù hợp với doanh nghiệp, với
công việc mà họ sẽ làm.
Tuy nhiên việc tuyển dụng, đào tạo nhân lực là một công việc phức tạp, hoàn toàn
không thể dựa vào trực giác mà phải theo quy trình, phương pháp khoa học. Bài viết này
tìm hiểu về “Vận dụng phép biện chứng duy vật trong triết lý tuyển dụng, đào tạo
nhân sự tại Công ty Cổ Phần Hóa An” và ảnh hưởng của triết lý đó đến tuyển dụng,
đào tạo nhân sự công ty từ năm 2010 đến năm 2015.
Nhóm 1 QTKD K3 trang 2
Tiểu luận triết học GVHD:TS.Lê Thị Kim Chi
MỤC LỤC
Lơì mở đầu
Giới thiệu về nhóm và nhiệm vụ
Phần I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC TUYỂN DỤNG VÀ ĐÀO TẠO
NGUỒN NHÂN LỰC TRONG TỔ CHỨC
1.1 Phép biện chứng duy vật
1.2 Phép biện chứng duy vật trong tuyển dụng và đào tạo nhân sự trong doanh nghiệp
Phần II: Giới thiệu tổng quan công ty Cổ Phần Hoá An
I- Giới thiệu tổng quan về Công ty Cổ Phần Hóa An
II- Bộ máy tổ chức tại Công ty Cổ Phần Hóa An
Phần III: Vận dụng phép biện chứng duy vật trong công tác tuyển dụng, đào tạo
của Công ty Cổ Phần Hóa An, giai đoạn 2011 – 20….
3.1 Quy Trình và triết lý tuyển dụng của Công ty cổ phần Hóa trên cơ sở phép biện
chứng duy vật của Triết học.
3.1.1 Quy trình tuyển dụng của Công ty cổ phần Hóa An.
3.1.2 Triết lý tuyển dụng của Công ty cổ phần Hóa An trên cơ sở phép biện chứng
duy vật của Triết học.
3.1.3 Những vấn đề tồn tại và kiến nghị của nhóm về công tác tuyển dụng của
Công ty cổ phần Hóa An.
3.2 Quy trình và triết lý đào tạo của Công ty cổ phần Hóa An trong giai đoạn 2010-2016
trên cơ sở phép biện chứng duy vật của Triết học.
3.2.1 Quy trình đào tạo của Công ty cổ phần Hóa An.(giai đoạn 2011-2016)
3.2.2 Triết lý đào tạo của Công ty cổ phần Hóa An trên cơ sở phép biện chứng duy
vật của Triết học.
3.2.3 Những vấn đề tồn tại và kiến nghị của nhóm về công tác đào tạo của Công ty
cổ phần Hóa An.
Phần IV: Các kiến nghị chung về giải pháp cho công tác tuyển dụng, đào tạo tại Công ty
cổ phần Hóa An
Nhóm 1 QTKD K3 trang 3
Tiểu luận triết học GVHD:TS.Lê Thị Kim Chi
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC TUYỂN DỤNG VÀ ĐÀO TẠO
NGUỒN NHÂN LỰC TRONG TỔ CHỨC
1.1. Phép biện chứng duy vật
1.1.1 Khái niệm
Thuật ngữ “biện chứng” có gốc từ tiếng Hy Lạp là dialektica (với nghĩa là nghệ
thuật đàm thoại, tranh luận). Theo nghĩa này, biện chứng là nghệ thuật tranh luận nhằm
tìm ra chân lý bằng cách phát hiện các mâu thuẫn trong lập luận của đối phương và nghệ
thuật bảo vệ những lập luận của mình. Người Hy Lạp cổ đại cho rằng, đã là tri thức đúng
thì không thể có mâu thuẫn trong tri thức đó và quá trình đi tới chân lý là quá trình giải
quyết những mâu thuẫn trong lập luận.
Trong triết học Mác, thuật ngữ “biện chứng” được dùng đối lập với “siêu hình”.
Đó là lý luận đồng thời là phương pháp xem xét sự vật trong trạng thái liên hệ, tác động
qua lại lẫn nhau, ràng buộc lẫn nhau và trong quá trình vận động, phát tirển không
ngừng. Phương pháp đó không chỉ thấy những sự vật cá biệt mà còn thấy mối quan hệ
lẫn nhau giữa chúng; không chỉ thấy sự tồn tại của sự vật mà còn thấy cả sự sinh thành
và tiêu vong của sự vật; không chỉ thấy trạng thái tĩnh mà còn thấy cả trạng thái động
của sự vật; không chỉ thấy “cây” mà còn thấy cả “rừng”. Phương pháp đó vừa mềm dẻo,
vừa linh hoạt, thừa nhận trong những trường hợp nhất định, bên cạnh cái “ hoặc là…
hoặc là”, còn có “cả cái này lẫn cái kia” nữa.
