Từ khi Việt Nam ra nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO từ cách đây hơn 2 năm, nền kinh tế nước ta chủ động hội nhập sâu hơn và toàn diện hơn vào nền kinh tế thế giới đang có những biến đổi nhanh và sâu sắc. Các doanh nghiệp Việt Nam đứng trước những cơ hội to lớn trong hợp tác kinh doanh với nước ngoài. Vài năm trở lại đây, thị trường bán lẻ Việt Nam chứng kiến sự phát triển rất mạnh của các siêu thị đồ gia dụng và thực phẩm với quy mô lớn, thay thế dần cho các cửa hàng bán đồ nhỏ lẻ. Theo cam kết WTO, từ ngày 1/1/2009, mọi hạn ngạch đối với các công ty phân phối và bán lẻ 100% vốn nước ngoài sẽ được dỡ bỏ. Từ mốc thời gian này, thị trường bán lẻ Việt Nam chính thức được tự do phát triển cả về quy mô lẫn phương thức hoạt động. Trong bối cảnh ấy, khả năng xuất hiện những “đại gia” về bán lẻ đổ bộ sâu sắc vào thị trường trong nước là rất lớn. Điều ấy sẽ giúp thị trường phong phú hơn, chuyên nghiệp hơn và người tiêu dùng có thêm nhiều cơ hội lựa chọn. Tập đoàn bán lẻ lớn nhất nước Mỹ Wal-Mart là một trong số đó. Vậy con tàu bán lẻ Việt Nam có thực sự sẵn sàng để đón nhận luồng gió mới này, và có chuẩn bị tốt cho cơ hội phát triển hết sức khổng lồ này không?
Nhận thấy tầm quan trọng của vấn đề này, nhóm chúng tôi đã quyết định lựa chọn đề tài: “Việt Nam trước hiệu ứng Wal-Mart”. Hy vọng bài thuyết trình của chúng tôi sẽ cung cấp cho các bạn những thông tin quan trọng nhất về thị trường bán lẻ Việt Nam cũng như tập đoàn bán lẻ Wal-Mart, trên cơ sở đó xây dựng một nền tảng, giúp các bạn hình dung sâu hơn về những hiệu ứng mà Wal-Mart có thể gây ra cho thị trường bán lẻ Việt Nam.
21 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2872 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Việt Nam và hiệu ứng Wal-Mart, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ TÀI: VIỆT NAM VÀ HIỆU ỨNG WAL-MART
MỤC LỤC:
Chương I: Tổng quan về thị trường bán lẻ Việt Nam
1. Sức hấp dẫn của thị trường bán lẻ Việt Nam
2. Thực trạng phát triển của thị trường bán lẻ nước ta hiện nay
3. Ưu điểm của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam
4. Nhược điểm của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam
Chương II: Wal-Mart và Hiệu ứng Wal-Mart
1.Giới thiệu về chung về Wal-Mart
2.Hiệu ứng Wal-Mart
Chương III: Ảnh hưởng của Hiệu ứng Wal-mart đối với nền kinh tế Việt Nam:
1. Tác động củaHiệu ứng Walmart đối với thị trường bán lẻ Việt Nam:
1.1: Walmart làm thay đổi thói quen tiêu dùng của khách hàng :
1.2: Walmart tác động mạnh đến các doang nghiệp bán lẻ trong nước:
2. Tác động của hiệu ứng Walmart đối với toàn bộ nền kinh tế Việt Nam:
2.1:Những tác động cơ bản đối với nền kinh tế:
2.2: Hiệu Ứng Wal-mart trong vai trò định hướng nền kinh tế:
2.3:Vấn đề năng suất và lạm phát:
LỜI MỞ ĐẦU
Từ khi Việt Nam ra nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO từ cách đây hơn 2 năm, nền kinh tế nước ta chủ động hội nhập sâu hơn và toàn diện hơn vào nền kinh tế thế giới đang có những biến đổi nhanh và sâu sắc. Các doanh nghiệp Việt Nam đứng trước những cơ hội to lớn trong hợp tác kinh doanh với nước ngoài. Vài năm trở lại đây, thị trường bán lẻ Việt Nam chứng kiến sự phát triển rất mạnh của các siêu thị đồ gia dụng và thực phẩm với quy mô lớn, thay thế dần cho các cửa hàng bán đồ nhỏ lẻ. Theo cam kết WTO, từ ngày 1/1/2009, mọi hạn ngạch đối với các công ty phân phối và bán lẻ 100% vốn nước ngoài sẽ được dỡ bỏ. Từ mốc thời gian này, thị trường bán lẻ Việt Nam chính thức được tự do phát triển cả về quy mô lẫn phương thức hoạt động. Trong bối cảnh ấy, khả năng xuất hiện những “đại gia” về bán lẻ đổ bộ sâu sắc vào thị trường trong nước là rất lớn. Điều ấy sẽ giúp thị trường phong phú hơn, chuyên nghiệp hơn và người tiêu dùng có thêm nhiều cơ hội lựa chọn. Tập đoàn bán lẻ lớn nhất nước Mỹ Wal-Mart là một trong số đó. Vậy con tàu bán lẻ Việt Nam có thực sự sẵn sàng để đón nhận luồng gió mới này, và có chuẩn bị tốt cho cơ hội phát triển hết sức khổng lồ này không?
