Tiểu luận Xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước

Nhà nước xã hội chủ nghĩa trong lịch sử luôn là một trong những đề tài được rất nhiều học giả quan tâm, tìm hiểu, nghiên cứu. Song không vì thế mà những đề tài nghiên cứu về vẫn đề này mất đi tính cấp thiết của nó. Việc tìm hiểu về các nhà nước xã hội chủ nghĩa sẽ góp phần củng cố và bổ sung thêm những góc nhìn mới, nhận định mới, nội dung mới về nhà nước xã hội chủ nghĩa trong lịch sử. Điều quan trọng là giúp cho ta thấy được sự phát triển không ngừng của lịch sử xã hội nhân loại nói chung và các mô hình các nhà nước trong lịch sử nói riêng. Tuy nhà nước xã hội chủ nghĩa trong lịch sử nhân loại đã trải qua giai đoạn sóng gió, biến cố, thậm chí là sự sụp đổ của một loạt mô hình nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Liên xô và các nước Đông âu. Nhưng không vì thế mà phủ nhận được tính ưu việt của nhà nước xã hội chủ nghĩa trong lịch sử loài người. Thế giới của chúng ta đang phát triển nhanh chóng trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, xã hội, khoa học kỹ thuật các nhà nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới đặc biệt là nước ta cũng đã nhanh chóng vươn lên khẳng định vị thế của mình. Để đạt được thành công đó đòi hỏi các nhà nước xã hội chủ nghĩa phải có những chủ trương, quyết sách đáp ứng được yêu cầu phát triển của thời đại. Đồng thời sự phát triển đó luôn đặt ra nhiệm vụ phải giữ vững bản chất và mục tiêu của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Tôi hi vọng đề tài này sẽ góp phần giúp cho thế hệ trẻ hiểu biết thêm về nhà nước xã hội chủ nghĩa trong lịch sử, từ đó thấy được tính ưu việt của mô hình nhà nước xã hội chủ nghĩa, bên cạch đó tạo điều kiện cho thê hệ trẻ có những định hướng để xây dựng và hoàn thiện đất nước hơn.

doc23 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 7448 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Nhà nước xã hội chủ nghĩa trong lịch sử luôn là một trong những đề tài được rất nhiều học giả quan tâm, tìm hiểu, nghiên cứu. Song không vì thế mà những đề tài nghiên cứu về vẫn đề này mất đi tính cấp thiết của nó. Việc tìm hiểu về các nhà nước xã hội chủ nghĩa sẽ góp phần củng cố và bổ sung thêm những góc nhìn mới, nhận định mới, nội dung mới về nhà nước xã hội chủ nghĩa trong lịch sử. Điều quan trọng là giúp cho ta thấy được sự phát triển không ngừng của lịch sử xã hội nhân loại nói chung và các mô hình các nhà nước trong lịch sử nói riêng. Tuy nhà nước xã hội chủ nghĩa trong lịch sử nhân loại đã trải qua giai đoạn sóng gió, biến cố, thậm chí là sự sụp đổ của một loạt mô hình nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Liên xô và các nước Đông âu. Nhưng không vì thế mà phủ nhận được tính ưu việt của nhà nước xã hội chủ nghĩa trong lịch sử loài người. Thế giới của chúng ta đang phát triển nhanh chóng trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, xã hội, khoa học kỹ thuật…các nhà nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới đặc biệt là nước ta cũng đã nhanh chóng vươn lên khẳng định vị thế của mình. Để đạt được thành công đó đòi hỏi các nhà nước xã hội chủ nghĩa phải có những chủ trương, quyết sách đáp ứng được yêu cầu phát triển của thời đại. Đồng thời sự phát triển đó luôn đặt ra nhiệm vụ phải giữ vững bản chất và mục tiêu của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Tôi hi vọng đề tài này sẽ góp phần giúp cho thế hệ trẻ hiểu biết thêm về nhà nước xã hội chủ nghĩa trong lịch sử, từ đó thấy được tính ưu việt của mô hình nhà nước xã hội chủ nghĩa, bên cạch đó tạo điều kiện cho thê hệ trẻ có những định hướng để xây dựng và hoàn thiện đất nước hơn. 2. Mục tiêu nghiên cứu Giúp người nghiên cứu: - Có kiến thức lý luận về nhà nước xã hội chủ nghĩa trong