Xếp hạng tín nhiệm được xuất hiện từ nhu cầu thực tế khách quan của thị trường, khởi 
đầu của nó là sự đòi hỏi phải có một tổ chức độc lập đánh giá rủi ro để định hướng đầu tư 
của công chúng tới các chứng khoán do các công ty và định chế tài chính phát hành, đồng 
thời thông qua kết quả xếp hạng thì các tổ chức muốn chứng minh cho sức mạnh tài 
chính của các tổ chức đó.
Dưới góc độ đối với các ngân hàng thương mại, với đặc trưng trong hoạt động của nó 
là cung cấp tín dụng cho khách hàng thì việc xếp hạng tín nhiệm (xếp hạng tín dụng) 
khách hàng được xemlà một đòi hỏi khách quan trong việc quản trị rủi ro của mình, đặc 
biệt là rủi ro tín dụng. 
Ngoài ra, đối với ngân hàng, việc xếp hạng tín dụng sẽ góp phần giúp các ngân hàng 
thương mại đảm bảo các quy định của Ngân hàng nhà nước về trích lập các quỹ dự phòng 
rủi ro và tiêu chuẩn quản trị rủi ro theo các quy định của Basel mà chúng ta đang từng 
bước thực hiện. Khi quá trình xếp hạng tín dụng của các ngân hàng được đảm bảo, ngân 
hàng sẽ tiến hành đánh giá và phân loại được các khoản vay của mình để từ đó có những 
điều chỉnh phù hợp hơn.
Ngày nay, các ngân hàng thương mại thường đánh giá xếp hạng tín dụng dựa trên 2 cơ 
sở.
- Thông tin từ các tổ chức công ty xếp hạng tín nhiệm độc lập (xếp hạng bên ngoài) và 
các quy định được chuẩn hóa đối với hoạt động quản trị rủi ro của các ngân hàng thương 
mại.
- Thông tin từ chính các mô hình xếp hạng tín dụng nội bộ của ngân hàng.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 15 trang
15 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2738 | Lượt tải: 6 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Xếp hạng tín dụng nội bộ khách hàng của các Ngân hàng thương mại. So sánh với bên ngoài, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận 
Xếp hạng tín dụng nội bộ khách hàng của các 
Ngân hàng thương mại. So sánh với bên ngoài 
 Bài làm. 
1. Tổng quan về xếp hạng tín nhiệm – xếp hạng tín dụng 
1.1. Sự cần thiết của xếp hạng tín nhiệm – xếp hạng tín dụng. 
Xếp hạng tín nhiệm được xuất hiện từ nhu cầu thực tế khách quan của thị trường, khởi 
đầu của nó là sự đòi hỏi phải có một tổ chức độc lập đánh giá rủi ro để định hướng đầu tư 
của công chúng tới các chứng khoán do các công ty và định chế tài chính phát hành, đồng 
thời thông qua kết quả xếp hạng thì các tổ chức muốn chứng minh cho sức mạnh tài 
chính của các tổ chức đó. 
Dưới góc độ đối với các ngân hàng thương mại, với đặc trưng trong hoạt động của nó 
là cung cấp tín dụng cho khách hàng thì việc xếp hạng tín nhiệm (xếp hạng tín dụng) 
khách hàng được xemlà một đòi hỏi khách quan trong việc quản trị rủi ro của mình, đặc 
biệt là rủi ro tín dụng. 
Ngoài ra, đối với ngân hàng, việc xếp hạng tín dụng sẽ góp phần giúp các ngân hàng 
thương mại đảm bảo các quy định của Ngân hàng nhà nước về trích lập các quỹ dự phòng 
rủi ro và tiêu chuẩn quản trị rủi ro theo các quy định của Basel mà chúng ta đang từng 
bước thực hiện. Khi quá trình xếp hạng tín dụng của các ngân hàng được đảm bảo, ngân 
hàng sẽ tiến hành đánh giá và phân loại được các khoản vay của mình để từ đó có những 
điều chỉnh phù hợp hơn. 
Ngày nay, các ngân hàng thương mại thường đánh giá xếp hạng tín dụng dựa trên 2 cơ 
sở. 
- Thông tin từ các tổ chức công ty xếp hạng tín nhiệm độc lập (xếp hạng bên ngoài) và 
các quy định được chuẩn hóa đối với hoạt động quản trị rủ i ro của các ngân hàng thương 
mại. 
- Thông tin từ chính các mô hình xếp hạng tín dụng nội bộ của ngân hàng. 
1.2. Xếp hạng tín nhiệm-xếp hạng tín dụng khách hàng. 
1.2.1. Khái niệm 
Khái niệm “xếp hạng tín nhiệm” và “xếp hạng tín dụng” được bắt nguồn từ thuật ngữ 
“credit reatings” 
Theo đó, xếp hạng tín dụng-xếp hạng tín nhiệm được hiểu là việc đưa ra nhận định về 
mức độ tín nhiệm đối với trách nhiệm tài chính; hoặc đánh giá mức độ rủi ro tín dụng phụ 
thuộc các yếu tố bao gồm năng lực đáp ứng các cam kết tài chính, khả năng dễ bị vỡ nợ 
khi các điều kiện kinh doanh thay đổi, ý thức và thiện chí trả nợ của người đi vay. 