Nhận thấy tầm quan trọng của vấn đề này, nhóm chúng tôi đã quyết định lựa chọn đề tài: “Việt Nam trước hiệu ứng Wal-Mart”. Hy vọng bài thuyết trình của chúng tôi sẽ cung cấp cho các bạn những thông tin quan trọng nhất về thị trường bán lẻ Việt Nam cũng như tập đoàn bán lẻ Wal-Mart, trên cơ sở đó xây dựng một nền tảng, giúp các bạn hình dung sâu hơn về những hiệu ứng mà Wal-Mart có thể gây ra cho thị trường bán lẻ Việt Nam.
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG BÁN LẺ VIỆT NAM
1. Sức hấp dẫn của thị trường bán lẻ Việt Nam
Thị trường bán lẻ Việt Nam tuy quy mô còn nhỏ, song vẫn rất hấp dẫn đối với các nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài bởi áp lực cạnh tranh chưa lớn, trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt trên dưới 8%. Nền kinh tế của Việt Nam có tốc độ tăng trưởng liên tục cao, ổn định chính trị. Bên cạnh đó người tiêu dùng Việt Nam thuộc hàng trẻ nhất ở Châu Á và mức chi tiêu ngày càng tăng. Tiến sỹ Matthias Duehn – Giám đốc EuroCham Hà Nội khẳng định: “Năm 2010 là năm có rất nhiều triển vọng với thị trường bán lẻ Việt Nam, thể hiện qua việc Việt Nam ngày càng trở thành một điểm kinh doanh hấp dẫn tại châu Á với tốc độ tăng trưởng kinh tế bền vững và nhu cầu tiêu dùng ổn định trong thời gian dài”. Thật vậy, sức hấp dẫn của thị trường bán lẻ Việt Nam ngày càng tăng nhanh trong những năm gần đây. Trong năm 2007, chỉ số phát triển kinh doanh bán lẻ của Việt Nam xếp thứ 2 thế giới, sau Ấn Độ, và đến tháng 6 năm 2008 thì Việt Nam đã vượt lên chiếm ngôi thứ nhất (theo xếp hạng của Công ty tư vấn Mỹ A.T.Keaney về chỉ số phát triển kinh doanh bán lẻ toàn cầu). Như vậy, thị trường bán lẻ nước ta “qua mặt” cả ba “người khổng lồ” Ấn Độ, Nga và Trung Quốc để chiếm “ngôi hậu” trong “làng bán lẻ” thế giới. Năm 2009, doanh số vẫn tiếp tục tăng gần 20% so với cùng kỳ năm ngoái, trong bối cảnh bị ảnh hưởng bởi suy thoái kinh tế. Chính nhờ có sự phát triển mạnh mẽ này mà ngành dịch vụ bán lẻ đóng góp cho GDP 15%/năm và tạo ra việc làm cho 5,4 triệu lao động, tương đương với khả năng tạo việc làm của ngành công nghiệp thu hút nhiều lao động của Việt Nam - công nghiệp chế biến. Đây thực sự là cơ hội tốt để các doanh nghiệp dự báo được về triển vọng thị trường bán lẻ, qua đó xây dựng chính sách phù hợp trong việc phát triển doanh nghiệp của mình.