lịch sử. - Chắt lọc các kinh nghiệm ưu việt về xây dựng bộ máy nhà nước của các nhà nước xã hội chủ nghĩa trong lịch sử để vận dụng kinh nghiệm đó vào xây dựng Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay. 3. Đối tượng và các phương pháp nghiên cứu: * Đối tượng: Các nhà nước xã hội chủ nghĩa trong lịch sử. * Phương pháp: - Phương pháp duy vật lịch sử. - Phương pháp phân tích tổng hợp. - Phương pháp so sánh đối chiếu. - Phương pháp quy nạp. - Phương pháp diễn dịch. 4. Kết cấu Gồm 4 phần : Phần I: Các khái niệm của đề tài. Phần II: Sự ra đời và bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa Phần III: Các chức năng cơ bản và các hình thức của nhà nước xã hội chủ nghĩa Phần IV: Bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa. NỘI DUNG PHẦN I: CÁC KHÁI NIỆM CỦA ĐỀ TÀI - Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa: là những phương diện hoạt động cơ bản thể hiện bản chất giai cấp của nhà nước. Ý nghĩa xã hội, mục đích và nhiệm vụ chiến lược của nhà nước được quy định bởi thực tế khách quan và tình hình chính trị, kinh tế, xã hội trong nước và quốc tế trong từng giai đoạn cách mạng. - Hình thức nhà nước gồm ba yếu tố cấu thành là hình thức chính thể, hình thức cấu trúc nhà nước và chế độ chính trị Hình thức nhà nước xã hội chủ nghĩa bao gồm ba yếu tố cấu thành là hình thức chính thể cộng hòa dân chủ, hình thức cấu trúc nhà nước có thể là nhà nước liên bang hoặc nhà nước đơn nhất và chế độ chính trị đều sử dụng một hệ thống các phương pháp và biện pháp dân chủ thực sự, rộng rãi để tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. - Bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa là hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung ương xuống cơ sở, được tổ chức theo những nguyên tắc chung thống nhất, tạo thành một cơ chế đồng bộ để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa. - Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa là những nguyên lý, những tư tưởng chỉ đạo đúng đắn, khách quan và khoa học, phù hợp với bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa, tạo thành cơ sở cho tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước và toàn thể bộ máy nhà nước. PHẦN II : SỰ RA ĐỜI VÀ BẢN CHẤT CỦA NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA I. TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA SỰ RA ĐỜI NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 1. Tính tất yếu khách quan. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã chứng minh rằng: Cách mạng vô sản và sự ra đời của nhà nước là tất yếu lịch sử. tính tất yếu lịch sử đó được quy định bởi toàn bộ quá trình phát triển đầy mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản. Nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự bùng nổ của cách mạng vô sản và kết quả của nó là sự ra đời của nhà nước chuyên chính vô sản chính là các tiền đề kinh tế, chính trị, xã hội phát sinh trong lòng xã hội tư bản chủ nghĩa. Những tiền đề kinh tế: Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa được xây dựng trên cơ sở chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và bóc lột giá trị thặng dư. Khi chủ nghĩa tư bản phát triển đến giai đoạn chủ nghĩa đế quốc thì quan hệ đó trở nên mâu thuẫn, mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Mâu thuẫn ngày càng trở lên gay gắt đòi hỏi phải có một cuộc cách mạng xóa bỏ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, thiết lập một kiểu quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đó là kiểu quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Những tiền đề chính trị - xã hội: Khi chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc thì xuất hiện chủ nghĩa tư bản lũng đoạn nhà nước. Nhà nước đã trở thành công cụ của bọn tư bản. Do