Tiểu luận Về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong thế kỷ XXI

I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Chủ nghĩa xã hội và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là vấn đề lý luận và thực tiễn rất cơ bản, trọng yếu, liên quan trực tiếp đến đướng lối chính trị của Đảng, phương hướng phát triển của đất nước. Đây là vấn đề trung tâm cốt lõi trong đường lối cách mạng nước ta: nó chi phối toàn bộ các hoạt động chính trị, văn hoá, xã hội đối ngoại, an ninh quốc phòng, xây dựng Đảng của Đảng ta. Tuy nhiên, chủ nghĩa xã hội là gì và Việt Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội bằng cách nào thì qua mỗi chặng đường Cách mạng chung ta mới có được những nhận thức ngày càng sâu sắc, đầy đủ hơn. Trong khuôn khổ tiểu luận này tôi muốn đề cập đến: Con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, một vấn đề trọng tâm xuyên suốt quá trình phát triển của đất nước ta. II. PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN ĐỀ TÀI: Đề tài được nghiên cứu bằng phương pháp lý luận qua các tài liệu triết học và các tài liệu có liên quan. Phương pháp học, chọn lọc và xử lý tài liệu. Phương pháp tổng hợp, đối chiếu và so sánh vấn đề. III. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI. Đề tài nhằm làm sáng tỏ quá trình nhận thức của Đảng về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

doc14 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 11444 | Lượt tải: 8download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong thế kỷ XXI, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. PHẦN MỞ ĐẦU I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Chủ nghĩa xã hội và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là vấn đề lý luận và thực tiễn rất cơ bản, trọng yếu, liên quan trực tiếp đến đướng lối chính trị của Đảng, phương hướng phát triển của đất nước. Đây là vấn đề trung tâm cốt lõi trong đường lối cách mạng nước ta: nó chi phối toàn bộ các hoạt động chính trị, văn hoá, xã hội đối ngoại, an ninh quốc phòng, xây dựng Đảng của Đảng ta. Tuy nhiên, chủ nghĩa xã hội là gì và Việt Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội bằng cách nào thì qua mỗi chặng đường Cách mạng chung ta mới có được những nhận thức ngày càng sâu sắc, đầy đủ hơn. Trong khuôn khổ tiểu luận này tôi muốn đề cập đến: Con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, một vấn đề trọng tâm xuyên suốt quá trình phát triển của đất nước ta. II. PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN ĐỀ TÀI: Đề tài được nghiên cứu bằng phương pháp lý luận qua các tài liệu triết học và các tài liệu có liên quan. Phương pháp học, chọn lọc và xử lý tài liệu. Phương pháp tổng hợp, đối chiếu và so sánh vấn đề. III. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI. Đề tài nhằm làm sáng tỏ quá trình nhận thức của Đảng về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. CẤU TRÚC ĐỀ TÀI PHẦN I. MỞ ĐẦU. + Lý do chọn đề tài. + Phương pháp tiếp cận đề tài. + Ý nghĩa của đề tài PHẦN II. NỘI DUNG I. Quá trình nhận thức về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ 1. Cơ sở lý luận của việc xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua tư bản chủ nghĩa 2. Nhận thức trước đây về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta 3. Nhận thức đổi mới về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ. II. Những quan điểm phương pháp luận xuất phát để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. III. Về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong thế kỷ XXI PHẦN III. KẾT LUẬN. B. PHẦN NỘI DUNG I. QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ 1. Cơ sở lý luận của việc xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chủ nghĩa tư bản. Như chúng ta đã biết, toàn nhân loại thì con đường lịch sử tự nhiên để xây dựng chủ nghĩa xã hội là con đường phát triển tuần tự qua tất cả các giai đoạn của các hình