2. Thực trạng phát triển của thị trường bán lẻ nước ta hiện nay
Yếu tố truyền thống và bền vững nhất cho sự phát triển của thị trường bán lẻ Việt Nam chính là sự đóng góp ngày càng lớn của những nhà bán lẻ tên tuổi, như: Sai Gon Co.op, Maxi Mart, Citi Mart, G7 Mart, Vissan…Họ đang ngày càng hoàn thiện, nâng cao chất lượng, đa dạng hóa các loại hình bán lẻ của mình. Đại diện của Tổng công ty Thương mại Hà Nội (Hapro) cho biết mục tiêu đến năm 2015, Hapro sẽ trở thành một trong những thương hiệu bán lẻ hàng đầu Việt Nam với hệ thống 2 đại siêu thị, 5 trung tâm thương mại, 60 siêu thị, 30 cửa hàng tiện ích mang thương hiệu HaproMart, 213 cửa hàng, điểm kinh doanh rau và thực phẩm an toàn HaproFood, 300 cửa hàng chuyên doanh và 1 hệ thống tổng kho, kho hàng hóa, dịch vụ hậu cần logistics…
Bên cạnh đó, nhiều công ty đa quốc gia cũng đang tăng cường mở rộng hệ thống phân phối và chuỗi cửa hàng riêng của mình như: Unilever, Procter & Gamble, Johnson & Johnson, Coca Cola, Adidas, Nestlé, KFC, Lotteria... với hàng loạt các nhãn hiệu đang đi sâu vào thói quen tiêu dùng của người Việt.
Sự phát triển mạnh mẽ của thị trường bán lẻ Việt Nam trong những năm gần đây còn có sự đóng góp không nhỏ của nhà phân phối bán lẻ quốc tế, như South Asia Investments Pte (Singapore), hệ thống siêu thị Big C (Pháp), Metro Cash & Carry (Đức), Zen Plaza (Nhật Bản), Diamond Plaza (Hàn Quốc), Parkson (Tập đoàn Lion, Malaysia),... Các tập đoàn này không chỉ tập trung tại các thành phố có sức mua lớn như TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội mà còn mở rộng phạm vi hoạt động đến các tỉnh thành tại miền Trung, miền Nam. Nhận định về sự xâm nhập của các thương hiệu bán lẻ nước ngoài vào Việt Nam, ông Richard Leech, Giám đốc Công ty CB Richard Ellis Việt Nam cho biết, mặc dù bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng kinh tế toàn cầu song năm vừa qua thị trường bán lẻ Việt Nam vẫn xuất hiện nhiều thương hiệu quốc tế mới như Naf Naf, Morgan de Toi, Mexx, Aldo, Hard Rock Café, Debenhams. Điều này cho thấy chắc chắn trong năm 2010 sẽ có thêm nhiều nhà bán lẻ cao cấp nước ngoài tham gia vào thị trường bán lẻ Việt Nam.
3. Ưu điểm của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam
Trước tiên phải kể đến sự thành lập của hiệp hội các nhà bán lẻ Việt Nam (AVR) vào ngày 5/10/2007, với hơn 130 doanh nghiệp tham gia. Hiệp hội đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ và nâng cao năng lực cho các nhà bán lẻ Việt Nam, từng bước hình thành hệ thống bán lẻ Việt Nam với quy mô lớn và tính chuyên nghiệp cao; tham gia xây dựng cơ chế chính sách, quy hoạch phát triển loại hình kinh tế bán lẻ. Sự ra đời của AVR là cầu nối để kết nối các doanh nghiệp, tập trung nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bán lẻ và là kênh thông tin hữu ích để trao đổi giúp các doanh nghiệp tận dụng những cơ hội và vượt qua mọi thách thức.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam nhận được ưu đãi về chính sách của Nhà nước. Chính phủ bảo vệ các doanh nghiệp trong nước bằng những chính sách mà WTO cho phép như: đào tạo nguồn nhân lực; tìm tòi những công nghệ mới; thiết lập hệ thống phân phối hiện đại...
