Sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam thời gian qua đã thu được những kết quả bước đầu quan trọng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế trong 5 năm liền (1996-2000) đạt mức 7%, đời sống của nhân dân liên tục được cải thiện. Tuy nhiên, khó có thể phủ nhận rằng nền kinh tế nước ta vẫn đang tồn tại nhiều mâu thuẫn mà việc giải quyết những mâu thuẫn này đang là một thách thức lớn cho toàn thể chúng ta.
Trong Đại Hội Đại Biểu Toàn Quốc lần thứ IX vừa qua đã đề ra chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 10 năm đầu của thế kỷ XXI- Chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Để thực hiện được mục tiêu đó, yêu cầu về vốn là một trong những yêu cầu lớn và khó giải quyết nhất đối với nền kinh tế. Mâu thuẫn giữa nhu cầu vốn và khả năng huy động vốn hiện đang là một trong những mâu thuẫn bên trong nổi cộm nhất. Theo tính toán sơ bộ, trong giai đoạn 1997-2001, Việt Nam cần huy động khoảng 40-42 tỉ USD. Đây thực sự là con số khổng lồ khi biết rằng tổng sản phẩm quốc nội hàng năm của nước ta chỉ đạt 24 tỉ đô la.
27 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2283 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Vận dụng triết học Mác - Lênin với việc giải quyết mâu thuẫn giữa nhu cầu vốn và khả năng huy động vốn cho phát triển nền kinh tế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Lời nói đầu 2
Phần I: Những vấn đề lý luận chung 3
I. Quy luật mâu thuẫn 3
1. Khái niệm mâu thuẫn 3
2. Đặc điểm mâu thuẫn 4
3. Nội dung quy luật 5
II- Vai trò của vốn đầu tư đối với sự phát triển của nền kinh tế 9
1. Khái niệm vốn đầu tư 9
2. Tầm quan trọng của vốn đầu tư 9
Phần II: Phân tích thực trạng mâu thuẫn giữa nhu cầu vốn và
khả năng huy động vốn cho phát triển kinh tế Việt Nam 13
I- Nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển kinh tế Việt Nam 13
1. Mục tiêu phát triển kin2h tế 13
2. Nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển kinh tế Việt Nam 14
II- Thực trạng khả năng huy động vốn cho đầu tư phát triển
kinh tế 15
1. Huy động vốn trong nước 15
2. Huy động vốn nước ngoài 18
III- Phân tích mâu thuẫn và một số nguyên nhân của mâu thuẫn 19
1. Phân tích mâu thuẫn 19
2. Nguyên nhân của mâu thuẫn 20
Phần III: Một số giải pháp nhằm giải quyết mâu thuẫn 21
I- Giải pháp cân đối vốn đầu tư bằng nguồn vốn trong nước 21
II- Giải pháp bảo đảm cân đối vốn đầu tư bằng nguồn vốn nước
ngoài 22
Kết luận 24
LỜI NÓI ĐẦU
Sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam thời gian qua đã thu được những kết quả bước đầu quan trọng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế trong 5 năm liền (1996-2000) đạt mức 7%, đời sống của nhân dân liên tục được cải thiện. Tuy nhiên, khó có thể phủ nhận rằng nền kinh tế nước ta vẫn đang tồn tại nhiều mâu thuẫn mà việc giải quyết những mâu thuẫn này đang là một thách thức lớn cho toàn thể chúng ta.
Trong Đại Hội Đại Biểu Toàn Quốc lần thứ IX vừa qua đã đề ra chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 10 năm đầu của thế kỷ XXI- Chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Để thực hiện được mục tiêu đó, yêu cầu về vốn là một trong những yêu cầu lớn và khó giải quyết nhất đối với nền kinh tế. Mâu thuẫn giữa nhu cầu vốn và khả năng huy động vốn hiện đang là một trong những mâu thuẫn bên trong nổi cộm nhất. Theo tính toán sơ bộ, trong giai đoạn 1997-2001, Việt Nam cần huy động khoảng 40-42 tỉ USD. Đây thực sự là con số khổng lồ khi biết rằng tổng sản phẩm quốc nội hàng năm của nước ta chỉ đạt 24 tỉ đô la.
Để nhận thức rõ hơn mâu thuẫn này, em đã chọn đề tài: "Vận dụng triết học Mác - Lê Nin với việc giải quyết mâu thuẫn giữa nhu cầu vốn và khả năng huy động vốn cho phát triển nền kinh tế Việt Nam ".