đó bản chất của nhà nước tư sản ngày càng bộc lộ rõ nét, một nhà nước phản dân chủ, quan liêu độc tài nhưng được che đậy dưới hình thức dân chủ. Từ đó mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và tư sản ngày càng sâu sắc làm xuất hiện tiền đề cho cách mạng vô sản nổ ra. Trong khi đó, giai cấp vô sản ngày càng phát triển nhanh về cả số lượng và chất lượng, thông qua đội tiền phong của mình là đảng cộng sản, giai cấp vô sản đã vươn lên đấu tranh để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Những yếu tố dân tộc và thời đại cũng tác động và ảnh hưởng mạnh mẽ tới phong trào cách mạng của giai cấp vô sản. 2. Sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản giai cấp vô sản và nhân dân lao động đã đứng lên đấu tranh để giành lại chính quyền. Cuộc đấu tranh đó phải được tiến hành bằng bạo lực cách mạng. Nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời từ sự thắng lợi của cuộc đấu tranh đó. Tùy vào tình hình thực tiễn mỗi nước mà tổ chức bộ máy nhà nước có những đặc điểm riêng.Tuy nhiên những nhà nước đó vẫn mang bản chất chung của nhà nước xã hội chủ nghĩa. - Các hình thức nhà nước xã hội chủ nghĩa: + Công xã Pari (1871). + Nhà nước Xô viết (1917). + Nhà nước DCND ra đời ở các nước Đông Âu sau chiến tranh thế giới II. II. BẢN CHẤT CỦA NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Theo Lênin, bản chất nhà nước xã hội chủ nghĩa là chuyên chính vô sản, chính quyền thuộc về tay nhân dân mà trước hết là giai cấp công nhân và nhân dân lao động, theo đường lối của giai cấp công nhân mà đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản. Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa được thể hiện ở các đặc điểm sau: * Nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là bộ máy chính trị - hành chính, một cơ quan cưỡng chế, một tổ chức quản lý kinh tế xã hội của nhân dân lao động, nó là nhà nước “nửa nhà nước”. * Dân chủ xã hội chủ nghĩa là thuộc tính của nhà nước xã hội chủ nghĩa. * Nhà nước xã hội chủ nghĩa luôn giữ vai trò tích cực sang tạo, là công cụ để xây dựng một xã hội nhân đạo công bằng, bình đẳng. PHẦN III : CÁC CHỨC NĂNG CƠ BẢN VÀ CÁC HÌNH THỨC CỦA NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA I. CÁC CHỨC NĂNG CỦA NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 1. Chức năng đối nội Chức năng bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa: Bảo vệ an ninh chính trị, trật tự oan toàn xã hội là điều kiện tiên quyết để xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa. Chức năng bảo vệ các quyền tự do dân chủ của nhân dân: Dân chủ là dân làm chủ, là quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Tự do dân chủ thực sự chỉ tồn tại khi được tổ chức thừa nhận về mặt pháp lý, tồn tại dưới hình thức pháp luật. Điều đó có nghĩa là nhà nước thừa nhận mục đích sống của tất cả mọi người. Chức năng bảo vệ trật tự pháp luật tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa: Đây là nhân tố quy định đến hiệu quả, hiệu lực quản lý của nhà nước. Nhằm đảm bảo cho pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh và thống nhất đảm bảo an ninh chính trị, bảo vệ quyền tự do dân chủ, bảo đảm cho nhà nước quản lý các lĩnh vực kinh tế, chính trị,văn hóa, xã hội có hiệu quả. Chức năng tổ chức và quản lý kinh tế: Đây là chức năng quan trọng hàng đầu của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đó là sự khác biệt cơ bản giữa cách mạng vô sản và cách mạng tư sản. Cách mạng tư sản cốt hoàn thiện thêm bộ máy nhà nước để tăng cường bóc lột, còn cách mạng vô sản đặt ra cho bộ máy vô sản nhiệm vụ phải đập tan bộ máy nhà nước cũ, xây dựng nhà nước mới, dùng nhà nước đó để xây dựng và sáng tạo xã hội mới - xã hội không còn người bóc lột người. Chức năng tổ chức và quản lý văn hóa, khoa