Tiểu luận Vận dụng quy luật cung cầu phát triển thị trường lúa gạo

Xin chân thành cảm ơn trường đại học Công Nghiệp Tp.HCM, khoa lý luận chính trị đã tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất và tài liệu tốt nhất trong suốt quá trình học tập của chúng em. Cảm ơn cô: Lương Mỹ Thùy Dương đã tận tình hướng dẫn và truyền dạy những kiến thức quý báu trong chương trình học, chia sẻ kinh nghiệm của thầy cho bài tiểu luận của nhóm hoàn thành được thuận lợi. Cảm ơn các bạn trong nhóm đã nhiệt tình trao đổi, đóng góp ý kiến và cung cấp tài liệu giúp cho bài tiểu luận hoàn thành đúng thời gian quy định. Vì điều kiện thời gian tìm hiểu có giới hạn và sự kiện trong đề tài đã trải qua nhiều năm nên việc tìm kiếm thông tin còn gặp nhiều khó khăn, mặc dù đã cố gắng nhưng đề tài cóthể còn nhiều thiếu sót, chưa đi sâu phân tích hết các khía cạnh, chi tiết có liên quan. Kính mong côcho ý kiến đóng góp thêm để đề tàiđược hoàn thiện hơn. Hy vọng sau khi hoàn thành, đề tài của nhóm có thể giúp góp một phần nào đó hoàn thiện nhận thức của mỗi cá nhân và nâng cao vốn hiểu biết của mình về thị trường lúa gạo Việt Nam hiện nay từ đó có thể vận dụng quy luật cung cầu một cách hiệu quả cho quá trình học tập sau này

docx40 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 11037 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Vận dụng quy luật cung cầu phát triển thị trường lúa gạo, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ CÔNG THƯƠNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH TIỂU LUẬN VẬN DỤNG QUY LUẬT CUNG CẦU PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG LÚA GẠO MÔN: KINH TẾ VI MÔ GVHD: LƯƠNG MỸ THÙY DƯƠNG NHÓM THỰC HIỆN: 5 LỚP HỌC PHẦN: 210700909 Thành phố Hồ Chí Minh ngày 15 tháng 02 năm 2014 LỜI CẢM ƠN Xin chân thành cảm ơn trường đại học Công Nghiệp Tp.HCM, khoa lý luận chính trị đã tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất và tài liệu tốt nhất trong suốt quá trình học tập của chúng em. Cảm ơn cô: Lương Mỹ Thùy Dương đã tận tình hướng dẫn và truyền dạy những kiến thức quý báu trong chương trình học, chia sẻ kinh nghiệm của thầy cho bài tiểu luận của nhóm hoàn thành được thuận lợi. Cảm ơn các bạn trong nhóm đã nhiệt tình trao đổi, đóng góp ý kiến và cung cấp tài liệu giúp cho bài tiểu luận hoàn thành đúng thời gian quy định. Vì điều kiện thời gian tìm hiểu có giới hạn và sự kiện trong đề tài đã trải qua nhiều năm nên việc tìm kiếm thông tin còn gặp nhiều khó khăn, mặc dù đã cố gắng nhưng đề tài cóthể còn nhiều thiếu sót, chưa đi sâu phân tích hết các khía cạnh, chi tiết có liên quan. Kính mong côcho ý kiến đóng góp thêm để đề tàiđược hoàn thiện hơn. Hy vọng sau khi hoàn thành, đề tài của nhóm có thể giúp góp một phần nào đó hoàn thiện nhận thức của mỗi cá nhân và nâng cao vốn hiểu biết của mình về thị trường lúa gạo Việt Nam hiện nay từ đó có thể vận dụng quy luật cung cầu một cách hiệu quả cho quá trình học tập sau này Một lần nữa, chúng em xin chân thành cảm ơn quý cô và các bạn đã nhiệt tình giúp đỡ nhóm hoàn thành bài tiểu luận. NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN DANH SÁCH NHÓM 