thái kinh tế xã hội đã có. Do coi chủ nghĩa tư bản thể kỷ XIX đang đạt tới đỉnh cao của sự phát triển của no nên C. Mác hy vọng từ các nước tây âu sẽ đồng loạt ra đời. Theo Mác, sự thay đổi một hình thành kinh tế xã hội nay bằng một hình thái kinh tế xã hội khác thường được thực hiện thông qua Cách mạng xã hội. Nguyên nhân sau xa của cuộc Cách mạng đó là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, khi quan hệ sản xuất trở thành xiềng xích của lực lượng sản xuất. Trong những thời kỳ Cách mạng, khi cơ sở kinh tế thay đổi thì sớm hay muộn toàn bộ kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng phải thay đổi theo. Và từ đó các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác – Lênin đi đến kết luận: Hình thái kinh tế xã hội chủ nghĩa tư bản chủ nghĩa nhất định sẽ được thay thế bằng hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa và sự thay thế này là một quá trình lịch sử tự nhiên. Như vậy, nếu xem xét ở phạm vi lịch sử toàn nhân loại thì lịch sử xã hội loài ngừơi đã phát triển qua một số hình thái kinh tế xã hội nhất định. Song do đặc điểm lịch sử, về không gian, thời gian không phải quốc gia nào cũng phải trảo qua tất cả các hình thái kinh tế xã hội. Thực tế lịch sử chứng tỏ có nhiều quốc gia trong những điều kiện thực tế lịch sử nhất định đã phát triển tuần tự qua các hình thái kinh tế xã hội, đồng thời một số quốc gia khác lại phát triển qua con đường bỏ qua một vài hình thái kinh tế nào đó. Chính là dựa vào những thực tế lịch sử như vậy, C. Mác đã nêu lên những tư tưởng về khả năng “phát triển rút ngắn”, trong những điều kiện lịch sử nhất định Mác – Lênin đã nêu lên khả năng “Không phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” để tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội đối với nước lạc hậu. Ông chỉ ra rằng trong những điều kiện nhất định, con đường phát triển của các dân tộc tiền tư bản xã hội chủ nghĩa nhất thiết phải trải qua các tuần tự lịch sử sinh thành và phát triển của xã hội chủ nghĩa tư bản mà các nước tư bản đã từng trải qua. Quy luật kế thừa của lịch sử loài người luôn cho phép cộng đồng nào đó trong những điều kiện lịch sử, do tác động với các nhân tố, các mâu thuẫn bên trong và bên ngoài, có thể bỏ qua giai đoạn phát triển nhất định để vươn tới trình độ tiến của nhân loại. Trong lịch sử thường xuyên xuất hiện những trung tâm phát triển cao hơn về sản xuất vật chất, về kỹ thuật, về văn hoá, chính trị, sự giao lưu, hợp tác với các trung tâm đó và những nhân tố khác làm xuất hiện khả năng một số nước đi sau có thể rút ngắn tiến trình lịch sử mà không phải lặp lại tuần tự các quá trình đã qua của lịch sử nhân loại. Trong thời đại ngày nay, chủ trương phát triển rút ngắn để xây dựng xã hội ở một số các quốc gia tiền tư bản chủ nghĩa chẳng những không mâu thuẫn với tinh thần của sự phát triển mang tính lịch sử tự nhiên, mà còn là biểu hiện sinh động của quá trình lịch sử tự nhiên ấy. Chỉ khi người ta “rút ngắn” một cách duy ý chí, bất cháp quy luật thì lúc đó sự phát triển rút ngắn mới trở nên đối lập với quan trình lịch sử tự nhiên. Vì vây, quá trình lịch sử tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những diễn ra bằng con đường phát triển tuần tự mà còn bao hàm cả sự bỏ ra trong những điều kiện lịch sử nhất định, một hoặc một vài hình thái kinh tế xã hội nhất định. 2. Nhận thức trước đây về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trên con đường đi tới chủ nghĩa xã hội, Việt Nam là một quốc gia chưa từng trải của hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa, tuy vậy chúng ta có thể “rút ngắn” hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy vậy trước đây con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta còn máy móc, mang tính áp đặt. Chúng ta vẫn đang còn những quan niệm chưa chính xác về những vấn đề chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa tư bản. + Chúng ta đã đối lập tuỵêt đối