học giáo dục: Mục tiêu của cách mạng xã hội chủ nghĩa là xây dựng một xã hội do nhân dân lao động làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao trên cơ sở một nển khoa học và công nghệ hiện đại, tiên tiến. Con người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc,có điều kiện phát triển toàn diện. Chính vì vậy nhà nước xã hội chủ nghĩa phải tổ chức và quản lý sự nghiệp giáo dục đào tạo, văn hóa, phát triển khoa học và công nghệ là tất yếu. 2. Chức năng đối ngoại Chức năng bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa: Đây là chức năng mang tính chiến lược của cách mạng xã hội chủ nghĩa nhằm giữ vững thành quả cách mạng, bảo vệ công cuộc xây dựng hòa bình của nhân dân lao động, ổn định để phát triển. Chức năng củng cố, tăng cường hữu nghị và hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi; ủng hộ và góp phần tích cực vào phong trào đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội. + Củng cố và tăng cường tình hữu nghị, đoàn kết, hợp tác, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau giữa các nước xã hội chủ nghĩa + Mở rộng quan hệ với các nước có chế độ chính trị khác nhau trên thế giới trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi + Mở rộng mối quan hệ với các tổ chức quốc tế. + Ủng hộ và góp phần tích cực vào phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở các nước tư bản chủ nghĩa, chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân cũ và mới, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chống chính sách gây chiến, chạy đua vũ trang, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. II. CÁC HÌNH THỨC NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 1. Công xã Pari (18-3-1971) Mặc dù chỉ tồn tại 72 ngày nhưng nó là hiện thực đầu tiên của nhà nước xã hội. Đó là ý nghĩa vĩ đại nhất, là kết quả của cuộc đấu tranh giữa giai cấp sản xuất và giai cấp chiếm hữu, là hình thức chính trị có thể thức hiện được việc giải phóng lao động về mặt kinh tế, là công cụ để thủ tiêu chế độ tư bản chủ nghĩa Công xã Pari được tập trung theo nguyên tắc tập trung dân chủ từ xóm thợ đến trung ương, do đó nó đã tạo cho nền cộng hòa cái cơ sở của thiết chế dân chủ nhất. Công xã tuyên bỏ bộ hủy bỏ bộ máy nhà nước cũ, xóa bỏ bộ máy đại nghị tư sản và các nguyên tắc phân chia quyền lực trong bộ máy nhà nước tư sản. Công xã do đầu phiếu phổ thông bầu lên, bộ máy không đắt tiền, không có khả năng thoái hóa, biến chất thành những kẻ đặc quyền đặc lợi, thăng quan phát tài. 2. Hình thức nhà nước Xô viết Ra đời trong thắng lợi của cách mạng tháng Mười vĩ đại, nhà nước Xô viết đã trở thành người đại biểu của giai cấp công nhân, nông dân và binh lính cách mạng. Lúc đầu các Xô viết hình thành như những trung tâm lãnh đạo các cuộc bãi công, sau đó chuyển thành cơ quan quyền lực nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Các Xô viết cấp huyện trở xuống do bầu cử trực tiếp lập lên. Các Xô viết tỉnh và trung ương là đại hội đại biểu các Xô viết. Hình thức Xô viết xuất hiện ở giai đoạn đầu của khủng hoảng tư bản chủ nghĩa nên việc giành chính quyền thường dùng những biện pháp kiên quyết, phương pháp bạo lực cách mạng. 3. Hình thức nhà nước dân chủ nhân dân Hình thức dân chủ nhân dân xã hội chủ nghĩa xuất hiện từ phong trào chống phát xít ở châu Âu, chống thực dân phong kiến ở châu Á cho nên mang tính mặt trận rộng rãi và thống nhất với khẩu hiệu “ giải phóng dân tộc”. Phương pháp cách mạng là kết hợp bạo lực với hòa bình. Nhà nước tổ chức theo chính thể cộng hòa. Hình thức nhà nước này phù hợp với tình hình cách mạng của các nước sau chiến tranh thế giới thứ hai vì vậy đã góp phần tăng cường sức mạnh và phát huy hiệu quả của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Hình thức nhà nước dân