5 STT Họ Và Tên MSSV Ghi Chú 1 Mai Trâm Anh 13039501 2 Hoàng Thị Dung 12026761 3 Võ Thị Mĩ Kim 13039091 4 Phan Thị Cẩm Linh 13041391 5 Đoàn Nhật Minh 12074441 Nhóm Trưởng 6 Phạm Thị My 13038451 7 Bùi Nữ Hạnh Nguyên 13027651 8 Hồ Bảo Nhi 13058841 9 Nguyễn Thái Huyền Trâm 13019621 10 Lê Thị Mỹ Xuyên 13052891 MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Từ xa xưa, trong suốt quá trình xây dựng và phát triển đất nước, Việt Nam chủ yếu dựa vào nền kinh tế nông nghiệp và nông thôn, giữ vị trí quan trọng với 80% dân số và 73% lực lượng lao động xã hội làm nông nghiệp và “. . . chúng ta không thể có con đường nào khác là phải xây dựng một nền nông nghiệp mạnh và bền vững (cả về kinh tế, xã hội và sinh thái), dựa vào công nghệ cao từng bước Hiện đại hóa vươn lên trong cạnh tranh ngay cả trên thị trường trong nước và nước ngoài” và “ nông nghiệp Việt Nam trong thế kỷ XXI phải phấn đấu trở thành nền nông nghiệp có tỷ trọng hàng hóa mức xuất khẩu cao”. Việt Nam đang trong giai đoạn xây dựng nền kinh tế thị trường, thực hiện chính sách mở cửa giao lưu thương mại với các nước trên thế giới, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đưa đất nước tiến lên Xã hội chủ nghĩa. Vì vậy việc vận dụng quy luật cung cầu vào phát triển thị trường lúa gạo có ý nghĩa chiến lược và là bộ phận trọng yếu trong nền kinh tế. Tuy nhiên việc vận dụng quy luật cung cầu vào phát triển thị trường lúa gạo còn tồn tại nhiều vấn đề nan giải cần được khắc phục. Như vậy việc vận dụng quy luật cung cầu còn phải chịu nhiều tác động của các nhân tố tầm vi mô và vĩ mô nhưng trong bài tiểu luận này nhóm chỉ nghiên cứu trong tầm vi mô. MỞ ĐẦU LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Nhận thức được tầm quan trọng của việc vận dụng quy luật cung cầu cũng như đòi hỏi thực tế của việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả vận dụng quy luật cung cầu phát triển thị trường lúa gạo. Đây cũng chính là lý do mà nhóm chọn đề tài MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Nâng cao nhận thức cá nhân, nắm bắt rõ tình hình kinh tế lúa gạo nước nhà, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia từ đó rút ra được bài học cho cá nhân để tuyên truyền vận động cộng đồng cùng nhau hiểu rõ hơn vấn đề. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU Đề tài nghiên cứu những vấn đề thuộc về kinh tế sản xuất lúa, gạo ở thị trường Việt Nam. PHẠM VI NGHIÊN CỨU Thị trường lúa gạo Việt Nam từ năm 2010 đến tháng 6 năm 2012 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Tiểu luận sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp so sánh, phương pháp phân tích tổng hợp, kết hợp với việc thu thập và xử lý những tài liệu này giúp người nghiên cứu có cái nhìn tổng quát và đúng đắn hơn về vấn đề nghiên cứu. NỘI DUNG CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN THỊ TRƯỜNG Mô hình thị trường Người tiêu dùng có nhu cầu mua sắm các dịch vụ hàng hóa và dịch vụ cụ thể.Các công ty kinh doanh đáp ứng bằng cách sản xuất các hàng hóa và dịch vụ mà người tiêu dùng cần. Những số lượng mà tất cả những người tiêu thụ muốn mua và có khả năng mua ở các mức