Phép biện chứng duy vật có khả năng đem lại cho con người tính tự giác cao trong
mọi hoạt động. Mỗi luận điểm của phép biện chứng duy vật là kết quả của sự nghiên cứu
rút ra từ giới tự nhiên, cũng như lịch sử xã hội loài người. Mỗi nguyên lý, quy luật,
phạm trù của phép biện chứng đều được khái quát và luận giải trên cơ sở khoa học.
Chính vì vậy, phép biện chứng duy vật đã đưa phép biện chứng từ tự phát đến tự giác.
1.1.2 Các nguyên lý cơ bản của phép biện chứng
Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật là hai nguyên lý cơ bản và đóng vai trò
xương sống trong phép duy vật biện chứng của triết học Mác - Lênin khi xem xét, kiến
giải sự vật, hiện tượng. Phép biện chứng duy vật được xây dựng trên cơ sở một hệ thống
những nguyên lý, những phạm trù cơ bản, những quy luật phổ biến phản ánh hiện thực
khách quan. Trong hệ thống đó nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự
phát triển là hai nguyên lý khái quát nhất. Hai nguyên lý cơ bản gồm:
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là nguyên tắc lý luận xem xét sự vật, hiện
tượng khách quan tồn tại trong mối liên hệ, ràng buộc lẫn nhau tác động, ảnh hưởng lẫn
nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của một hiện tượng
trong thế giới. Nguyên lý này biểu hiện thông qua 06 cặp phạm trù cơ bản.
Nguyên lý về sự phát triển là nguyên tắc lý luận mà trong trong đó khi xem xét sự
vật, hiện tượng khách quan phải luôn đặt chúng vào quá trình luôn luôn vận động và
phát triển (vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn
Nhóm 1 QTKD K3 trang 4
Tiểu luận triết học GVHD:TS.Lê Thị Kim Chi
thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật). Nguyên lý này biểu hiện thông qua ba quy luật cơ
bản
1.1.2.1 Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến:
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến khái quát bức tranh toàn cảnh về thế giới trong
những mối liên hệ chằng chịt giữa các sự vật, hiện tuợng của nó. Tính vô hạn của thế
giới khách quan, tính có hạn của sự vật hiện tượng trong thế giới đó chỉ có thể giải thích
được trong mối liện hệ phổ biến và được quy định bằng nhiều mối liên hệ có hình thức
và vai trò khác nhau.
a) Các tính chất của mối liên hệ:
- Tính khách quan: các mối liên hệ là vốn có của mọi sự vật, hiện tượng; nó không
phụ thuộc vào ý thức của con người.
- Tính phổ biến: bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào; ở bất kỳ không gian nào và ở
bất kỳ thời gian nào cũng có mối liên hệ với sự vật và hiện tượng khác. Ngay trong cùng
một sự vật, hiện tượng thì bất kỳ một thành phần nào, một yếu tố nào cũng có mối liên
hệ với những thành phần, những yếu tố khác.
- Tính đa dạng, phong phú: sự vật khác nhau, hiện tượng khác nhau, không gian
khác nhau, thời gian khác nhau thì các mối liên hệ biểu hiện khác nhau.
Sự phân chia từng cặp mối liên hệ chỉ mang tính tương đối. Mỗi loại mối liên hệ
trong từng cặp có thể chuyển hoá lẫn nhau tuỳ theo phạm vi bao quát của mối liên hệ
hoặc do kết quả vận động và phát triển của chính các sự vật.
b) Ý nghĩa phương pháp luận:
Vì các mối liên hệ là sự tác động qua lại, chuyển hoá, qui định lẫn nhau giữa các
sự vật hiện tượng và các mối liên hệ mang tính khách quan, mang tính phổ biến nên
trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn con người phải tôn trọng quan điểm
toàn diện, phải tránh cách xem xét phiến diện.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật trong mối liên hệ qua
lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác động
qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác, kể cả mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián
tiếp. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng về sự vật.