chủ nhân dân ở châu Âu như các nước : Ba Lan, Bungari, Anbani, Hunggari, Rumani, Cộng hòa dân chủ Đức… Ở châu Á có Việt Nam, Triều Tiên, Trung Quốc. Trên đây là ba hình thức nhà nước xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên nước Cộng hòa Cu Ba có nét đặc thù riêng không giống hoàn toàn với ba hình thức nhà nước trên từ hình thức ra đời đến việc tổ chức bộ máy nhà nước. III. MỖI QUAN HỆ GIỮA BẢN CHẤT VÀ HÌNH THỨC CỦA NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Theo Lênin, tất cả các dân tộc sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội, đó là điều không thể tránh khỏi, nhưng tất cả các dân tộc sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội không phải một cách hoàn toàn giống nhau, mỗi dân tộc sẽ đưa đặc điểm của mình vào hình thức này hay hình thức khác của chế độ dân chủ, vào loại nay hay loại khác của nền chuyên chính vô sản, vào nhịp độ này hay nhịp độ khác của việc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các mặt khác nhau của đời sống xã hội. Mặc dù có nhiều hình thức nhà nước, nhưng bản chất nhà nước là yếu tố quyết định, cho nên những đặc điểm chung và đặc điểm riêng của các hình thức nhà nước xã hội chủ nghĩa không tách biệt với nhau, mà nằm trong một thể thống nhất, tác động qua lại với nhau. Trong quá trình vận động và phát triển của nhà nước xẫ hội chủ nghĩa, các đặc điểm riêng sẽ ngày càng ít đi, còn các đặc điểm chung sẽ ngày càng thể hiện đầy đủ và thống nhất trong mỗi hình thức nhà nước xã hội chủ nghĩa. PHẦN IV : BỘ MÁY NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA I. CÁC LOẠI CƠ QUAN NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa được phân ra thành nhiều loại dựa theo từng cách tiếp cận, nghiên cứu khác nhau. Xét theo hình thức thực hiện tam quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp thì các cơ quan nhà nước được chia thành cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp. Xét theo trình tự thành lập : các cơ quan nhà nước xã hội chủ nghĩa có thể được chia thành các cơ quan do nhân dân trực tiếp bầu ra và các cơ quan không do nhân dân trực tiếp bầu ra. Các cơ quan đại diện hình thành do kết quả bầu cử, thể hiện ý chí trực tiếp của nhân dân, vì vậy chúng nhân danh quyền lực nhân dân và mang tính chất là hệ thống cơ quan quyền lực. Các hệ thống cơ quan khác đều do cơ quan quyền lực trực tiếp hoặc gián tiếp bầu ra. Xét theo tính chất thẩm quyền: các cơ quan nhà nước xã hội chủ nghĩa có thể chia thành các cơ quan có thẩm quyền chung và các cơ quan có thẩm quyền riêng. Các cơ quan có thẩm quyền chung có quyền xem xét và quyết định bất cứ việc gì để đảm bảo lợi ích xã hội. Các cơ quan có thẩm quyền riêng chỉ có quyền xem xét và quyết định các vẫn đề trong một phạm vi nhất định của đời sống xã hội. Xét theo cấp độ thẩm quyền các cơ quan nhà nước xã hội chủ nghĩa được chia thành các cơ quan nhà nước trung ương và các cơ quan nhà nước địa phương. Ngoài ra còn có thể xem xét tới góc độ thời hạn thực quyền có thể chia thành các cơ quan hoạt động thường xuyên và các cơ quan lâm thời. 1. Các cơ quan quyền lực nhà nước Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp được coi là “sương sống” của bộ máy nhà nước. Đó là cơ quan quyền lực nhà nước, do nhân dân trực tiếp bầu ra, nhân danh nhân dân để thực hiện và thực thi một cách thống nhất quyền lực, có trách nhiệm và báo cáo với nhân dân về các hoạt động của mình. Các cơ quan khác của bộ máy nhà nước do cơ quan này trực tiếp hoặc gián tiếp lập ra, chịu sự giám sát của cơ quan quyền lực. Đối với Việt Nam, Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân và là cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước, là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp; quyết định những vẫn đề trọng đại