giá khác nhau, tạo nên cầu thị trường. Những số lượng mà tất cả các công ty kinh doanh muốn bán và có khả năng bán ở các mức giá khác nhau tạo nên cung thị trường. Sự kết hợp cầu và cung của một loại hàng hóa hay dịch vụ cụ thể, hình thành nên một mô hình thị trường. Các mô hình thị trường Dựa vào tính cạnh tranh có thể chia thị trường ra làm 4 loại: Thị trường cạnh tranh hoàn toàn Thị trường cạnh tranh độc quyền Thị trường độc quyền nhóm Thị trường độc quyền hoàn toàn CẦU THỊ TRƯỜNG Khái niệm Lượng tiêu thị của một sản phẩn (QD) thường phụ thuộc vào các yếu tố như mức giá của chính nó (P), thu nhập (I), sở thích hay thị hiếu của người tiêu dùng (T), giá cả hàng hóa có liên quan (PR), quy mô tiêu thụ trên thị trường (N), giá dự kiến trong tương lai của sản phẩm (PF). Cầu thị trường mô tả số lượng một hàng hóa hay dịch vụ mà người tiêu dùng sẽ mua ở các mức giá khách nhau trong một thời gian cụ thể, trong điều kiện các yếu tố khác không thay đổi. Quy luật cầu Với các điều kiện các yếu tố khác không thay đổi, người tiêu thụ thông thường sẽ mua số lượng hàng hóa nhiều hơn khi mức giá giảm xuống và họ chỉ mua ít đơn vị hoặc không mua nếu mức giá tăng lên. Lượng cầu của hầu hết các hàng hóa và hàng hóa có mối liên hệ ngược chiều với giá cả, mối liên hệ này chính là “quy luật cầu”. Quy luật cầu có thể tóm tắt như sau: P↑ => (QD) ↓ P↓ => (QD) ↑ Các yếu tố làm dịch chuyển đường cầu Một số yếu tố có thể tạo nên sự thay đổi cầu hay sự dịch chuyển đường cầu là các thay đổi trong: Thu nhập của người tiêu dùng Sở thích và thị hiếu của người tiêu dùng Giá cả của hàng hóa có liên quan Quy mô tiêu thụ của thị trường Sự dự đoán của người tiêu dùng về giá cả, thu nhập và chính sách của chính phủ trong tương lai Sự co giản của cầu Độ co giãn của cầu đo lường sự phản ứng (hay sự nhạy cảm của người tiêu dùng biểu hiện qua sự thay đổi lượng hàng hóa được mua khi các yếu tố giá cả hàng hóa, thu nhập, giá hàng liên quant hay đổi. . . Có 3 loại độ co giãn: Độ co giãn của cầu theo giá Độ co giãn của cầu theo thu nhập Độ co giãn chéo của cầu theo giá CUNG THỊ TRƯỜNG Khái niệm Lượng sản phẩm thị trường cung ứng phụ thuộc nhiều vào các nhân tố như: giá của chính sản phẩm đó (P), chi phí sản xuất ©, trình độ khoa học kỹ thuật (Tec), số xí nghiệp trong ngành, giá dự kiến của sản phẩm trong tương lai. Khi đưa ra khái niệm về cung sản phẩm người ta xét mối quan hệ giữa giá cả và lượng sản phẩm được cung ứng trong điều kiện các nhân tố khách được giả định là không thay đổi. Cung của thị trường mô tả số lượng một hàng hóa hay dịch vụ người sản xuất sẽ cung ứng ở mức giá khác nhau trong một thời gian cụ thể, trong điều kiện các yếu tố khác không thay đổi. Quy luật cung Với điều kiện các yếu tố khác không đổi, thông thường người sản xuất sẽ cung ứng số lượng hàng hóa nhiều hơn ở các mức giá cao và họ chỉ cung ứng ít đơn vị hoặc không thể cung ứng nếu mức giá thấp. Cung hàng hóa và dịch vụ có mối quan hệ cùng chiều với giá cả, mối liên hệ này hình thành nên quy luật cung được tóm tắt như sau: P↑ => (QS) ↑ P↓ => (QS) ↓ Các yếu tố làm dịch chuyển đường cung Các yếu tố có thể tạo nên sự