Vì vậy, có thể hiểu một cách đơn giản “Xếp hạng tín dụng” hay “xếp hạng tín nhiệm” 
đều có nghĩa là việc phân loại, sắp xếp một đối tượng trên cơ sở đo lường rủi ro tín 
dụng”. Sự khác biệt của 2 cách gọi này xuất phát từ góc độ xem xét về đối tượng được 
nghiên cứu. 
1.2.2. Mục tiêu và quy tắc áp dụng khi tiến hành xếp hạng tín dụng 
a. Mục tiêu. 
Mục tiêu trước hết và quan trọng nhất của việc xếp hạng tín dụng là nhằm mục đích 
xác định được mức độ rủi ro mà ngân hàng phải đối mặt nếu như chấp nhận các khoản 
vay của khách hàng.Thông qua quá trình đánh giá xếp hạng của hệ thống xếp hạng tín 
dụng, NHTM có thể dự đoán được những sự khác biệt về mặt kinh tế giữa những gì mà 
người đi vay hứa thanh toán và những gì mà NHTM thực sự nhận được. 
Ngoài ra, việc đánh giá xếp hạng tín dụng còn giúp cho ngân hàng đạt được những 
mục tiêu cụ thể sau: 
 Hỗ trợ ngân hàng đưa ra quyết định về việc có chấp nhận hay từ chối các khoản 
vay, để từ đó có một chính sách tín dụng chính xác hơn. Chính sách này bao gồm 
việc xác định mức giá lãi vay, giới hạn lãi vay, các tài sản, điều kiện đảm bảo…. 
 NHTM có thể đánh giá hiệu quả danh mục cho vay thông qua giám sát sự thay 
đổi dư nợ và phân loại nợ trong từng nhóm khách hàng đã được xếp hạng, qua 
đó điều chỉnh danh mục theo hướng ưu tiên nguồn lực vào những nhóm khách 
hàng an toàn. 
 Phát hiện sớm các khoản tín dụng có khả năng bị tổn thất hay đi chệch hướng 
khỏi chính sách tín dụng của ngân hàng; xác định rõ khi nào cần có sự giám sát 
hoặc có các hoạt động điều chỉnh khoản tín dụng và ngược lại. 
 Hỗ trợ cho ngân hàng trong quá trình thực hiện phân loại nợ và tríc lập dự phòng 
rủi ro. 
b. Nguyên tắc áp dụng. 
Hệ thống XHTD là công cụ quan trọng để tăng cường tính khách quan, nâng cao chất 
lượng và hiệu quả của hoạt động tín dụng. Mô hình tính điểm tín dụng là phương pháp 
lượng hóa mức độ rủi ro thông qua đánh giá thang điểm, các chỉ tiêu đánh giá trong 
những mô hình chấm điểm được áp dụng khác nhau đối với từng loại khách hàng.Vì vậy, 
theo khái niệm hiện đại nội dung của xếp hạng tín dụng được tập trung vào những 
nguyên tắc chủ yếu sau. 
Thứ nhất, việc phân tích xếp hạng tín dụng phải dựa trên cơ sở ý thức và thiện ý trả nợ 
của người đi vay đối với từng khoản vay;việc đánh giá rủi ro dài hạn dựa trên ảnh hưởng 
của chu kỳ kinh doanh và khả năng trả nợ trong tương lai của khách hàng.đồng thời với 
việc đánh giá rủi ro toàn diện và thống nhất hệ thống ký hiệu xếp hạng. 
Thứ hai, Trong phân tích XHTD cần thiết sử dụng phân tích định tính để bổ sung cho 
những phân tích định lượng. Các dữ liệu định lượng là những quan sát được đo lường 
bằng số, các quan sát không thể đo lường bằng số được xếp vào dữ liệu định tính. Các chỉ 
tiêu phân tích có thể thay đổi phù hợp với sự thay đổi của trình độcông nghệ và yêu cầu 
quản trị rủi ro. 
Thứ ba,việc phân tích được tiến hành bằng phương pháp “trên xuống”, có nghĩa là 
phân tích từ các yếu tố vĩ mô ảnh hưởng đến công ty và các yếu tố ảnh hưởng tới bản 
thân công ty theo trình tự sau. 