Em xin chuyển lời cảm ơn trân trọng tới TS Lê Ngọc Thông đã tận tình hướng dẫn, tạo điều kiện cho em hoàn thành bài tiểu luận này. Bài viết chắc chắn sẽ còn nhiều thiếu sót, rất mong sự góp ý của thầy để bài viết được hoàn thiện hơn.
Sinh viên Hoàng thị Thu Hà
PHẦN I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
I. Quy luật mâu thuẫn
1. Khái niệm mâu thuẫn
Mâu thuẫn là mối liên hệ tác động qua lại của các mặt đối lập.
Trong đó, mặt đối lập là những yếu tố, những bộ phận, những khuynh hướng trái chiều nhau.
Trong phép biện chứng duy vật, khái niệm mặt đối lập là sự khái quát những mặt, những thuộc tính, những khuynh hướng, phát triển ngược chiều nhau tồn tại trong cùng một sự vật, hiện tượng, tạo nên sự vật, hiện tượng đó. Ví dụ như điện tích âm và dương trong nguyên tử, đồng hoá và dị hoá trong sinh học, tích luỹ và tiêu dùng trong kinh tế...
Cần phân biệt rằng không phải bất kì hai mặt đối lập nào cũng tạo thành mâu thuẫn. Bởi vì trong các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan không phải chỉ tồn tại trong nó hai mặt đối lập. Trong cùng một thời điểm ở mỗi sự vật có thể cùng tồn tại nhiều mặt đối lập, chỉ có những mặt đối lập nào tồn tại thống nhất trong cùng một sự vật như một chỉnh thể, nhưng có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau, bài trừ, phủ định và chuyển hoá lẫn nhau (sự chuyển hoá này tạo nguồn gốc, động lực, đồng thời quy định cả bản chất, khuynh hướng phát triển của sự vật) thì hai mặt đối lập như vậy mới gọi là hai mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn. Ví dụ, trong một nền sản xuất xã hội xuất hiện hàng loạt các mặt có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau như lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất; cung và cầu; tích luỹ và tiêu dùng; nhu cầu vốn và khả năng huy động vốn...Trong đó, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt đối lập chính tạo thành mâu thuẫn. Bởi vì hai mặt đối lập này không chỉ là nguồn gốc, động lực mà còn quy định rõ bản chất, khuynh hướng phát triển của nền sản xuất.
2 .Đặc điểm của mâu thuẫn
Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan
Đối lập với các quan điểm của triết học cũ, phép biện chứng duy vật khẳng định rằng tất cả các sự vật, hiện tượng tồn tại trong thực tại khách quan đều chứa đựng trong nó mâu thuẫn. Sự hình thành và phát triển của mâu thuẫn là do cấu trúc tự thân vốn có bên trong của sự vật, hiện tượng quy định. Mâu thuẫn tồn tại không phụ thuộc vào bất kì một lực lượng siêu tự nhiên nào, kể cả ý chí của con người. Mỗi một sự vật, hiện tượng đang tồn tại đều là một thể thống nhất được cấu thành bởi các mặt, các khuynh hướng, các thuộc tính phát triển ngược chiều nhau, đối lập nhau. Sự liên hệ, tác động qua lại, đấu tranh chuyển hoá, bài trừ và phủ định lẫn nhau, tạo thành động lực bên trong của mọi quá trình vận động và phát triển khách quan của chính bản thân các sự vật, hiện tượng.
Mâu thuẫn mang tính phổ biến
Mâu thuẫn là hiện tượng có trong tất cả các lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và tư duy của con người. Khoa học tự nhiên hiện đại chứng minh rằng thế giới vi mô là sự thống nhất giữa những thực thể có điện tích trái dấu, giữa hạt và trường, hạt và phản hạt. Trong sinh học có hấp thụ và bài tiết, di truyền và biến dị. Xã hội loài người có những mâu thuẫn phức tạp hơn, đó là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuaat và quan hệ sản xuất, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng; giữa những giai cấp đối kháng như chủ nô và nô lệ, nông dân và địa chủ, tư sản và vô sản. Trong hoạt động kinh tế mâu thuẫn cũng mang tính phổ biến, chẳng hạn như mâu thuẫn giữa cung và cầu, tích luỹ và tiêu dùng, tính kế hoạch hoá của từng xí nghiệp, công ty với tính tự phát vô chính phủ của nền sản xuất hàng hoá, mâu thuẫn giữa nhu cầu vốn và khả năng huy động vốn cho nền sản xuất... Trong tư duy của con người cũng có những mâu thuẫn như chân lý và sai lầm...