thay đổi đường cung hay sự dịch chuyển của đường cung là các thay đổi trong: Chi phí các yếu tố sản xuất được thay đổi Trình độ kỹ thuật được các hãng áp dụng trong ngành Các chính sách, quy định của chính phủ Số hãng trong ngành Sự co giãn của cung theo giá Độ co giãn của cung theo giá đo lường phản ứng của người sản xuất biểu hiện quan sự thay đổi lượng hàng hóa cung ứng khi giá cả và dịch vụ thay đổi. THỊ TRƯỜNG CÂN BẰNG Trong thị trường tự do, sự tương tác của cung và cầu xác định giá của một hàng hóa. Như vậy, giá cân bằng là mức giá mà tại đó số lượng sản phẩm mà người mua muốn mua đúng giá bằng lượng sản phẩm mà người sản xuất muốn bán. SỰ CAN THIỆP CỦA CHÍNH PHỦ VÀO THỊ TRƯỜNG Sự can thiệp trực tiếp của chính phủ: giá trần và giá sàn Đôi khi sự thay đổi trong cầu hay cung hàng hóa và dịch vụ đem đến giá cao hay thấp bất thường, có thể làm cho các thành phần nào đó trong xã hội được và mất một cách không công bằng, chính phủ có thể can thiệp trực tiếp hay gián tiếp vào thị trường. Để tránh tình trạng giá cao bất thường, chính phủ có thể định giá trần , theo luật định giá không thể tăng trên mức đó tránh tình trạng giá thấp bất thường, chính phủ có thể định giá sàn, theo luật giá cả không thể giảm giá dưới mức giá đó. Cả hai trường hợp, chính phủ cố gắng đạt mục tiêu công bằng trong phân phối hàng hóa và dịch vụ. Sự bất lợi của giá trần và giá sàn là nó không thể ngăn ngừa các thị trường di chuyển đến mức cân bằng. Nó có thể gây ra sự thặng dư hay khan hiếm trầm trọng và kéo dài so với tình trạng thị trường tự do. Sự can thiệp trực tiếp của chính phủ: Thuế và trợ cấp Đánh thuế Trong thực tế, đôi khi chính phủ xem việc đánh một mức thuế trên một đơn vị hàng hóa như là một hình thức phân phối lại thu nhập hay hạn chế việc sản xuất một loại hàng hóa hay dịch vụ nào đó. Trợ cấp Trợ cấp có thể xem như một loại thuế âm. Do đó, ngược lại với trường hợp đánh thuế, chính phủ xem xét việc trợ cấp một khoản tiền nào đó trên một đơn vị hàng hóa như là một hình thức hỗ trợ cho sản xuất hàng hóa hay tiêu dùng. CHƯƠNG 2 CUNG CỦA THỊ TRƯỜNG LÚA GẠO VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1. CHỦ ĐỘNG NGUỒN CUNG Chỉ số giá tiêu dùng tháng 8 tăng thấp nhất trong 11 tháng qua với mức tăng dưới 1%. Đây là kết quả nỗ lực của các bộ, ngành, địa phương trong thực hiện nghiêm túc, kịp thời kết luận của Chính phủ trong đẩy mạnh sản xuất, bảo đảm cung ứng lương thực và bình ổn giá cả thị trường. 2.1.1 Dồi dào nguồn cung Theo Báo cáo của Cục Chế biến, thương mại nông lâm thủy sản và nghề muối (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn), hiện nay nguồn cung lúa gạo tương đối dồi dào, hoàn toàn đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và đáp ứng lượng hàng cho xuất khẩu theo hợp đồng đã ký. Theo tính toán của Cục này, với tổng lượng lúa cả năm ước đạt là 41,6 triệu tấn, sau khi trừ đi lượng lúa tiêu dùng nội địa là 27,52 triệu tấn, còn 14,08 triệu tấn lúa, tương đương trên 7 triệu tấn gạo hàng hóa (được sản xuất chủ yếu tại Đồng bằng sông Cửu Long và là nguồn gạo hàng hóa để xuất khẩu). Đối với các tỉnh phía Bắc, sản lượng lúa cả năm 2011 