giữa chủ nghĩa tư bản với chủ nghĩa xã hội. Ta luôn cho rằng cái gì của chủ nghĩa tư bản cũng đều là kf tốt là xấu, còn cái gì của chủ nghĩa xã hội cũng là tốt đẹp, là hoàn mỹ. Như vật chúng ta đã xem xét vấn đề mang tính chủ quan, duy ý chí. Chúng ta đã được nhận thức được rằng sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội từ cộng sản nguyên thủy đến nô lê đến phong kiến, đến chủ nghĩa tư bản cũng là một nấc thang phát triển cuả nhân loại. Những thành đạt được của chủ nghĩa tư bản không chỉ của giai cấp tư sản mà còn của nhân loại tiến bộ. + Chúng ta đã tuyệt đối hoá vai trò chủ nghĩa chủ quan của Đảng, của chính quyền. Ta cứ cho rằng có liên minh công nông là có tất cả có chính quyền tiên tiến cho nên chúng ta đã đưa quan hệ sảng xuất đi trước một bước để mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Với những quan niệm như vậy cho nên trong thời kỳ bao cấp chúng ta đã thực hiện sự thay đổi về thể chế chính trị, thực hiện những yếu tố của chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên chúng ta đã chưa chú ý đến tính chất và trình độ lực lượng sản xuất. Một số lý do nữa là do đất nước vừa thoát khỏi chiến tranh nên ta nôn nóng đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, từ đó dẫn đến những sai lầm nghiêm trọng. Những sai lầm này lại dẫn đến những sai lầm khác. 3. Nhận thức đổi mới về chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ. “Chủ nghĩa cộng sản không phải là một trạng thái cần phải sáng tạo ra, không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải khuôn theo. Chúng ta gọi chủ nghĩa cộng sản là một phong trào hiện thực, nó xoá bỏ trạng thái hiện nay. Những điều kiện của phong trào ấy là kết quả của những tiền đề hiện đang tồn tại”. Dựa vào sự phân tích trực tiếp những mâu thuẫn của xã hội tư sản tring giai đoạn đầu phát triển của nó dựa vào triển vọng của phong trào công nhân Mác và Angghen đã đưa ra dự đoán về sự phát triển của xã hội loài người tròn tương lai, tất yếu phải tiến đến hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa, mà chủ nghĩa xã hội là giai đoạn thấp của hình thái ấy. Tất nhiên, dự đoán khoa học của các ông mới chỉ cho phép phác họadx những đường nét chủ yếu về xã hội tương lai ấy. Lênin cũng chỉ rõ: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn với bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu với cuộc sống” Đáng tiếc là trong nhiều năm qua, đối với chúng ta, lý luận về chủ nghĩa xã hội không những không được bổ sugn, phát triển cho phù hợp với sự biến đổi của thực tiễn, mà lại được giải thích một cách máy móc, giáo điều và được áp dụng một cách rập khuôn làm cho chủ nghĩa xã hội hiện thực ở nhiều nước bị biến dạng, dẫn đến khủng hoảng và tan rã. Hậu quả đó do nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chủ yếu là do chúng ta mắc phải những sai lầm chủ quan, duy ý chí, không tôn trọng các quy luật khách quan. Thực tiễn cuộc sống đó đòi hỏi chúng ta phải nhận thức lại chủ nghĩa xã hội, tiến hành đổi mới một cách toàn diện, sâu sắc cả lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa xã hội. Lịch sử đã chứng minh, không phải bất kỳ nước nào cũng phải tuần tự trải qua các hình thái kinh tế xã hội đã từng có trong lịch sử. Việc bỏ qua một hình thái kinh tế xã hội nào đó những yếu tố bên trong quyết định, song đồng thời còn tuỳ thuộc ở sự tôn trọng của từng nhân tố ở bên ngoài. Cuộc Cách mạng khoa học và công nghiệp đang tạo ra bước ngoặt phát triển của loài người, đánh dấu đỉnh cao mới của sự phát triển trí tuệ, mở ra một nền văn minh mới, tác động sâu sắc đối với cuộc sống của dân tộc, tqạo ra cho các nước chậm phát triển thời kỳ mới nhưng cũng có nhiều thách thức mới trên con đường lựa chọn sự phát triển của mình. Ở nước ta cũng đã có những tiền đề và điều kiện chung cho chúng ta lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa, két hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhanh