Tiểu luận Văn hóa trong kinh doanh

Trước đây đã có một thời gian dài người ta quan niệm rằng văn hóa và kinh doanh là hai lĩnh vực khác biệt thậm chí đối lập nhau, giữa chúng hoàn toàn không có mối liên hệ nào cả. Người ta lập luận rằng, mục đích của kinh doanh xét đến cùng là lợi nhuận. Kinh doanh không cần quan tâm và cũng không có trách nhiệm gì khác ngoài mục đích sinh lợi. Còn văn hóa hướng đến giá trị của chân, thiện, mĩ xét trong mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với giới tự nhiên và với bản thân. Tuy nhiên, gần đây văn hóa được quan tâm chú ý nhiều hơn. Nhiều người đã nhìn nhận lại giá trị của văn hóa. Người ta nhận thức rằng chỉ quan tâm đến phát triển kinh tế mà không chú ý đến văn hóa là phát triển không bền vững. Văn hóa không chỉ là “nền tảng tinh thần” mà còn “động lực phát triển xã hội”. Văn hóa, kinh tế và kinh doanh không thể đứng tách biệt, trái lại giữa chúng có một mối quan hệ hữu cơ gắn bó mật thiết và bổ sung cho nhau. Nói cách khác, giữa cái đúng, cái tốt, cái đẹp và cái lợi không đứng riêng lẻ mà gắn bó với nhau. Vì văn hóa tồn tại trong mọi hoạt động của đời sống con người kể cả hoạt động kinh tế.

pdf20 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 5606 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Văn hóa trong kinh doanh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nhóm 10 1 Tiểu luận Văn hóa trong kinh doanh Nhóm 10 2 VĂN HÓA TRONG KINH DOANH Trước đây đã có một thời gian dài người ta quan niệm rằng văn hóa và kinh doanh là hai lĩnh vực khác biệt thậm chí đối lập nhau, giữa chúng hoàn toàn không có mối liên hệ nào cả. Người ta lập luận rằng, mục đích của kinh doanh xét đến cùng là lợi nhuận. Kinh doanh không cần quan tâm và cũng không có trách nhiệm gì khác ngoài mục đích sinh lợi. Còn văn hóa hướng đến giá trị của chân, thiện, mĩ xét trong mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với giới tự nhiên và với bản thân. Tuy nhiên, gần đây văn hóa được quan tâm chú ý nhiều hơn. Nhiều người đã nhìn nhận lại giá trị của văn hóa. Người ta nhận thức rằng chỉ quan tâm đến phát triển kinh tế mà không chú ý đến văn hóa là phát triển không bền vững. Văn hóa không chỉ là “nền tảng tinh thần” mà còn “động lực phát triển xã hội”. Văn hóa, kinh tế và kinh doanh không thể đứng tách biệt, trái lại giữa chúng có một mối quan hệ hữu cơ gắn bó mật thiết và bổ sung cho nhau. Nói cách khác, giữa cái đúng, cái tốt, cái đẹp và cái lợi không đứng riêng lẻ mà gắn bó với nhau. Vì văn hóa tồn tại trong mọi hoạt động của đời sống con người kể cả hoạt động kinh tế. Nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng, trên thực tế việc kiếm tiền đã diễn ra theo nhiều cách khác nhau. Có cách thức kiếm lời bằng sự bóc lột quá mức sức lao động của người làm công. Không ít trường hợp kiếm lời bằng những thủ đoạn gian trá, lừa đảo, buôn lậu, đầu cơ, trốn thuế… Và cũng có cách kiếm lời bất chấp mọi hậu quả bằng cách khai thác bừa bãi, tận dụng tối đa nguồn tài nguyên thiên nhiên khiến cho tài nguyên thiên nhiên bị cạn kiệt, môi trường bị ô nhiễm nặng nề và sinh thái tự nhiên mất cân bằng nghiêm trọng. Do vậy, quan tâm đến văn hóa, kết hợp văn hóa với kinh doanh làm cho cái lợi gắn bó chặt chẽ với cái chân, cái thiện, cái mĩ, là xu hướng chung của doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển lâu dài. Đó là biểu hiện của kinh doanh có văn hóa. Kiếm lời chân chính, có văn hóa là dựa vào trí tuệ, tài năng và sức lực của mình thông qua việc nhanh nhạy nắm bắt thông tin và