ước tính đạt trên 13 triệu tấn, có thể tự trao đổi để cung ứng đủ nhu cầu tiêu dùng trong vùng và không cần lưu chuyển từ phía Nam ra. Sau khi cân đối, trừ nhu cầu tiêu dùng trong nước và lượng gạo còn phục vụ xuất khẩu, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn khẳng định, với nguồn cung gạo hiện tại hoàn toàn đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước và đáp ứng lượng gạo cho xuất khẩu. Đồng bằng sông Cửu Long ( ĐBSCL) có diện tích canh tác lúa khoảng 3,9 triệu ha,là vựa lúa lớn nhất Việt Nam, trong đó diện tích lúa cao sản (hè thu-đông xuân) mỗi vụ khoảng 1,6-1,7 triệu ha. Hàng năm, ĐBSCL đóng góp trên 50% sản lượng lúa và trên 90% tổng lượng gạo xuất khẩu của nước ta. Việc sử dụng giống lúa cao sản và  nhiều tiến bộ kỹ thuật thâm canh lúa đã giúp nông dân nâng cao năng suất, sản lượng, tiến rất nhanh so với nhiều nước trong khu vực. Năng suất và sản lượng lúa ở ĐBSCL từ năm 2000-2010 (Nguồn: Thống kê Việt Nam, trích dẫn bởi Phạm Văn Dư, Lê Thanh Tùng 2011) Ngày 19-11, tại Hà Nội, Cục Trồng trọt tổ chức hội nghị đánh giá kết quả sản xuất hè thu và triển khai kế hoạch vụ đông xuân 2010-2011, các tỉnh đồng bằng sông Hồng (ÐBSH) và Bắc Trung Bộ (BTB). Vụ hè thu năm 2010, hai vùng trên gieo cấy gần 729 nghìn ha. Mặc dù bị sâu cuốn lá, rầy nâu gây hại và ảnh hưởng của thiên tai ở một số địa phương, nhưng năng suất lúa trung bình cả hai vùng vẫn đạt 53,4 tạ/ha, sản lượng lúa đạt gần bốn triệu tấn, tăng khoảng 25 nghìn tấn so với năm 2009. Dự kiến, vụ đông xuân 2010-2011, hai vùng ÐBSH và BTB gieo cấy khoảng 880 nghìn ha. Cục Trồng trọt khuyến cáo các địa phương cần sử dụng giống lúa mới ngắn ngày, chất lượng cao, chống chịu sâu bệnh; nhân rộng mô hình lúa gieo thẳng; bón phân hợp lý; đẩy mạnh cơ giới hóa trong các khâu gieo, cấy và thu hoạch. Ðặc biệt, chủ động nguồn nước tưới chống hạn và phòng bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá và lùn sọc đen. 2.1.2 Đẩy mạnh sản xuất bình ổn thị trường thực phẩm Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân thiếu hụt nguồn cung, chi phí đầu vào tăng, lưu thông phân phối sản phẩm còn bất cập và cả có nguyên nhân từ biểu hiện đầu cơ, làm giá nên trong 2 tháng 6 và 7, giá cả lúa gạo tăng đột biến. Để khắc phục tình trạng đó, kịp thời bình ổn thị trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã và đang phối hợp chặt chẽ với các địa phương tập trung chỉ đạo thực hiện quyết liệt các biện pháp đẩy mạnh sản xuất, nhằm tăng nguồn cung cho thị trường đặc biệt là những tháng cuối năm. Trong đề xuất các giải pháp từ nay đến cuối năm, theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, công tác thông tin, tuyên truyền đóng góp vai trò quan trọng nhằm phản ánh kịp thời và chính xác về nguồn cung cũng như giá cả để tránh hiện tượng đầu cơ, đẩy giá tăng đột biến, cũng như tạo điều kiện cho việc lưu thông, điều hòa về nguồn và giá cả các loại thực phẩm giữa các vùng, miền. Về vấn đề này, trong Kết luận của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải tại cuộc họp bàn biện pháp đẩy mạnh sản xuất, bảo đảm cung ứng thực phẩm, bình ổn giá cả thị trường đã