nhất của quốc gia; thực hiện quyền giám sát tối cao với tất cả các cơ quan nhà nước khác. Còn Hội đồng nhân dân các cấp là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của người dân, do nhân dân trực tiếp bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. Ở các nước xã hội chủ nghĩa khác cơ quan quyền lực cao nhất của nhân dân có vị trí, chức năng, vai trò tương tự như Quốc hội ở nước ta. 2. Chủ tịch nước Chủ tịch nước là một trong những thành tố đặc biệt quan trọng của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa. Ở nước ta, Hiến pháp năm 1992 chỉ rõ “ Chủ tịch nước là người đứng đầu nhà nước, thay mặt nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại”. Cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước bầu ra chủ tịch nước. Do đó Chủ tịch nước phải chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội. Chủ tịch nước được trao nhiều quyền hạn rộng lớn trong cả ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp. Đồng thời giữ quyền thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân và kiêm nhiệm chức vụ Chủ tịch hội đồng quốc phòng và an ninh. Tuy nhiên, Chủ tịch nước không phải là một cơ quan thuộc về hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước hoặc cơ quan quản lý nhà nước. Chủ tịch nước là cơ quan có vị trí đặc biệt và giữ vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sự phối hợp thống nhất giữa các bộ phận của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa. 3. Các cơ quan quản lý nhà nước a. Các cơ quan chấp hành và hành chính nhà nước Hệ thống cơ quan chấp hành, điều hành hoặc cơ quan hành chính nhà nước được gọi chung là các cơ quan quản lý nhà nước. Những tên gọi đó đều có nội dung cụ thể, phản ánh vị trí, chức năng, tính chất của các cơ quan quản lý nhà nước khi chúng được xem xét từ những góc độ khác nhau. Trong khoa học và thực tiễn pháp lý tùy thuộc vào yêu cầu phải xem xét và giải quyết những vẫn đề, những mối quan hệ cụ thể có liên quan đến các cơ quan quản lý nhà nước, người ta có thể tiếp cận từ một, hai hoặc toàn diện toàn bộ các khía cạnh để xác định tên gọi chung cho các cơ quan quản lý nhà nước. Trên thực tế bộ máy nhà nước bao giờ cũng là bộ máy lớn nhất, có cơ cấu phức tạp nhất và có đội ngũ công chức đông đảo nhất. Bởi bộ máy quản lý nhà nước phải trực tiếp đứng ra tổ chức việc thực thi pháp luật, trực tiếp thực hiện các chức năng quản lý, điều hành mọi công việc tường nhật trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước ở Việt Nam bao gồm : Chính phủ, các bộ và các cơ quan ngang bộ, các cơ quan thuộc Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp. Toàn bộ các cơ quan này tạo thành một hệ thống thống nhất. Pháp luật xác lập mối quan hệ cụ thể giữa các cơ quan trong hệ thống cơ quan quản lý nhà nước, quy định thẩm quyền, trách nhiệm nghĩa vụ cụ thể của mỗi cơ quan và người đứng đầu cơ quan đó. Đồng thời cũng quy định mối quan hệ giữa các cơ quan quản lý nhà nước và các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước. Những quy định đó là cơ sở thực tế để đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ của bộ máy nhà nước, nhằm đáp ứng nhu cầu khách quan của hoạt động quản lý nhà nước nói riêng và của bộ máy nhà nước nói chung. Chính phủ là cơ quan cao nhất trong hệ thống cơ quan quản lý nhà nước, là cơ quan có thẩm quyền chung. Hiến pháp 1992, điều 109 chỉ rõ : “Chính phủ thống nhất việc quản lý thưc hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của nhà nước; đảm bảo hiệu lực của bộ máy nhà nước từ trung ương xuống cơ sở; đảm bảo việc tôn trọng và chấp hành Hiến pháp và pháp luật; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, bảo đảm ổn định và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần c
Luận văn liên quan