nhu cầu của thị trường, không ngừng cải tiến kỹ thuật, công nghệ, kiểu dáng sản phẩm, biết tính toán định mức tiêu hao nguyên vật liệu, nhiên liệu, tránh sự lãng phí… Ngoài ra, doanh nghiệp còn phải biết quan tâm đến lợi ích vật chất và tinh thần, không ngừng bồi dưỡng, khuyến khích tài năng sáng tạo của người lao động để tạo ra những sản phẩm hàng hóa và dịch vụ có chất lượng ngày càng cao, hình thức đẹp, giá cả hợp lý, giữ được chữ “tín” đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Như vậy, nói văn hóa kinh doanh là đề cập đến cái đẹp, cái đúng, cái tốt với cái lợi. Mục đích kiếm tiền phải hướng đến các giá trị của văn hóa. Nói cách khác ngoài lợi ích kinh tế còn có sự giao tiếp, ứng xử giữa con người với con người. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, khi nói văn hóa kinh doanh cũng có nghĩa là kinh doanh có văn hóa. Và bản chất của văn hóa kinh doanh là gắn với văn hóa đạo đức. Trong hoạt động sản xuất, buôn bán và dịch vụ cần phải trung thực. Nói cách khác, kinh doanh có văn hóa là kinh doanh trung thực, ngay thẳng đáp ứng đòi hỏi của cuộc sống, không chạy theo lợi ích của cá nhân hay của một nhóm người để làm ăn dối trá, lừa đảo, “chụp giật”, “đánh quả”… Bất kỳ loại hình kinh doanh nào cũng phải có Nhóm 10 3 trách nhiệm xã hội. Trách nhiệm xã hội trở thành nhân tố quan trọng hàng đầu của đạo đức kinh doanh, phù hợp với truyền thống văn hóa của dân tộc. Kinh doanh có văn hóa tạo ra mối quan hệ mật thiết giữa nhà sản xuất, nhà kinh doanh va người tiêu dùng theo nguyên tắc các bên đều có lợi. Nét đẹp trong hoạt động kinh doanh có văn hóa còn khuyến khích cạnh tranh lành mạnh để cùng tồn tại và phát triển chứ không loại trừ nhau. Việc sản xuất tạo ra các sản phẩm tốt đáp ứng nhu cầu cúng như thị hiếu lành mạnh và chính từ chất lượng sản phẩm sẽ tạo ra uy tín cho việc kinh doanh và cho doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp đã đưa ra những nguyên tắc quan trọng trong hoạt động kinh doanh nhằm tạo ra một hình ảnh tối ưu để nâng cao uy tín của mình. Những nguyên tắc này được xác lập qua quá trình hoạt động kinh doanh, được coi như là những “tín điều”, là “biểu tượng” của doanh nghiệp. Toàn bộ các nguyên tắc được xây dựng thành một hệ thống và được coi là “triết lý kinh doanh”. Như vậy, văn hóa kinh doanh ngoài mục đích sinh lợi thì tính trung thực, lòng ngay thẳng được coi là một trong những nhân tố quan trọng thể hiện trong các mối quan hệ giữa nhà doanh nghiệp và người lao động, người sản xuất và người tiêu dùng, người mua và ngươi bán, người phục vụ và người được phục vụ. Ngoài việc đáp ứng nhu cầu của thị trường, kinh doanh có văn hóa góp phần tạo ra cuộc sống lành mạnh chứ không làm tổn hại đến truyền thống và tập quán tốt đẹp của nhân dân bằng những hành vi và hàng hóa kém chất lượng. Đạo đức, nhân phẩm có vai trò hết sức quan trọng trong kinh doanh có tác dụng nuôi dưỡng, tạo niềm tin và uy tín nhằm củng cố hoạt động kinh doanh phát triển. Văn hóa doanh nhân cũng có thể được hiểu là văn hóa của người làm nghề kinh doanh. Đối với một doanh nhân, phẩm chất quan trọng hàng đầu đó là trí tuệ và tài năng. Trí tuệ, tài năng của nhà doanh nghiệp thể hiện trong việc chiếm lĩnh tri thức, kinh nghiệm, nắm bắt các thành tựu khoa học kỹ thật và công nghệ, vận dụng chúng một cách sáng tạo vào trong quy trình sản xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm nguyên vật liệu, năng lượng và giá thành hạ. Trí tuệ, tài năng của nhà doanh nghiệp thể hiện sự năng động, nhanh nhạy trong việc đánh