1.1.2.2- Nguyên lý về sự phát triển:
Trong phép biện chứng duy vật, phát triển dùng để khái quát quá trình vận động đi
lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Quá trình đó vừa diễn ra dần dần, vừa nhảy vọt làm cho sự vật, hiện tượng cũ mất đi, sự
vật, hiện tượng mới về chất ra đời. Phát triển là tự thân. Động lực của sự phát triển là
mâu thuẫn giữa các mặt đối lập bên trong sự vật, hiện tượng. Phát triển đi theo đường
“xoáy ốc”, cái mới dường như lặp lại một số đặc trưng, đặc tính của cái cũ nhưng trên cơ
sở cao hơn; thể hiện tính quanh co, phức tạp, có thể có những bước thụt lùi tương đối
trong sự phát triển.
Nhóm 1 QTKD K3 trang 5
Tiểu luận triết học GVHD:TS.Lê Thị Kim Chi
a) Tính chất của sự phát triển:
- Tính khách quan: nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật, vì thế
sự phát triển là tiến trình khách quan, không phụ thuộc vào ý thức con người.
- Tính phổ biến: tính phổ biến được hiểu là nó diễn ra ở mọi lĩnh vực: tự nhiên, xã
hội và tư duy; ở bất cứ sự vật hiện tượng nào của thế giới khách quan.
- Tính đa dạng, phong phú: tồn tại ở không gian khác nhau, ở thời gian khác nhau,
sự vật phát triển sẽ khác nhau.
b) Ý nghĩa phương pháp luận:
Quan điểm phát triển đòi hỏi khi nhận thức, khi giải quyết một vấn đề nào đó con
người phải đặt chúng ở trạng thái động, nằm trong khuynh hướng chung là
phát triển.
Xem xét sự vật theo quan điểm phát triển còn phải biết phân chia quá trình phát
triển của sự vật ấy thành những giai đoạn. Trên cơ sở ấy để tìm ra phương pháp nhận
thức và cách tác động phù hợp nhằm thúc đẩy sự tiến triển nhanh hơn hoặc kìm hãm sự
phát triển của nó, tuỳ theo sự phát triển đó có lợi hay có hại đối với đời sống con người.
Quan điểm phát triển góp phần khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến trong
hoạt động nhận thức và hoạt độn thực tiễn.
1.3- Những cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật
1.3.1- Cái riêng, cái chung và cái đơn nhất:
Cái riêng là phạm trù dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng nhất định và cái đơn
nhất. Cái chung là phạm trù dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính lập lại trong nhiều
sự vật, nhiều hiện tượng. Cái đơn nhất là phạm trù dùng để chỉ những mặt, những đặc
điểm chỉ có ở một sự vật, hiện tượng nào đó mà không lặp lại ở các sự vật, hiện tượng
khác.
Giữa cái riêng, cái chung và cái đơn nhất có mối liên hệ biện chứng nhau. Cái
chung chỉ tồn tại trong cái riêng, biểu hiện thông qua cái riêng, ngược lại, cái riêng chỉ
tồn tại trong mối liên hệ với cái chung, bao hàm cái chung cái riêng là cái toàn bộ,
phong phú hơn cái chung, cái chung là cái bộ phận nhưng sâu sắc hơn cái riêng, cái đơn
nhất và cái chung có thể chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình vận động và phát triển của
sự vật.
1.3.2- Nguyên nhân và kết quả:
Nguyên nhân là sự tương tác qua lại giữa các mặt trong một sự vật, hiện tượng
hoặc giữa các sự vậ, hiện tượng với nhau gây nên những biến đổi nhất định.. Kết quả là
những biến đổi xuất hiện do sự tương tác qua lại giữa các mặt trong một sự vật, hiện
tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.
Giữa nguyên nhân, kết quả có mối liên hệ qua lại, quy định nhau. Nguyên nhân là
cái sinh ra kết quả, nên luôn có trước kết quả, sau khi xuất hiện, kết quả có ảnh hưởng
Nhóm 1 QTKD K3 trang 6
Tiểu luận triết học GVHD:TS.Lê Thị Kim Chi
tích cực trở lại đối với nguyên nhân. Sự phân biệt nguyên nhân, kết quả có tính tương
đối. Một sự vật, hiện tượng ở trong mối quan hệ này là nguyên nhân, nhưng lại là kết
quả trong mối quan hệ khác và ngược lại tạo nên chuỗi nhân -quả vô tận. Do vậy,
nguyên nhân, kết quả bao giờ cũng ở trong mối quan hệ cụ thể.