chóng thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, làm cho đất nước ngày càng phồn vinh. Đảng ta đã chỉ rõ: “Nước ta quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế dộ tư bản, từ một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến,m lực lượng sản xuất rất thấp”. Đặc điểm này, xét về tính chất và trình độ, biểu hiện ở hai đặc trưng cơ bản: một là, lực lượng sản xuất rất thấp quy định tính tất yếu kinh tế - xã hội của xã hội ta chưa đầy đủ, chưa chín muồi trong sự phát triển tự nhiên, nội tại của nó; hai là, tồn đọng nhiều tàn dư quan hệ xã hội, ý thức tư tưởng, tâm lý do chế độ thực dân, phong kiến cũ để lại. Đó là những khó khăn, trở ngại trong bước chuyển tiếp lịch sử từ một xã hội kém phát triển sang một xã hội hiện đại phù hợp với những chuẩn mực và giá trị của nền văn minh nhân loại và của tiến bộ xã hội. Điều cần đặc biệt chú ý là, có thể bỏ qua chế độ ta bản, quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhưng không thể bỏ qua việc chuẩn bị những tiền đề cần thiết, nhất là tiền tệ cho sự quá độ ấy. Nói cách khác, có thể bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa nhưng phải tiến hành cho sự bỏ qua này không hề vi phạm đến tiến trình lịch sử tự nhiên của sự phát triển. Do đó, cần có sự phát triển nhất định nhân tố tư bản chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ là một yêu câu khách quan. Và như vậy chúng ta chỉ bỏ qua chế độ chính trị tư bản chứ không bỏ qua chế độ kinh tế, động lực cơ bản tạo ra những tiền đề vật chất của việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Dựa vào phạm trù hình thái kinh tế xã hội của Mác trên cơ sở thực tiễn của Việt Nam. Đảng ta đã đề ra chiến lược Cách mạng đúng đắn để đưa nước ta định hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh. Đảng xác định hiện nay đất nước chúng ta đang ở cuối thời kỳ cuối phong kiến, đầu tư bản. Để xây dựng chủ nghĩa xã hội chúng ta phải chúng ta phải trải qua một thời kỳ gọi là thời kỳ quá độ . Đây là thời kỳ chuyển tiếp về mặt thời gian, về mặt kết cấu. Sự chuyển tiếp này đan xen giữa cái cũ và cái mới. Chúng cùng tồn tại và mâu thuẫn nhau sẵn sàng tiêu diệt nhau. Do đó chúng ta phải có sự tác động, điều chỉnh để những yếu tố tích cực phát triển, những cái cũ không phù hợp dần bị mất đi. II. NHỮNG QUAN ĐIỂM PHƯƠNG PHÁP LUẬN XUẤT PHÁT ĐỂ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA. + Coi trọng vai trò bản chất của nhà nước, thể hiện đầy đủ quyền lực và nguyện vọng của nhân dân. Thiết bị nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền lực nhân dân được khẳng định và được thực hiện bằng pháp luật mang tính công khai, bình đẳng dân chủ và tiến bộ. + Thực hiện những biến đổi mang tính cách mạng trên cả ba lĩnh vực: Phải ra sức phát triển lực lượng sản xuất là nhiệm vụ trung tâm hàng đầu tạo tiền đề kinh tế vững chắc cho sự ra đời của phương thức sản xuất chủ nghĩa xã hội. Phát triển lực lượng sản xuất trong điều kiện cuộc Cách mạng khoa học công nghệ đang diễn ra dồn dập, mạnh mẽ đòi hỏi chúng ta phải có quan niệm mới về công nghiệp hoá, không phải là ưu tiên xây dựng cơ sở vật chất với những ngành công nghiệp truyền thống theo kiểu công nghiệp hoá cổ điể mà là lựa chọn những nghành công nghệ thích hợp, xây dựng kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật, hệ thống thông tin, tạo tiềm năng nhanh chóng ứng dụng những công nghệ mới. Giải phóng và khai thác nhanh mọi lực lượng sản xuất, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phong phú đa dạng. Tạo ra nguồn sản phẩm và nguồn tích luỷ. + Phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao và sự đa dạng về hình thức sỡ hữu. Chế độ công hữu phải là kết quả hợp quy luật của quá trình xã hội hoá thực sự chứ không thể tạo ra bằng biện pháp hành chính. Chuyển từ quan hệ hiện vật sang quan hệ hàng hoá - tiền tệ, trở lại đúng quy luật phát triển tự nhiên của kinh