Bằng sự nhanh nhạy, linh hoạt và khả năng nắm bắt các yếu tố thay đổi của thị trường, các nhà bán lẻ trong nước đang có được những lợi thế nhất định. Lợi thế của các nhà bán lẻ là người Việt Nam có phong trào người Việt ưu tiên dùng hàng Việt, nhu cầu tiêu dùng Việt Nam ngày càng cao và đa dạng, người tiêu dùng Việt Nam tiếp cận với cách bán hàng qua Internet, TV shopping, qua di động ngày càng nhiều hơn…Trong tương lai, thị trường bán lẻ của Việt Nam sẽ sẵn sàng mở cửa cho hội nhập và cạnh tranh bình đẳng đa dạng.
4. Nhược điểm của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam
Nhận định về thị trường bán lẻ tại Việt Nam, Tiến sỹ Đinh Thị Mỹ Loan – Phó chủ tịch thường trực, Tổng thư ký Hiệp hội các nhà bán lẻ Việt Nam cho biết: “Thị trường bán lẻ Việt Nam vẫn có nhiều khó khăn và thách thức như tăng trưởng về số lượng nhưng chưa bền vững về chất lượng; tính chuyên nghiệp, nguồn nhân lực và kinh nghiệm quản lý còn yếu; cơ sở hạ tầng để phát triển ngành bán lẻ chưa nhiều” Bên cạnh đó, chúng ta còn gặp những rào cản khác về vốn, văn hóa phục vụ, công nghệ bán hàng, năng suất lao động, chưa xây dựng được thương hiệu mạnh... Trong đó 2 điểm yếu nhất của doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam chính là khả năng tài chính và phương thức quản lý.
Ngoài ra còn xuất hiện nhiều bất cập từ phía các cơ quan quản lý Nhà nước như chưa kiểm soát tốt vấn đề buôn lậu, hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng và chính sách thuế chưa công bằng. Trong thực tế, những vi phạm Luật Cạnh tranh vẫn xảy ra thường xuyên.
CHƯƠNG II: WAL-MART VÀ HIỆU ỨNG WAL-MART
1. Giới thiệu về chung về Wal-Mart:
Theo tạp chí Fortune (Mỹ), WalMart được mệnh danh là “nhà bán lẻ hàng hóa được ưa chuộng nhất”. Với tổng thu nhập trên toàn thế giới là 256 tỉ USD, WalMart được thành lập với cửa hàng đầu tiên ở Rogers, bang Arkansas (Mỹ) vào năm 1962. người sáng lập WalMart, Sam Walton
Ngày 31-10-1969, WalMart chính thức trở thành tập đoàn và mang tên WalMart Stores Inc. Tính đến năm 2005, WalMart có tất cả 1.300.000 công nhân viên trên toàn thế giới, trở thành tập đoàn tư nhân đông nhân viên nhất thế giới. Phương châm xuyên suốt của WalMart là quy tắc “người bán hàng vui vẻ” được mọi nhân viên của tập đoàn WalMart áp dụng. Nhờ đó, bất kỳ khách hàng nào bước vào cửa hàng cũng nhận được nụ cười tươi tắn từ các nhân viên và sự giúp đỡ lúc cần thiết.
2. Hiệu ứng Wal-Mart:
Wal-mart không chỉ là một cửa hàng, một công ty khổng lồ, hoặc một hiện tượng đơn thuần. Wal-mart sắp đặt nơi mà chúng ta mua sắm, những mặt hàng được mua, và mức giá mà chúng ta trả. Wal-mart "thâm nhập" vào bên trong hoạt động của các nhà cung cấp và thay đổi không chỉ mặt hàng sản xuất, cách bao gói, phương pháp giới thiệu sản phẩm, mà cả đời sống của công nhân nhà máy. Wal-mart đã vươn tới mọi ngõ ngách của thế giới, định hình lại công việc và đời sống của người sản xuất đồ chơi ở Trung Quốc, người nuôi cá hồi ở Chile, và của những người công nhân may ở Bangladesh. Trong khi đó, thậm chí họ còn chưa bao giờ đặt chân đến một cửa hàng Wal-mart trong đời.
Wal-mart đã thay đổi cả cách chúng ta nghĩ với địa vị là những người tiêu dùng. Wal-mart đã thay đổi cảm giác của chúng ta về chất lượng, và thế nào là một món hàng được giá. Những thứ hàng hóa giá rẻ của Wal-mart liên tục lập trình kì vọng của chúng ta về mức giá hợp lí của tất cả các mặt hàng - từ quần áo cho đến đồ đạc rồi thịt cá. Wal-mart đã tác động và làm thay đổi chiếc thấu kinh chúng ta đang dùng để quan sát thế giới.