giá thực trạng thị trường, nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng để có kế hoạch phù hợp trong chiến lược kinh doanh của mình. Trí tuệ, tài năng của nhà doanh nghiệp còn thể hiện trong việc quản lý và huy động nguồn vốn để kinh doanh có hiệu quả nhất. Ngoài trí tuệ, tài năng, phẩm chất hàng đầu đảm bảo cho việc kinh doanh có hiệu quả, nhà doanh nghiệp còn phải có nhân cách, đạo đức. Có thể nói tính trung thực mà cốt lõi là cái tâm của nhà doanh nghiệp phải được thể hiện trong các hoạt động sản xuất, buôn bán và dịch vụ. Ngoài tính trung thực, một trong những biểu hiện đạo đức của nhà doanh nghiệp có văn hoá là thái độ ứng xử đối với đồng nghiệp, người lao động… Những biểu hiện trong cách thức diễn đạt tư tưởng cũng có ý nghĩa quan trọng. Ngay cả cách nói của nhà doanh nghiệp đối với cộng sự như: “các đồng nghiệp của tôi”, “các nhân viên của tôi”, “các thành viên trong ê kíp của tôi”… biểu hiện những cung bậc, sắc thái khác nhau trong thái độ đối với nhân viên và ở một chừng mực nhất định nào đó xác định vị thế của các nhân viên. Đằng sau những lời nói đó là ẩn chứa trách nhiệm lớn hoặc nhỏ cũng như mức độ tham gia vào những công việc chung hay sự động viên, Nhóm 10 4 khuyến khích tính sáng tạo của các cộng sự, những người lao động. Ngay cả các sắc thái biểu cảm như giọng nói, cách xưng hô hoặc ra lệnh… cũng thể hiện những khía cạnh văn hoá của nhà doanh nghiệp. Xét ở một phương diện nào đó, các sắc thái biểu cảm còn có ý nghĩa lớn hơn cả những lời tuyên bố long trọng. Nó phản ánh thái độ tôn trọng đối với người dưới quyền, nhân viên của mình. Chính thái độ tôn trọng cuộc sống, phẩm giá, sự hài hoà giữa lợi ích chung và riêng, kể cả quyền lợi vật chất cũng như tinh thần đối với người dưới quyền và các cộng sự sẽ giúp nhà doanh nghiệp đạt được thành công nhất định. Nắm bắt tâm lí, hiểu biết được tâm tư nguyện vọng, biết khơi dậy và phát huy được tinh thần trách nhiệm, ý thức tự giác, niềm say mê sáng tạo của những người lao động, ứng sử hài hoà như thể người nhà hay anh em trong một cộng đồng sẽ tạo cho doanh nghiệp phát triển vững chắc. Những nghi thức tiếp nhận thành viên mới, thái độ của doanh nhân trong điều mới, thái độ của doanh nhân trong điều hành công việc hay lễ tiễn những nhân viên đến tuổi nghỉ hưu với những bó hoa kèm theo tặng phẩm và những lời phát biểu trang trọng thấm đượm tình cảm cũng để lại trong lòng mọi người những ấn tượng khó quên. Tất cả điều đó tạo cho mỗi người cảm giác là thành viên của một gia đình, tập thể lớn và tạo nguồn lực động viên để họ lao động cống hiến trí tuệ và sức lực cho sự phát triển bền vững của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, lễ tiễn người đến tuổi về nghỉ hưu đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục lòng trung thành với doanh nghiệp. Sự đóng góp tận tâm của mỗi cá nhân đối với doanh nghiệp luôn được tôn trọng và được đánh giá cao. Không ít nhà doanh nghiệp thường tổ chức những bữa ăn chung vào các kì nghỉ cuối tuần hoặc hằng tháng với sự tham gia của ban lãnh đạo và một số nhân viên hoặc tổ chức những cuộc chiêu đãi hằng năm với mục đích thể hiện sự thống nhất của tất cả các thành viên trong doanh nghiệp. Việc hằng tuần hoặc hằng tháng trao cho những người lao động có đóng góp xuất sắc những phần thưởng hay biểu tượng của doanh nghiệp . . . cũng biểu hiện thái độ tôn trọng của doanh nhân đối với nhân viên. Tất cả những phương tiện tác động tinh thần và đạo đức kể trên tạo ra sức mạnh không nhỏ đối với hoạt động của doanh nghiệp, để