Mâu thuẫn tồn tại từ khi sự vật xuất hiện cho đến khi sự vật kết thúc. Trong mỗi một sự vật, mâu thuẫn được hình thành không phải chỉ có một mà có thể có nhiều mâu thuẫn, vì sự vật trong cùng một lúc có rất nhiều mặt đối lập. Mâu thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn khác lại hình thành. Ăngghen chỉ ra rằng chính sự vận động đơn giản nhất của vật chất cũng là một mâu thuẫn. Vật chất tồn tại ở hình thức vận động cao hơn, mâu thuẫn thể hiện càng rõ nét hơn. Nó gắn liền với sự vật, xuyên suốt quá trình phát sinh, phát triển và diệt vong của sự vật. Đó chính là những thuộc tính quy định tính khách quan và phổ biến của mâu thuẫn.
Như vậy, mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan và phổ biến, hình thành từ những cấu trúc và thuộc tính bên trong vốn có tự thân của tất cả các sự vật, hiện tượng trong bản thân thế giới khách quan. Do đó, trong hoạt động thực tiễn phải biết phân tích từng mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn cụ thể để nhận thức được bản chất, khuynh hướng vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng
3. Nội dung quy luật
Qui luật mâu thuẫn là qui luật quan trọng nhất của phép biện chứng duy vật. Quy luật này là "hạt nhân của phép biện chứng". Nó vạch ra nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển của bản thân sự vật, hiện tượng; đồng thời tác động đến tất cả các quy luật và phạm trù của phép biện chứng.
3.1. Thống nhất của các mặt đối lập:
"Thống nhất" của các mặt đối lập được hiểu với ý nghĩa không phải chúng đứng bên cạnh nhau mà là nương tựa vào nhau, tạo ra sự phù hợp, cân bằng nhưng liên hệ phụ thuộc, quy định và ràng buộc lẫn nhau. Mặt đối lập này lấy mặt đối lập kia làm tiền đề cho sự tồn tại của chính mình và ngược lại. Nếu thiếu một trong hai mặt đối lập chính tạo thành sự vật thì nhất địn sẽ không có sự tồn tại của sự vật. Bởi vậy, sự thống nhất của các mặt đối lập là điều kiện không thể thiếu được cho sự tồn tại của bất kỳ sự vật hiện tượng nào. Sự thống nhất này là do những đặc điểm riêng có của bản thân sự vật tạo nên. Ví dụ tích luỹ và tiêu dùng là hai mặt đối lập thống nhất với nhau trong nền sản xuất. Không có tích luỹ thì không thể thực hiện được quá trình tái sản xuất mở rộng và như vậy không có điều kiện để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao. Ngược lại, nếu không đảm bảo thoả mãn nhu cầu về tiêu dùng thì cũng không thể đẩy mạnh sản xuất phát triển. Không đẩy mạnh sản xuất phát triển thì cũng không có tích luỹ.
Như vậy, nhờ sự thống nhất mà sự vật tồn tại là chính nó. Sự thống nhất tạo tính ổn định và tương đối của sự vật.
Khái niệm "sự thống nhất của các mặt đối lập" còn được dùng cùng một nghĩa với khái niệm "sự đồng nhất của các mặt đối lập". Tuy nhiên, trong trường hợp các mặt đối lập chuyển hoá lẫn nhau thì hai khái niệm này không còn đồng nghĩa với nhau nữa. Mỗi một sự vật, hiện tượng vừa là bản thân nó, vừa là một cái khác với bản thân nó. Trong sự đồng nhất đã bao hàm sự khác nhau, không có cái gì đồng nhất thuần tuý, không có đối lập, không có chuyển hoá.
3.2. Đấu tranh của các mặt đối lập
Sự thống nhất của các mặt đối lập trong cùng một sự vật không tách rời sự đấu tranh chuyển hoá giữa chúng. Đấu tranh giữa các mặt đối lập là sự bài trừ, gạt bỏ, phủ định lẫn nhau giữa các mặt đối lập. Bởi vì do các mặt đối lập có xu hướng trái ngược nhau mà trong quá trình tồn tại, mỗi mặt đối lập này lại vận động theo xu hướng vốn có của mình dẫn đến chúng ảnh hưởng, hạn chế và kìm hãm lẫn nhau. Sự đấu tranh, chuyển hoá, bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa các mặt trong thế giới khách quan thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau và được chia thành nhiều giai đoạn.