tế, thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế làm chủ yếu. Ngoài ra chúng ta còn phải tiến hành cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hoá. Nhân tố con người phải vừa là mục tiêu vừa động lực để xây dựng một xã hội văn minh. Giải phóng cá nhân để giải phóng xã hội. Những nguyên tắc phương pháp luận này là tổng hợp những quan điểm cơ bản nhằm xây dựng mô hình chủ nghĩa xã hội ở nước ta. III. VỀ CON ĐƯỜNG XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA TRONG THẾ KỶ XXI Tại Đại hội Đại biểu lần thứ IX của Đảng đã dự báo “thế kỷ XXI sẽ tiếp tục có nhiều biến đổi”. Khoa học và công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt. Đặc biệt là trong những lĩnh vực: điển tử tin học, sinh học, vật liệu mới, năng lượng, nghiên cứu vụ trụ. Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Đặc biệt vấn đề toàn cầu hoá kinh tế đang là một vấn đề được quan tâm. Đúng như Mác và Angghen đã dự báo từ thế kỷ trước khi phân tích sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất sẽ dẫn đến quốc tế hoá sản xuất thương mại. Cho nên nó là xu thế khách quan do lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng. Trước những đánh giá như trên Đảng ta đã xác định con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước kinh tế kém phát triển như nước ta là quá trình phấn đấu đầy khó khăn, gian khổ, chưa có tiền lệ trong lịch sử, có những khuyến điểm và sai lầm là điều khó tránh khỏi. Cần phải thừa nhận và tìm cách để khắc phục, sửa chữa những khuyết điểm sai lầm ấy. Nhưng cần khẳng định rằng những khiếm điểm, sai lầm ấy không thuộc về bản chất của chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội do nhân dân lao động làm chủ có nền kinh tế phát triển cao dựa lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu, có nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động có cuộc sống ấm no hạnh phúc. Đảng cũng chỉ rõ, chúng ta đang ở trong thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Điều đó thể hiện sự đánh giá đúng đắn và sự sáng suốt của Đảng ta. Nước ta đang còn nghèo, lực lượng sản xuất kém phát triển, nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế là rất lớn, cho nên phải tập trung phát triển lực lượng sản xuất, phát huy sức mạnh của tất cả các thành phần kinh tế. Báo cáo chính trị Đại hội IX chỉ rõ “Con đường di lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất xây dựng nền kinh tế hiện đại”. Đồng thời phải từng bước xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp thưeo định hướng xã hội chủ nghĩa Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi vật chất của xã hội trên tất các lĩnh vực là một sự nghiệp khó khăn và lâu dài cho nên tất yếu phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài, với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội. C. PHẦN KẾT LUẬN Như vậy ta có thể khẳng định rằng, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội là một việc hoàn toàn có thể thực hiện được đối với một việc vừa kết thúc cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc như đất nước ta. Đồng thời sự phát triển này không nằm ngoài tiến trình lịch sử, không đi ngược với qu luật phát triển xã hội. Chúng ta không tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội một cách trực tiếp mà phải trải qua một thời kỳ gọi là thời kỳ quá độ. Đó là con đường tất yếu mà chúng ta phải đi qua nhằm tạo ra những tiền đề vật chất cho chủ nghĩa xã hội, một xã hội tốt đẹp mà dân tộc ta đang hướng tới. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Triết học, tập 2 – 3 (dùng cho nghiên cứu sinh và học không thuộc chuyên ngành triết học) – NXB Chính trị Quốc gia 2. Giáo trình triết học Mác – Lênin 3. Tài liệu nghiên cứu văn kiện Đại hội IX của Đảng – NXB Chính trị Quốc gia. 4. Hỏi đáp về Triết học học Mác – Lênin – NXB Chính trị Quốc gia 5. Đề cương bài giảng triết học – TS. Đoàn Đức Hiếu & TS. Nguyễn Tiến Dũng.
Luận văn liên quan