nêu rõ, đồng ý giao Bộ Tài chính xem xét việc tiếp tục thực hiện thu phí, lệ phí. 2.1.3 Xuất khẩu gạo khởi sắc Sau một thời gian ảm đạm, xuất khẩu gạo hiện đã khởi sắc với nhiều hợp đồng được ký kết, nhiều thị trường mới mở ra cho gạo Việt Nam. Ước tính 3 tháng đầu năm, xuất khẩu gạo của VN giảm khoảng 45% khiến cả doanh nghiệp và những người quan tâm đến ngành này đều lo lắng. Tuy nhiên, cho tới nay, tình hình đang sáng sủa hơn rất nhiều . Tính đến thời điểm này, VN đã thực hiện xuất khẩu được trên 800.000 tấn gạo các loại, trị giá trên 553 triệu USD.Dự kiến quý I năm 2012, lượng gạo xuất khẩu sẽ đạt khoảng 1 – 1.1 triệu tấn. Lượng, trị giá xuất khẩu gạo 5 tháng/2012 so với 5 tháng/2011 Nguồn: Tổng cục Hải quan 2.1.4. Thị trường lúa gạo khởi sắc Tại hội nghị tổng kết sản xuất lúa đông xuân 2012 cuối tuần qua ở Đồng Tháp, ông Trương Thanh Phong - Chủ tịch Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), cho biết, xuất khẩu gạo Việt Nam đang dần lấy lại “phong độ”. Tính đến nay, lượng gạo xuất khẩu đã ký hợp đồng đạt 3,2 triệu tấn, chủ yếu sang các nước như Philippines, Indonesia, Trung Quốc, Malaysia… “Hiện tại, Indonesia đang mất mùa lúa vì sâu rầy, Philippines cũng không đạt sản lượng khiến giá lúa nội địa tại các nước này tăng rất cao. Trong khi đó, Thái Lan lại bán gạo với giá quá cao. Do đó, nhờ đứng ở ngưỡng giá trung bình, Việt Nam có lợi thế rất lớn” - ông Phong phân tích. Ông Nguyễn Hữu Huân - Phó Cục trưởng Cục Bảo vệ Thực vật cũng cho biết, Nhật Bản vừa thông báo kết quả kiểm tra dư lượng Acetamiprid trên 5 mẫu gạo Việt Nam. Kết quả 1/5 mẫu có dư Acetamiprid ở mức cho phép, mở ra hy vọng cho gạo Việt Nam vào thị trường này. “Hiện Nhật đã đồng ý mở cửa cho gạo Việt Nam sau gần 5 năm tạm ngừng, hạn ngạch nhập khẩu khoảng hơn 200.000 tấn.Nếu kiểm soát được dư lượng Acetamiprid, gạo Việt Nam sẽ chinh phục được thị trường rất “ngon ăn” này” - ông Huân phấn khởi. Tại Hongkong, ông Trương Thanh Phong thông tin, nhu cầu của thị trường này khoảng 400.000 tấn, trong khi đó, Việt Nam đã “chiếm” được hơn 30%. Ngoài ra, thị trường Đài Loan (Trung Quốc) cũng đang rất nhộn nhịp và là cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam tiếp tục bứt phá. Trước những thông tin lạc quan về tình hình xuất khẩu gạo, ông Trương Thanh Phong khẳng định, giá lúa thơm trong nước sẽ không giảm xuống trong thời gian tới. 2.1.5. Lo thiếu gạo thơm, thừa gạo cấp thấp Tuy vậy, gạo Việt Nam vẫn đang phải cạnh tranh gay gắt với các nước. Năm nay, kế hoạch xuất khẩu của Thái Lan chỉ khoảng 6,5 triệu tấn trong khi Ấn Độ đặt mục tiêu khoảng 5 triệu tấn gạo. Nếu cộng cả lượng gạo thơm, theo ông Phong, Ấn Độ có thể sẽ vượt Việt Nam trong xuất khẩu gạo. Loại lúa chất lượng thấp IR 50404 của Việt Nam giá có thể không tăng lên được do chưa có nhiều hợp đồng xuất khẩu cho loại gạo này. Theo đó, giá lúa trung bình tại Đồng bằng Sông Cửu Long hiện khoảng 5.300 – 5.500 đồng/kg; lúa IR 50404 khô, lúa hạt dài ở mức 6.200 – 6.500 đồng/kg lúa thơm Jasmin khoảng 7.400 – 7.500 đồng/kg. Trong khi đó, diện tích lúa chất lượng thấp IR 50404 trong vụ đông xuân 2012 ở Đồng bằng Sông Cửu