Giai đoạn hình thành mâu thuẫn: Ban đầu các yếu tố trong sự vật, hiện tượng chỉ tồn tại với tư cách là sự khác nhau. Những yếu tố ấy cứ vận động theo những xu hướng riêng làm cho sự khác nhau dần trở nên sự khác biệt. Sự khác biệt cứ tăng dần rồi chuyển thành sự đối lập. Các yếu tố lúc này trở thành các mặt đối lập. Các mặt đối lập tác động qua lại lẫn nhau để tạo nên sự vật và qua đó tạo nên mâu thuẫn. Như vậy, trong giai đoạn hình thành mâu thuẫn sự thống nhất là chủ yếu.
Giai đoạn phát triển mâu thuẫn: Các mặt đối lập cứ tiếp tục vận động theo những xu hướng riêng trái ngược nhau. Giữa chúng đã xảy ra sự hạn chế, kìm hãm lẫn nhau. Sự đấu tranh xuất hiện. Các mặt đối lập dần chuyển thành các đối cực. Mâu thuẫn đã phát triển đến đỉnh cao và yêu cầu được giải quyết.
Giai đoạn giải quyết mâu thuẫn: Khi mâu thuẫn đã phát triển đến đỉnh cao và trong những điều kiện phù hợp thì mâu thuẫn sẽ được giải quyết bằng cách xảy ra sự chuyển hoá của các mặt đối lập. Sự vật cũ mất đi, sự vật mới được hình thành. Sau khi mâu thuẫn được giải quyết, sự thống nhất của hai mặt đối lập cũ được thay thế bằng sự thống nhất của hai mặt đối lập mới. Hai mặt đối lập mới lại đấu tranh chuyển hoá tạo thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn được giải quyết, sự vật mới hơn xuất hiện. Cứ như thế, đấu tranh giữa các mặt đối lập làm cho sự vật biến đổi không ngừng từ thấp đến cao. Chính vì vậy, Lê nin khẳng định: " Sự phát triển là một "cuộc đấu tranh" giữa các mặt đối lập"
Tuy nhiên không phải bất kì sự đấu tranh nào của các mặt đối lập đều dẫn đến sự chuyển hoá giữa chúng. Chỉ có sự đấu tranh của các mặt đối lập phát triển đến một trình độ nhất định, hội đủ các điều kịên cần thiết mới dẫn đến sự chuyển hoá, bài trừ và phủ định lẫn nhau. Chuyển hoá của các mặt đối lập chính là lúc mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời. Đó là quá trình diễn biến rất phức tạp với rất nhiều hình thức khác nhau. Do đó không nên hiểu sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mặt đối lập chỉ là sự hoán đổi vị trí một cách giản đơn, máy móc như A chuyển thành B và ngược lại. Thông thường mâu thuẫn chuyển hoá theo hai phương thức : Một là, mặt đối lập này chuyển hoá thành mặt đối lập kia nhưng ở trình độ cao hơn xét về phương diện chất của sự vật. Ví dụ lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội phong kiến chuyển hoá lẫn nhau để hình thành quan hệ sản xuất mới- quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và lực lượng sản xuất ở trình độ cao hơn. Hai là, cả hai mặt đối lập chuyển hoá lẫn nhau để hình thành hai mặt đối lập mới hoàn toàn.
Như vậy, đấu tranh đưa đến sự chuyển hoá làm các mặt đối lập thay đổi dẫn đến sự vận động. Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập là nguồn gốc động lực của sự vận động, xuyên qua quá trình vận động mà thể hiện một xu hướng tiến lên. Có thể khẳng định đấu tranh giữa các mặt đối lập là nguồn gốc và động lực của sự phát triển.
3.3. Mối quan hệ giữa thống nhất và đấu tranh
Đó là hai mặt tồn tại trong cùng một quá trình giải quyết mâu thuẫn và có liên quan chặt chẽ với nhau. Thống nhất tạo tiền đề cho đấu tranh. Đấu tranh phá vỡ thể thống nhất cũ xác lập thể thống nhất mới.