cho các nhân viên bộc lộ sức lực và khả năng sáng tạo của mình đóng góp thật nhiều cho sự lớn mạnh của doanh nghiệp. Văn hoá doanh nhân hay văn hoá của nhà doanh nghiệp là sự kết hợp giữa trí tuệ, tài năng và nhân cách đạo đức mà cái tâm là cốt lõi thể hiện trong toàn bộ các mối quan hệ đa chiều của mọi hoạt động kinh doanh. Văn hoá kinh doanh và văn hoá doanh nhân tuy có những điểm khác biệt, nhưng chúng cùng nhằm nuôi dưỡng, nâng cao phẩm chất, tính cách của con người và đều hướng tới giá trị của lòng nhân ái, cái thiện, cái đẹp và cái chân chính. Sự lịch lãm, lễ độ, thái độ nhã nhặn, lòng bao dung, biết tôn trọng quyền lợi của nhau trong giao tiếp, ứng xử… tạo niềm tin và uy tín không chỉ đối với doanh nhân mà còn đối với cả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta đòi hỏi các nhà doanh nghiệp và hoạt động kinh doanh quan tâm hơn nữa đối với văn hoá, đưa văn hoá vào lĩnh vực kinh doanh. Sự kết hợp giữa kinh doanh và văn hoá đảm bảo cho sự phát triển bền vững của các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay. Nhóm 10 5 I. Khái niệm Văn hoá kinh doanh là toàn bộ các nhân tố văn hoá được chủ thể kinh doanh chọn lọc, tạo ra, sử dụng và biểu hiện trong hoạt động kinh doanh tạo nên bản sắc kinh doanh của chủ thể đó . II. Các nhân tố cấu thành văn hoá kinh doanh Văn hoá kinh doanh là một phương diện của văn hoá trong xã hội và là văn hoá trong lĩnh vực hoạt động kinh doanh . Văn hóa kinh doanh bao gồm toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần, những phương thức và kết quả hoạt động của con người được tạo ra và sử dụng trong quá trình kinh doanh. Để tạo nên hệ thống văn hóa kinh doanh hòan chỉnh với bốn nhân tố cấu thành là : triết lý kinh doanh, đạo đức kinh doanh, văn hóa doanh nhân và các híonh thức văn hóa khác, chủ thể kinh doanh phải kết hợp đồng thời hai hệ giá trị sau :  Chủ thể kinh doanh sẽ lựa chọn và vận dụng các giá trị văn hóa dân tộc, văn hóa xã hội, . . . vào họat động kinh doanh để tạo ra sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ. Đó là tri thức, kiến thức, sự hiểu biết về kinh doanh được thể hiện từ việc tuyển chọn nhân công, lựa chọn nguyên nhiên vật liệu, lựa chọn máy móc dây chuyền công nghệ, . . .ngôn ngữ được sử dụng trong kinh, niềm tin, tín ngưỡng và tôn giáo, các giá trị văn hóa truyền thống, các họat động văn hóa tinh thần, . . . ví dụ Công ty Mai Linh có lựa chọn và vận dụng các giá trị văn hóa dân tộc, văn hóa xã hội vào việc đặc tên cho Cong ty của mính để làm thành Mai Linh đaược mọi người biết đến không còn đơn thuần là tên công ty mà nó là tên của một thương hiệu nổi tiếng trên đất nứơc Việt nam. về ý nghĩa “ Mai” nói lên hìonh ảnh của hoa mai trong ngày tết cố truyền, của sự may mắn, đồng thời cũng là một từ dùng để chỉ tương lai, về một ngày mai tốt đẹp. Còn “Linh” mang ý nghĩa của tinh nhanh, linh hoạt, linh động trong giải quyết công việc.  Trong quá trình họat động, các chủ thể kinh doanhcũng tạo ra các giá trị của riêng mình. Các giá trị này được thể hiện thông qua những giá trị hữu hình như giá trị của sản phẩm, hình thức mẫu mã sản phẩm, máy móc, thiết bị nhà xưởng , biểu tượng, khẩu hiệu, lễ nghi, sinh họat, thủ tục, chương trình, truyền thuyết, các họat động văn hóa tinh thần của doanh nghiệp. Tuy nhiên, sự phân biệt hai hệ thống giá trị kể trên chỉ là tương đối, các giá trị văn hóa dân tộc, văn hóa xã hội đã được chọn lọc và các giá trị văn hóa được tạo ra trong quá trình kinh doanh không thể tách bạch, chúng hoa quỵên vào nhau thành