1.3.3- Tất nhiên và ngẫu nhiên:
Trong khi phản ánh hiện thực khách quan, con người nhận thức được tính không
một nghĩa, không cùng một giá trị của các mối liên hệ khác nhau của sự vật, hiện tượng
nên phân chia chúng thành nhóm các mối liên hệ nhất định phải xảy ra đúng như thế và
nhóm các mối liên hệ có thể xảy ra, cũng có thể không xảy ra, cũng có thể xảy ra thế này
hay thế khác. Tất nhiên do mối liên hệ bản chất, do những nguyên nhân cơ bản bên trong
của sự vật, hiện tượng quy định và trong những điều kiện nhất định phải xảy ra đúng
như thế chứ không thể khác. Ngẫu nhiên do mối liên hệ không bản chất, do những
nguyên nhân, hoàn cảnh bên ngoài quy định, có thể xuất hiện, có thể không xuất hiện, có
thể xuất hiện thế này hoặc có thể xuất hiện thế khác. Giữa tất nhiên và ngẫu nhiên có
mối liên hệ biện chứng với nhau.
1.3.4- Nội dung và hình thức:
Nội dung là tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố tạo nên sự vật, hiện tượng.
Hình thức là phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng; là hệ thống các
mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố, sự vật của hiện tương.
Giữa nội dung và hình thức có mối liên hệ qua lại, quy định lẫn nhau, trong đó nội
dung giữ vai trò quyết định. Nội dung đòi hỏi phải có hình thức phù hợp với nó. Khi nội
dung thay đổi thì hình thức cũng phải thay đổi theo. Tuy nhiên, hình thức cũng có tính
độc lập tương đối và tác động tích cực trở lại nội dung. Khi hình thức phù hợp với nội
dung, nó là động lực thúc đẩy nội dung phát triển, còn khi không phù hợp, hình thức cản
trở sự phát triển của nội dung. Cùng một nội dung, trong quá trình phát triển, có thể thể
hiện dưới nhiều hình thức và ngược lại, cùng một hình thức có thể phù hợp những nội
dung khác nhau.
1.3.5- Bản chất và hiện tượng:
Để nhận thức đúng sự vật từ các hiện tượng phong phú, con người đi sâu nghiên
cứu bản chất của sự vật. Bản chất là tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất
nhiên tương đối ổn định bên trong, quy định sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật.
Hiện tượng là những biểu hiện bên ngoài, bề ngoài của sự vật.
Giữa bản chất và hiện tượng có mối liên hệ biện chứng nhau. Bản chất và hiện
tượng thống nhất nhau: bản chất thể hiện thông qua hiện tượng, còn hiện tượng là sự thể
hiện của bản chất. Bản chất tương đối ổn định, ít biến đổi hơn, còn hiện tượng “động”
hơn, thường xuyên biến đổi hơn.
1.3.6- Khả năng và hiện thực:
Khi đã nhận thức được bản chất và những mâu thuẫn vốn có của sự vật, hiện
tượng, chúng ta có thể phán đoán được sự vật, hiện tượng sẽ biến đổi theo hướng nào,
Nhóm 1 QTKD K3 trang 7
Tiểu luận triết học GVHD:TS.Lê Thị Kim Chi
nghĩa là chúng ta có thể nhận thức được đồng thời cả hiện thực và khả năng biến đổi của
sự vật, hiện tượng.
Khả năng là cái hiện chưa xảy ra, nhưng sẽ xảy ra khi có các điều kiện thích hợp.
Hiện thực là cái đang có, đang tồn tại thực sự. Khả năng và hiện thực tồn tại trong mối
quan hệ chặt chẽ với nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự vật. Trong hiện
thực bao giờ cũng chứa những khả năng nhất định; ngược lại, khả năng lại nằm trong
hiện thực và khi đủ điều kiện sẽ biến thành hiện thực mới.
1.4- Một số quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật:
Bên cạnh các cặp phạm trù, phép biện chứng duy vật còn bao hàm ba quy luật phổ
biến về sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy.
1.4.1- Quy luật chuyển hoá từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến những sự
thay đổi về chất và ngược lại:
Chất là tính quy định khách quan, vốn có của sự vật, là sự thống nhất hữu cơ giữa
các thuộc tính làm cho nó là nó mà không phải là cái khác. Lượng là tính quy định vốn
có của sự vật về mặt số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động, phát triển
của sự vật. Mỗi sự vật đều là sự thống nhất giữa chất và lượng.. Những thay đổi về
lượng của sự vật chưa gây ra những thay đổi căn bản về chất được gọi là độ. Những thay
đổi về lượng quá giới hạn độ sẽ làm cho chất của sự vật biến căn bản. Điểm mà tại đó sự
thay đổi căn bản về chất được thực hiện gọi là điểm nút. Bước nhảy là bước thay đổi căn
bản về chất của sự vật do sự thay đổi về lượng trước đó gây ra. Mối quan hệ giữa sự thay
đổi về lượng và sự thay đổi về chất còn có chiều ngược lại.