Khi nhìn vào Wal-Mart, trước tiên đó là một thiên đường mua sắm của người tiêu dùng. Ở đây, khách hàng có đủ lựa chọn, từ hàng hóa bình dân đến cao cấp, và đặc biệt là với giá luôn thấp hơn ở nhiều nơi khác. +) Wal-Mart luôn biết cách khiến các nhà cung cấp phải bán hàng với giá rẻ nhất. +)Các nhà cung cấp của Wal-Mart chỉ có hai lựa chọn: chấp nhận giá Wal-Mart đưa ra, dù chỉ được lãi rất ít, hoặc không nhận được đơn đặt hàng. +)Nhiều hãng đã phải phá sản khi muốn đi ngược mong muốn của Wal-Mart, trong đó nổi tiếng nhất có thể kể tới câu chuyện hũ dưa muối một galong giá 2,97USD của Vlasic.
Phân tích hiệu ứng của Wal-Mart trên những thị trường nó xâm nhập
Sau 45 năm, kể từ khi thành lập tới nay, Wal-Mart đã trở thành một đế chế hùng mạnh với mạng lưới cửa hàng trên toàn thế giới.
Ở Mỹ, Wal-Mart có tổng cộng1,4 triệu nhân viên làm việc tại khoảng 4.000 chi nhánh. Doanh thu của Wal-Mart trong một năm bằng GDP của cả Hồng Kông và Malaysia cộng lại. Năm ngoái, lượng hàng hoá Wal-Mart nhập khẩu từ Trung Quốc có tổng trị giá lên tới 27 tỷ USD, bằng tổng xuất khẩu của Trung Quốc sang Singapore. Tại Trung Quốc, Wal-Mart có 192 siêu thị tại 34 thành phố. Tại Nhật Bản, Wal-Mart kiểm soát 394 siêu thị Seyu.
Để có thể hiểu sâu hơn về sức mạnh cũng như điểm yếu của gã khổng lồ Walmart, ta có thể xem xét những hoạt động của nó trên 2 thị trường Canada va Hàn quốc.
Đầu tiên là Canada:
Wal-Mart xâm nhập thị trường Canada vào năm 1994 bằng việc mua lại các cửa hàng Woolco( Woolco được thành lập năm 1962 tại thành phố Columbus bởi Woolworth Company. Đó là một chuỗi cửa hàng giảm giá. Trong khi các Woolco đóng cửa ở Mỹ năm 1982 thì ở Canada chung vẫn tiếp tuc hoạt đông cho tới khi được bán cho Walmart 1994
Sau khi mua lại Woolco, ngay lập tức Walmart đã tiến hành một quá trình đổi mới bằng việc nâng cấp công nghệ, đồng thời cung cấp các nhãn hiệu độc quyền. Ngoài ra, còn tiến hành việc đánh giá và đào tạo lại hơn 1500 nhân viên của Woolco. Walmart còn giới thiệu chương trinh “giá rẻ mỗi ngày” (EDLP) , giảm giá từ 10-15% so với các đối thủ cạnh tranh của nó. Nhưng thay đổi này đã giúp giảm đáng kể lượng hang tồn kho cũng như chi phí cho quảng cáo sản phẩm. Và kết quả là các cửa hang của Wal mart đã tăng gấp đôi thị phần của mình từ 15.4% năm 1994 lên 30.1% trước năm 1998. Trong 5 năm , trong khi con số các cửa hàng chỉ tăng từ 123 đến 153 thì doanh số bán hàng đã tăng lên gấp 3lần. Nói cách khác, công suất của mỗi cửa hàng tăng lên một cách ấn tượng. Và không có gì khó hiểu khi ngày nay Walmart trở thành nhà bán lẻ lớn nhất ở Canada.
Chúng ta có thể thấy sức mạnh cua Walmart bảng sau, từ năm 1994-1998, 4 năm sau khi Walmart vao Canada.