Long tăng đột biến, chiếm khoảng gần 28% diện tích xuống giống, tức khoảng 435.000ha, sản lượng ước đạt 3 triệu tấn lúa, 1,7 triệu tấn quy gạo. “Trong tình hình hiện nay thì việc tìm thị trường tiêu thụ cho lượng gạo cấp thấp này là cả một vấn đề” - ông Phong lo ngại.Ngoài ra, ông Phong cũng khẳng định, thời gian qua cả doanh nghiệp và nông dân bị ép giá lúa, giá gạo vì thông tin sản lượng IR 50404 nhiều, các nước nhập khẩu lo ngại khi nhập khẩu gạo Việt Nam. “Để có thể kiểm soát được cơ cấu giống mỗi mùa vụ, các DN nên trực tiếp đặt hàng từng loại lúa theo nhu cầu, địa phương sẽ tổ chức các vùng nguyên liệu, đáp ứng nhu cầu thị trường. Có như thế mới không xảy ra tình trạng thứ thừa, thứ thiếu như hiện nay” - ông Quốc đề nghị. 2.2. XUẤT KHẨU GẠO “NHÌN VỀ NĂM NAY, LO VỀ NĂM TỚI” Biểu đồ: Sản lượng gạo xuất khẩu tại Việt Nam đến cuối tháng 11/2011 Nguồn: Tổng cục hải quan Xuất khẩu gạo năm 2011 chỉ còn phải chờ thêm ít ngày để chốt lại các mốc kỷ lục mới. Số liệu đến cuối tháng 11/2011, Việt Nam đã có sản lượng gạo xuất khẩu vượt cả năm đỉnh cao trước đó, với tốc độ tăng trưởng kim ngạch ở mức gần gấp hai cùng kỳ năm ngoái. Sự thành công trên đấu trường quốc tế của gạo Việt cũng thể hiện ở góc độ giá đuổi kịp Thái Lan ở một số thời điểm, hay thiết lập chặt chẽ các mối quan hệ bạn hàng truyền thống với Indonesia, Philippines, Malaysia, Singapore và mở ra nhiều thị trường mới quan trọng như Bangladesh, Côte d'Ivoire, Senegal… Nhưng, nhìn về tổng thể, xuất khẩu gạo năm nay có thể thấy được trên biểu đồ về sản lượng và kim ngạch, gắn với nó là ba giai đoạn: trắc trở đầu năm, hanh thông kéo dài suốt quý 2 và phần lớn quý 3, để rồi lại trùng xuống trong những tháng cuối năm này. 2.2.1 Từ trắc trở Đầu năm nay, trong tình thế giá gạo điều chỉnh giảm nhẹ và xuất khẩu tháng 1 không mấy khả quan, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thận trọng dự báo, khối lượng gạo xuất khẩu trong năm 2011 sẽ chỉ dao động ở mức 5,5-6,1 triệu tấn. Lo ngại kỷ lục trên 6,7 triệu tấn gạo xuất khẩu năm trước đó không thể duy trì, hội nghị triển khai kế hoạch xuất khẩu gạo năm 2011 của Hiệp hội Lương thực Việt Nam vào lúc “khai xuân” cũng chỉ đưa vào kế hoạch phấn đấu 6 triệu tấn, mức kim ngạch tương đương năm trước đó, vào khoảng 3 tỷ USD. Sự thận trọng kể trên dường như không thừa. Châu Phi và Trung Đông gặp khó khăn do bất ổn chính trị leo thang. Thị trường xuất khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam là Philippines, với kim ngạch năm 2010 gần đạt 1 tỷ USD, đột ngột thay đổi chính sách, cho phép khu vực tư nhân tham gia sâu vào nhập khẩu gạo. Sự trì hoãn và giảm nhập khẩu từ thị trường Philippines trong giai đoạn này đã góp phần tạo nên giai đoạn trì trệ trong xuất khẩu gạo của Việt Nam trong 2 tháng đầu năm. Đài Loan, Singapore cũng nằm trong số các thị trường giảm mạnh mức sản lượng và kim ngạch nhập khẩu gạo từ Việt Nam trong năm nay… 2.2.2 Đến thành công Nhưng “trong cơn bĩ cực” nhiều bạn hàng truyền thống khác đã trám chỗ nhanh chóng mà Indonesia là một ví dụ điển hình. Ngay trong tháng đầu năm, quốc gia này đã nhập khẩu hơn
Luận văn liên quan