Nắm được nội dung quy luật này sẽ tránh nôn nóng, đốt cháy giai đoạn, đồng thời
tránh tư tưởng tuyệt đối hoá sự thay đổi về lượng, không kịp thời chuyển những thay đổi
về lượng sang những thay đổi về chất, từ những thay đổi mang tính tiến hoá sang những
thay đổi mang tính cách mạng và ngược lại không biết sử dụng chất mới để thúc đẩy
lượng tiếp tục phát triển.
1.4.2- Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập:
Đây là “hạt nhân” của phép biện chứng duy vật, nó chỉ ra nguồn gốc, động lực của
sự phát triển. Theo phép biện chứng, mặt đối lập là những mặt có khuynh hướng biến
đổi trái ngược nhau. Sự tác động giữa chúng tạo thành mâu thuẫn bên trong của sự vật.
Các mặt đối lập vừa thống nhất, vừa đấu tranh với nhau. Trong đó, thống nhất là tương
đối, tạm thời; đấu tranh là tuyệt đối, vĩnh viễn. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt
đối lập là nguồn gốc, động lực của sự vận động, sự phát triển.Quy luật này có ý nghĩa
phương pháp luận to lớn trong việc phát hiện và phân tích mâu thuẫn của sự vật cũng
như tìm ra con đường đúng đắn để giải quyết mâu thuẫn nhằm thúc đẩy sự vật phát triển.
1.4.3- Quy luật phủ định của phủ định:
Phủ định biện chứng là quá trình khách quan, tự thân, là quá trình kế thừa cái tích
cực đã đạt được từ cái cũ, là mắt khâu trong quá trình dẫn tới sự ra đời của sự vật, hiện
tượng mới cao hơn, tiến bộ hơn.
Nhóm 1 QTKD K3 trang 8
Tiểu luận triết học GVHD:TS.Lê Thị Kim Chi
Quá trình phủ định của phủ định tạo thành sự vận động, phát triển không ngừng
mang tính chu kỳ của thế giới khách quan. Trải qua một số lần phủ định, sự vật, hiện
tượng dường như lặp lại những giai đoạn đã qua trên cơ sở mới, cao hơn và như vậy,
phát triển không đi theo đường thẳng mà theo đường “xoáy ốc”.
Quy luật này có một ý nghĩa phương pháp luận to lớn trong quá trình thay thế cái
cũ bằng cái mới. Nó đòi hỏi phải xuất phát từ những điều kiện khách quan cho phép,
phải tạo điều kiện, tiền đề cho cái mới chiến thắng cái cũ, phải biết kế thừa và phát triển
sang tạo những cái tích cực đã đạt được từ cái cũ, đồng thời phải thấy được tính chất
quanh co, phức tạp trong quá trình ra đời cái mới.
1.2 Phép biện chứng duy vật trong tuyển dụng và đào tạo nhân sự tại doanh nghiệp
Nguyên Tắc tuyển dụng
Tuyển dụng nhân sự là một công việc hết sức quan trọng đối với doanh nghiệp. Không
đơn giản như khi có việc làm, cần người thì tiến hành tuyển và khi dư thừa người, hoặc
nếu người được tuyển dụng không đáp ứng được yêu cầu của công việc thì doanh nghiệp
sa thải một cách dễ dàng. Để tránh tình trạng này, việc tuyển người phải xuất phát từ
quan điểm chọn lọc những thành viên có năng lực, có phẩm chất đạo đức và họ sẽ gắn
bó cả cuộc đời với doanh nghiệp. Chất lượng của các thành viên sẽ ảnh hưởng đến hiệu
quả hoạt động sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp và ảnh hưởng đến sự tồn tại, phát
triển của doanh nghiệp trong tương lai. Xem xét vấn đề nhân sự cần phải trên lập trường
thế giới quan và nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa, mặt khác phải nhìn nhận bằng một
phương pháp biện chứng duy vật.
Để phục vụ cho việc tuyển dụng được chính xác, các doanh nghiệp nên lựa chọn vào
những triết lý mang tính biện chứng; đồng thời phải rèn luyện cho mỗi cá nhân có