Năm
Estimate Sales
( US bn)
Store
Sales per Store
(US mil)
1994
1,24
123
10,1
1995
1,59
131
12,1
1996
2,04
136
15,0
1997
2,76
144
19,2
1998
3,66
153
23,9
Sources: Discount Store News, Management Ventures, Analyst Reports
DEPARTMENT STORE MARKET SHARE IN CANADA
1994
1998
Change: 1994-1998
Zeller's (Hudson's Bay )
24,4
27,7
3,3
S e a r s
19,2
19,4
0,2
The Bay
17,3
15,6
-1,7
Wa l - M a r t
15,4
30,1
14,7
E a t o n ' s
14,3
7,0
-7,3
Có thể nói, việc Walmart vào Canada đã tạo nên một hiệu ứng rất lớn tác động đến các nhà bán lẻ Canada. Điều này buộc họ phải thay đổi để tồn tại và cạnh tranh được bằng cách nâng cấp hệ thống, thương hiệu, đổi mới các cửa hàng va cải thiện dịch vụ khách hàng. Tuy nhiên, trong khi một số nhà bán lẻ sống sót va tiếp tục phát triển thi một số khác nhận ra rằng họ không thể thay đổi hay đơn giản la thay đổi không thê giúp đươc họ.
Nhưng hãy xem Walmart làm được gì ở thị trường Hàn Quốc.
Sau 8 năm thâm nhập thị trường Hàn Quốc, Wal-Mart mới chỉ chiếm được 4% thị phần, xếp thứ 5 sau Shinsegae với 30% thị phần, Tesco với 17% thị phần, Lotte Shopping 12% và Carrefour khoảng 8%... Tính riêng năm 2005, doanh thu của Wal-Mart tại thị trường Hàn Quốc chỉ đạt khoảng 800 triệu USD, thua lỗ đến 10 triệu USD.
Mới đầu, người dân Hàn Quốc đổ xô tới các cửa hàng của Wal-Mart và Carrefour vì tò mò muốn thử mua sắm theo phong cách phương Tây với những núi hàng ngồn ngộn. Tuy nhiên, hàng hóa ở hai chuỗi cửa hàng này thường được đóng gói rất kỹ và kiểu cách nên nhiều khách hàng tỏ ra e ngại khi muốn xem xét cẩn thận món hàng mà họ muốn mua.Ở các cửa hàng của Wal-Mart và Carrefour hiếm khi thấy nhân viên hướng dẫn để giải đáp những thông tin liên quan đến sản phẩm mà khách hàng cần biết trước khi quyết định có nên mua hay không.
Trong khi đó, các cửa hàng của Hàn Quốc thường sắp xếp hàng hóa theo hướng thuận tiện nhất cho khách hàng quan sát, so sánh các mặt hàng cùng loại với nhau. Nhân viên bán hàng trong các cửa hàng của Hàn Quốc cũng thường xuyên có mặt để kịp thời trả lời hoặc hướng dẫn khi khách hàng cần đến.
Về chủng loại hang hóa cũng như cách bố trí gian hàng thì người chiếm ưu thế chính là nhưng doanh nghiệp bán lẻ trong nước.Vậy cái gì đã tạo nên những ưu thế cho doanh nghiệp trong nước?Chính là sự thông hiểu tập quán, sở thích tiêu dùng của người dân đã đáp ứng rất tốt nhu cầu của khách hàng.Bên cạnh đó còn phải kể đến chính sách giá rẻ cứng nhắc và chính sách sử dụng nhân công của Walmart.
Kết quả là sau 8 năm hoạt động ở Hàn Quốc, tập đoàn bán lẻ hàng đầu thế giới Wal-Mart đã tuyên bố rút lui khỏi thị trường này bằng cách bán hết các cơ sở của mình cho tập đoàn bán lẻ nội địa Shinsegae với giá gần 900 triệu USD.
Walmart đã làm tất cả những gì mà nó đã làm ở những thị trường trước đó.Nhưng thói quen tiêu dùng của người dân Hàn Quốc và sự liên kết chặt chẽ giữa nhà phân phối và sản xuất nội địa đã tạo lên thành công trong cuộc đua tranh với đại gia Walmart.