Thống nhất là điều kiện để sự vật tồn tại là chính nó- nhờ có sự thống nhất của các mặt đối lập mà chúng ta nhận biết được các sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới khách quan. Song bản thân sự thống nhất chỉ là tạm thời, tương đối. Đấu tranh giữa các mặt đối lập mới là tuyệt đối. Nó diễn ra thường xuyên, liên tục trong suốt quá trình tồn tại của sự vật. Kể cả trong trạng thái sự vật ổn định cũng như khi chuyển hoá nhảy vọt về chất. Lênin viết: "Sự thống nhất ( phù hợp, đồng nhất, tác dụng ngang nhau) của các mặt đối lập là có điều kiện, tạm thời thoáng qua của tương đối. Sự đấu tranh của các mặt đối lập, bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối, cũng như sự phát triển, sự vận động là tuyệt đối".
Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật mâu thuẫn
Mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan và phổ biến, hình thành từ những cấu trúc và thuộc tính bên trong vốn có và tự thân của tất cả các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Do đó trong hoạt động thực tiễn phải biết phân tích từng mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn cụ thể để nhận thức được bản chất, khuynh hướng vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
Sự vật khác nhau thì mâu thuẫn cũng khác nhau, mỗi sự vật đều có nhiều mâu thuẫn, mỗi mâu thuẫn lại có đặc điểm riêng của nó; quá trình phát triển của một mâu thuẫn, ở mỗi giai đoạn lại có những đặc điểm riêng. Do đó, phải biết phân tích cụ thể từng mâu thuẫn và tìm cách giải quyết cụ thể cho từng loại mâu thuẫn đó.
Cần nắm vững nguyên tắc để giải quyết mâu thuẫn. Đó là sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập diễn ra theo quy luật phá vỡ cái cũ để thiết lập cái mới tiến bộ hơn. Vì vậy, trong đời sống xã hội, mọi hành vi đấu tranh được coi là chân chính khi nó thúc đẩy sự phát triển.
Mâu thuẫn tồn tại trong tất cả lĩnh vực kinh tế, xã hội. Đặc biệt, trong nền kinh tế của các nước đang phát triển, trong đó có nước ta. Việc nắm rõ nguyên nhân cũng như thực trạng của từng loại mâu thuẫn sẽ giúp ta tìm ra phương hướng giải quyết hợp lý. Tuy nhiên với phạm vi nghiên cứu của đề tài, em chỉ xin đi sâu nghiên cứu mâu thuẫn giữa nhu cầu vốn và khả năng huy động vốn cho phát triển nền kinh tế nước ta. Và để hiểu rõ vấn đề, trước hết ta đi tìm hiểu đôi chút về vốn đầu tư và vai trò của nó đối với việc phát triển kinh tế.
II. Vai trò của vốn đầu tư đối với sự phát triển của nền kinh tế
1. Khái niệm vốn đầu tư
Vốn đầu tư là tiền tích luỹ của xã hội, của các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ, là tiết kiệm của dân và vốn huy động từ các nguồn khác được đưa vào sử dụng trong quá trình tái sản xuất xã hội nhằm duy trì tiềm lực sẵn có và tạo tiềm lực mới cho nền sản suất xã hội.
2. Tầm quan trọng của vốn đầu tư
Bất kì một quốc gia nào muốn tăng trưởng và phát triển đều cần một điều kiện không thể thiếu được, đó là phải tạo vốn cho nền kinh tế. Việt Nam cũng nằm trong quy luật đó. Hoạt động đầu tư là chìa khoá cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, người ta không thể thực hiện đầu tư mà không có vốn.
Thực tế ở nhiều nước cho thấy: muốn giữ được mức tăng trưởng ổn định ở mức trung bình khoảng 6% - 7% năm cần phải duy trì mức đầu tư từ 15% - 20% GDP. Đài Loan, Hồng Kông, Singapore, Hàn quốc đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế thần kỳ trong 2-3 thập kỷ gần đây, vì họ đều kiên trì thực hiện đầu tư cao 30% - 40% so với GDP. Nhiều nước nếu tỷ lệ đầu tư bằng 30% GDP thì thường đạt tốc độ tăng trưởng 7% - 8% năm. Có thể nói, để đạt tốc độ tăng trưởng 1% thì tỷ lệ đầu tư phải là 4% GDP. Đối với nước ta, các chuyên gia kinh tế cho rằng muốn tăng GDP lên gấp 2 lần vào năm 2000 thì số vốn đầu tư từ 35 - 40 tỷ USD.