một hệ thống văn hóa kinh doanh với 4 nhân tố cấu thành là : 1. Triết lý kinh doanh : Khái niệm : Triết lý kinh doanh là những tư tưởng triết học phản ánh thực tiễn kinh doanh thông qua con đường trải nghiệm, suy ngẫm, khái quát hóa của các chủ thể kinh doanh và chỉ dẫn cho họat động kinh doanh . Là một hệ thống bao gồm những giá trị cốt lõi có tính pháp lý và đạo lý tạo nên phong thái đặc thù của chủ thể kinh doanh và phương thức phát triển bền vững của họat động này. Triết lý kinh doanh còn là cơ sở để các nhà quản trị đưa ra các quyết định quản lý có tính chiến lược quan trọng trong những tình huống mà sự phân tích lỗ lãi không thể giải quyết. Đồng thời, triết lý kinh doanh còn là phương tiện để giáo dục và phát triển nguồn nhân lực cho họat động kinh doanh. Vì thế, nên trong những công ty xuất sắc của Mỹ như IBM, HP, Intel, . . . các nhà quản trị đều có thói quen đối Nhóm 10 6 chiếu triết lý kinh doanh với các dự định hành động cũng như các kế họach, chiến lược trong giai đoạn xây dựng và vấn đề đầu tiên mà các nhân viên mới phải học là sự hòa nhập với môi trường văn hóa của công ty với trọng tâm là triết lý kinh doanh để giá trị cảu công ty được truyền tải và di truyền vào từng thành viên, tạo nên sứ mệnh và hành vi chung của tòan thể nhân viên trong công ty. Hình thức thể hiện của triết lý kinh doanh cũng rất khác nhau với mỗi một chủ thể kinh doanh cụ thể. Đó có thể là một văn bản được in ra thành một cuốn sách nhỏ hoặc dưới dạng một câu khẩu hiệu hoặc bài hát. Triết lý kinh doanh cũng có thể không được thể hiện ra bằng các dạng vật chất mà tồn tại ở những giá trị niềm tin định hướng cho quá trình kinh doanh. Và dù dưới hình thức nào thì triết lý kinh doanh luôn trở thành ý thức thường trực trong mỗi chủ thể kinh doanh, chỉ đạo những hành vi của họ. Kết cấu nội dung của triết lý kinh doanh thường bao gồm những bộ phận sau :  Sứ mệnh và các mục tiêu kinh doanh cơ bản,  Các phương thức hành động để hòan thành được những sứ mệnh và mục tiêu,  Các nguyên tắc tạo ra một phong cách ứng xử, giao tiếp và họat động kinh doanh đặc thù của doanh nghiệp. 2. Đạo đức kinh doanh : Khái niệm : Đạo đức kinh doanh là một tập hợp các nguyên tắc, chuẩn mực có tác dụng điều chỉnh, đánh giá, hướng dẫn và kiểm soát hành vi của các chủ thể kinh doanh. Đây là hệ thống các quy tắc xử sự, các chuẩn mực đạo đức, các quy chế, nội quy, . . . có vai trò điều tiết các họat động của quá trình kinh doanh nhằm hướng đến triết lý đã quy định. Ngày nay, hoạt động kinh doanh đòi hỏi các chủ thể phải có những hành vi phù hợp với đạo lý dân tộc và các quy chuẩn về cái thiện và cái tốt chung của toàn nhân loại. Do vậy, đạo đức kinh doanh sẽ góp phần phát triển mối quan hệ với người lao động, với chính quyền, với khách hàng, với đối thủ cạnh tranh, với nhà cung cấp và với cộng đồng xã hội, từ đó góp phần tạo nên môi trường kinh doanh ổn định. 3. Văn hóa doanh nhân : Khái niệm : Văn hóa doanh nhân là toàn bộ các nhân tố văn hóa mà các doanh nhân chọn lọc, tạo ra, sử dụng và biểu hiện trong hoạt động kinh doanh của mình. Tài năng, đạo đức và phong cách của nhà kinh doanh có vai trò quyết định trong việc hình thành văn hóa kinh doanh của chủ thể kinh doanh. Doanh nhân không chỉ là người quyết định cơ cấu tổ chức và công nghệ kinh doanh mà còn là người sáng tạo ra các biểu tượng, các ý thức hệ, ngôn ngữ, niềm tin, nghi lễ, huyền thoại, . . .Do đó, trong quá trình xây dựng và phát triển kinh doanh, văn hóa của doanh nhân sẽ được phản chiếu lên văn hóa kinh doanh. 