CHƯƠNG III: ẢNH HƯỞNG CỦA HIỆU ỨNG WAL-MART ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
Từ phần 1 chúng ta có thể có những cơ sở để đánh giá sự cuốn hút của thị trường bán lẻ Việt Nam, và phần 2 đã cho chúng ta một cái nhìn tổng quan về Wal-mart. Chắc chắn rằng một đại gia sành sỏi như WM sẽ không bỏ qua cơ hội này và sự thật là WM đã xin đăng ký đàu tư ở VN từ năm 2006 và họ được chấp thuận.Vấn đề được đặt ra là bao giờ?và Wal- mart sẽ vào như thế nào? .Theo đánh giá của nhóm đề tài,thời điểm này sẽ không còn xa, và việc Wal-mart chưa đổ bộ vào VN sau mốc thời gian 1/1/2009 có thể được lý giải bời 2 nguyên nhân:VN chúng ta chưa đủ khả năng đáp ứng những tiêu chuẩn của Wal-mart, những tiêu chuẩn* đã đưa Wal-mart trở thành người khổng lồ tuyệt đối ngày hôm nay, nguyên nhân thứ hai có thể được lý giải bởi tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu vừa qua. Thêm một yếu tố để nhóm đề tài đặt niềm tin Wal-mart sẽ vào VN trong tương lai gần.Năm 2009, chứng kiến kỷ lục tụt hạng của thị trường bán lẻ VN xét về mức hấp dẫn, nhưng ở tiêu chí áp lực thời gian, với 97 điểm, tăng 7 điểm so với năm 2008, còn so với năm 2004 thì tăng tới 31 điểm và gần “chạm trần”, thị trường bán lẻ VN thực sự đang có “sức mời gọi” rất lớn đối với Wal-mart và những đối tác khác. Đã đến lúc Wal-mart phải vào cuộc, họ ý thức được những bất lợi tiềm tàng nếu là người đến sau.
Wal-Mart sẽ vào- chúng ta có thể dự đoán điều đó, nhưng ảnh hưởng của nó lớn đến chừng nào thì vẫn là một dấu hỏi lớn, cần nhiều hơn những đánh giá mang tính chất cụ thể cho từng khía cạnh hơn là những quan điểm chung chung hiện nay. Trong giới hạn của một tiểu luận, nhóm nghiên cứu xin phép đưa ra những tổng hợp- đánh giá cơ bản mà các thành viên trong nhóm đã cố gắng tìm hiểu trong thời gian qua.
1)Tác động củaHiệu ứng Walmart đối với thị trường bán lẻ Việt Nam:
1.1. Walmart làm thay đổi thói quen tiêu dùng của khách hàng :
Walmart luôn luôn bán hàng với giá rẻ.- đó là một điều thực tế, điều làm nên thương hiệu walmart- “Always low price”
Một khi xuất hiện Walmart -Viêt Nam có thể tạo nên hai tác động:
-Ở những nơi có Walmart: Walmart di chuyển một bộ phận khách hàng từ các siêu thị khác đến với họ.
Hãy tưởng tượng, khi một cửa hàng walmart xuất hiện ở Việt Nam, nó luôn bán cùng loại hàng với các cửa hàng khác mà giá lại rẻ hơn tới 15%, điều gì sẽ xảy ra ?. Chắc chắn, người dân sẽ đổ xô vào mua hàng ở walmart. Điều đó gần như là chắc chắn bởi người dân Việt Nam vốn thích mặc cả, thích mua hàng giá rẻ, và lại không quá chú trọng vấn đề phục vụ. Mặt khác nói về việc phục vụ khách hàng, Walmart cũng không thể nói là phục vụ kém được, hàng hóa bán của họ cũng đều là hàng hóa có chất lượng, có thương hiệu chứ không phải hàng hóa kém. Thật khó để cưỡng lại sức hấp dẫn từ walmart khi mà thu nhập của người VN vẫn còn ở mức thấp như hiện nay.
-Walmart làm người dân Việt Nam thích đến siêu thị hơn , thich mua ở siêu thị hơn :
Người tiêu dùng khi đã quen thuộc với Walmart sẽ có tâm lý muốn mua hàng chất lượng cao với giá rẻ, tâm lý này sẽ ảnh hưởng tới các đối thủ cạnh tranh của walmart buộc họ phải giảm giá bán, tất nhiên giảm giá để thỏa mãn cái xu hướng khách hàng chứ không phải để cạ