Trong văn kiện Đại hội VIII đã chỉ rõ "Cần huy động mọi nguồn vốn trong và ngoài nước để đầu tư phát triển, trong đó vốn trong nước có ý nghĩa quyết định, vốn nước ngoài có ý nghĩa quan trọng" cụ thể là:
2.1. Với nguồn vốn đầu tư trong nước :
Trong lịch sử phát triển, các nước phát triển kinh tế cùng dựa trên lí luận chung là: nếu bản thân nền kinh tế không tiết kiệm nội bộ thì đó là nền kinh tế "tiêu hao' ăn dần vào của cải, kết cục sẽ đi vào con đường bế tắc cho sự phát triển.
Đối với pham vi vi mô, cùng với bên ngoài nhất thiết phải có vốn đối ứng bên trong mới có thể triển khai công trình thuận lợi. Thêm vào đó cần có vốn để đầu tư vào các công trình như: điện, cấp thoát nước, thông tin, giao thông và hạ tầng xã hội khác.
Kinh nghiệm ở các nước cho thấy cần có tích luỹ nội bộ nền kinh tế thì mới có khả năng trở thành nước công nghiệp hoá. Việt Nam ta trong thời gian dài có tích luỹ âm, đến nay mức tích luỹ gộp cũng chỉ dưới 20%, vẫn chưa đủ điều kiện cho sự phát triển nhanh trong những năm tới.
2.2. Với nguồn vốn nước ngoài:
Thu hút vốn đầu tư nước ngoài là rất quan trọng, góp phần đáng kể vào việc đẩy nhanh nhịp độ tăng trưởng kinh tế.Nhờ đó mà nước sở tại có thể tiếp nhận được công nghệ tiên tiến, đặc biệt là những nước có nền kinh tế lạc hậu, chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Việc tiếp thu này còn giúp nước sở tại tăng năng suất lao động, tạo ra những ngành nghề mới và phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, nhờ học tập được kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài nên việc điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp có hiệu quả hơn, tạo thêm được công ăn việc làm cho người lao động, góp phần đào tạo cán bộ có kỹ thuật và trình độ chuyên môn cao. Thông qua đó người lao động sẽ có nguồn thu nhập ổn định, đời sống được đảm bảo.
2.3. Mối quan hệ giữa vốn huy động trong nước và vốn huy động từ nước ngoài.
Đối với một nước đang phát triển, để phát triển kinh tế để từ đấy thoát ra khỏi cảnh đói nghèo thì vấn đề nan giải ngay từ đầu là thiếu vốn gay gắt. Từ đó dẫn tới thiếu nhiều thứ cần thiết khác cho sự phát triển như công nghệ, cở sở hạ tầng... Do đó, để có được những bước đi ban đầu cho sự phát triển kinh tế không thể không huy động vốn từ nước ngoài. Không một nước đang phát triển nào trên con đường phát triển lại không tranh thủ nguồn vốn đầu tư nước ngoài, nhất là trong điều kiện kinh tế mở.
Tuy nhiên, để tiếp thu và phát huy tác dụng của vốn đầu tư nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế đất nước lại chính là khối lượng vốn đầu tư trong nước.
Muốn hiểu rõ tầm quan trọng của vốn đầu tư trong nước ở nước ta chúng ta nghiên cứu mối tương quan giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài.
Tương quan (1): vốn trong nước > vốn nước ngoài: Là xu hướng chúng ta mong muốn duy trì nhằm tự chủ về vốn.
Tương quan (1): vốn trong nước < vốn nước ngoài: Sớm muộn đất nước sẽ bị phụ thuộc vào vốn bên ngoài, bị bóc lột tài nguyên, sức lao động... quốc gia sẽ lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế, tài chính khi có sự cố bên ngoài.
Tương quan (3): vốn trong nước = vốn nước ngoài: Tương quan này rất ít xảy ra, nếu có sẽ không bền vững. Nó tạo ra sự bình đẳng giữa hai bên về kinh tế nhưng thực tế chỉ là sự giả tạo và khó duy trì.
Tóm lại, tương quan (1) là tốt nhất, tương quan (2), (3) tạm chấp nhận ban đầu và tuyệt đối tránh những tiêu cực phát sinh liên quan. Để đạt được tương quan (1) thì cần phải duy trì các tỷ lệ (so với GDP) như sau:
- Tỷ lệ tích luỹ tăng nhanh hơn tỷ lệ tiêu dùng.
- Tỷ lệ tiết kiệm nhanh hơn tỷ lệ đầu tư.
- Tỷ lệ đầu tư không quá nhanh hơn so với tỷ lệ tích luỹ.
Do đó, xét về lâu dài thì nguồn vốn đảm