4. Các hình thức văn hóa khác : Khái niệm : Các hình thức văn hóa khác bao gồm những giá trị của văn hóa kinh doanh được thể hiện bằng tất cả những giá trị trực quan hay phi trực quan điển hình. Một số hình thức thể hiện khác của văn hóa kinh doanh như :  Giá trị sử dụng, hình thức, mẫu mã sản phẩm : Đây là một hình thức thể hiện của văn hóa kinh doanh vì con người luôn luôn khát vọng hướng đến chân – thiện – mỹ, Nhóm 10 7 tức là luôn vươn tới cái đúng, cái tốt và cái đẹp nên nhu cầu của khách hàng không đơn thuần chỉ là được đáp ứng những đòi hỏi vật chất mà song song với đó là tính thẩm mĩ, tính nghệ thuật trong giá trị và hình thức của sản phẩm cũng phải không ngừng được nâng cao.  Kiến trức nội và ngoại thất : cũng là một trong những giá trị quan trọng của văn hóa kinh doanh vì kiến trúc nội và ngọai thất thường tạo nên những ảnh hưởng lớn đến hành vi con người về phương diện cách thức giao tiếp, phản ứng và thực hiện công việc. Các công trình kiến trúc nội và ngoại thất cũng là một bộ phận hữu cơ quan trọng trong hệ thống các sản phẩm mà chủ thể kinh doanh tạo ra.  Nghi lễ kinh doanh : Nghi lễ kinh doanh là những hoạt động đã được dự kiến từ trước và chuẩn bị kỹ lưỡng, thường được tổ chức dưới hình thức các sự kiện và hoạt động văn hóa – xã hội có tính chất nghiêm trang, chính thức và tình cảm. Nghi lễ kinh doanh thường được thể hiện định kỳ hay bất thường với mục đích thắt chặt các mối quan hệ và vì ích lợi của những người tham dự.  Giai thoại và truyền thuyết : thường được thêu dệt từ những sự kiện có thực được mọi thành viên trong tổ chức cùng chia sẻ và nhắc lại với những thành viên mới. Đó có thể là những mẫu chuyện kể về những nhân vật anh hùng như những mẫu lý tưởng về những chuẩn mực và giá trị chung, hoặc những giai thoại do những sự kiện đã mang tính lịch sử và được thêu dệt thêm, hoặc những huyền thoại chứa đựng những giá trị và niềm tin của chủ thể kinh doanh và không được chứng minh bằng các bằng chứng thực tế.  Biểu tượng : là một công cụ biểu thị đặc trưng của văn hóa kinh doanh, nó biểu thị niềm tin giá trị mà chủ thể kinh doanh muốn gửi gắm. Các công trình kiến trúc, lễ nghi, giai thoại truyền thuyết, khẩu hiệu, hình thức mẫu mã của sản phẩm, cách bố trí máy móc dây chuyền công nghệ, . . . đều chứa đựng những đặc trưng của biểu tượng, bởi thông qua giá trị vật chất cụ thể, hữu hình, các biểu trưng này đều muốn truyền đạt những giá trị, những ý niệm, những ý nghĩa tiềm ẩn bên trong, xâu xa cho người tiếp nhận theo cách thức khách nhau. (ví dụ : logo)  Ngôn ngữ, khẩu hiệu : Chủ thể kinh doanh có thể lựa chọn một hay nhiều ngôn ngữ khác nhau, nó có thể là ngôn ngữ bản địa hoặc ngôn ngữ quốc tế, là ngôn ngữ chính thống hay ngôn ngữ đời thường. Do vậy, cách thức lực chọn và sử dụng ngôn ngữ trong giao lưu, giao tiếp kinh doanh cũng là khía cạnh biểu trưng quan trọng của văn hóa kinh doanh. Khẩu hiệu là hình thức dễ nhập tâm, ngắn gọn, xúc tích, dễ nhớ và là cách diễn đạt ngắn gọn nhất của triết lý kinh doanh. Khẩu hiệu thường được sử dụng với các ngôn ngữ từ đơn giản nên để hiểu được ý nghĩa tiềm ẩn của chúng, cần liên hệ với bản tuyên bố sứ mệnh của chủ thể kinh doanh.  Ấn phẩm điển hình :Những ấn phẩm điển hình là những tư liệu chính thức có thể giúp những người hữu quan nhận thấy rõ hơn về văn hóa kinh doanh của chủ thể kinh doanh. Chúng có thể bao gồm : Bộ triết lý kinh doanh, các quy tắc, các chuẩn mực đạo đức trong kinh doanh, các tài liệu giới thiệu về đơn vị, sổ tay nhân viên, thẻ nhân viên, . . .
Luận văn liên quan