(1) Phân tích rủi ro mang tính vĩ mô về xu hướng của quốc gia, ngành như tốc độ tăng 
trưởng kinh tế của quốc gia, sự ổn định về chính trị, chính sách tài chính, sự mở cửa thị 
trường …; 
(2) Phân tích rủi ro hoạt động kinh doanh như tình hình cạnh tranh, xu hướng thị 
trường, vị thế kinh doanh của công ty, sự đa dạng hoá hoạt động và các luật lệ quy định; 
(3) Phân tích rủi ro tài chính bao gồm hàng loạt chỉ tiêu phụ thuộc vào từng ngành 
nghề, kết hợp so sánh giữa rủi ro tài chính và rủi ro kinh doanh, xem xét độ linh hoạt tài 
chính cũng như chính sách tài chính; 
(4) Phân tích hướng phát triển của công ty như chất lượng ban quản lý và chiến lược 
kinh doanh; 
(5) Phân tích tình trạng pháp lý của doanh nghiệp. 
Mức độ rủi ro của ngành có sự khác biệt giữa tính chất thâm dụng vốn và chu kỳ rủi 
ro. Tuy nhiên, mức độ rủi ro giữa các ngành cũng có mối tương quan với sự phát triển ổn 
của điều kiện kinh tế, tài chính trong tương lai vì vậy khi tiến hành đánh giá xếp hạng tín 
dụng cần phải xem xét tới việc nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh 
nghiệp trong ngắn hạn cũng như dài hạn. 
Thứ tư, việc thu thập số liệu để phân tích để đưa vào mô hình XHTD cần được thực 
hiện một cách khách quan linh động. Sử dụng cùng lúc nhiều nguồn thông tin để có được 
cái nhìn toàn diện về tình hình tài chính của khách hàng vay. Đồng thời, trong quá trình 
xếp hạng tủi ro cần có sự thống nhất trong hệ thống ký hiệu xếp hạng. 
1.2.3. Cơ sở xếp hạng tín dụng. 
Căn cứ vào mối quan hệ giữa đối tượng xếp hạng và đối tượng được xếp hạng xếp 
hạng tín dụng được chia thành 2 loại: 
- Xếp hạng tín dụng nội bộ khách hàng. 
- Xếp hạng tín nhiệm của các công ty độc lập bên ngoài 
.Về khái niệm, xếp hạng tín dụng nội bộ khách hàng cũng hoàn toàn tương tự với khái 
niệm xếp hạng tín dụng, nhưng ở đây có sự khác biệt về chủ thể đánh giá xếp hạng tín 
nhiệm là chính bản thân ngân hàng, mối quan hệ giữa người đi vay-cho vay. 
Trên thực tế, khách hàng của ngân hàng (người đi vay) bao gồm tất cả các tổ chức, cá 
nhân có nhu cầu vay và đáp ứng được các điều kiện của pháp luật và ngân hàng : các cá 
nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế xã hội và cả nhà nước…Tuy nhiên, 
khi tìm hiểu tới mô hình xếp hạng tín dụng nội bộ của ngân hàng chúng ta chỉ xem xét tới 
2 đối tượng cho vay chính của các ngân hàng thương mại là: cá nhân-doanh nghiệp. 
2. Quy trình xếp hạng và những tiêu chí xếp hạng tín dụng nội bộ của Ngân 
hàng đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV). 
2.1. Quy trình đánh giá. 
Căn cứ vào Điều7củaQuyếtđịnh493/2005/QĐ-NHNNvà chính sách tín dụng và các 
quy định có liên quan của từng ngân hàng nhằm xác lập quy trình XHTD. Một quy trình 
XHTD bao gồm các bước cơ bản như sau : 
(1) Thu thập thông tin liên quan đến các chỉ tiêu sử dụng trong phân tích đánh giá, 
thông tin xếp hạng của các tổ chức tín nhiệm khác liên quan đến đối tượng xếp hạng. 
Trong quá trình thu thập thông tin, ngoài những thông tin do chính khách hàng cung cấp, 
cán bộ thẩm định phải sử dụng nhiều nguồn thông tin khác từ các phương tiện thông tin 
đại chúng, thông tin từ trung tâm tín dụng của ngân hàng, thông tin từ CIC. 
(2) Phân tích bằng mô hình để kết luận về mức xếp hạng. Sử dụng đồng thời chỉ tiêu 
tài chính và chỉ tiêu phi tài chính (đối với khách hàng Doanh nghiệp). Đặc biệt đối với 
những chỉ tiêu phi tài chính phải được sử dụng hết sức linh hoạt, khách quan, phù hợp với 
từng loại hình doanh nghiệp, từng mặt hàng kinh doanh. Còn với các khách hàng là cá 
nhân được xem xét ở các chỉ tiêu nhân thân và quan hệ với ngân hàng. Mức xếp hạng 
cuối cùng được quyết định sau khi tham khảo ý kiến Hội đồng xếp hạng. Trong XHTD 
của các NHTM thì kết quả xếp hạng không được công bố rộng rãi. 
(3) Theo dõi tình trạng tín dụng của đối tượng được xếp hạng để điều chỉnh mức xếp 
hạng. các thông tin điều chỉnh được lưu giữ. Tổng hợp kết quả xếp hạng so sánh với thực 
tế rủi ro xảy ra, và dựa trên tần suất phải điều chỉnh mức xếp hạng đã thực hiện đối với 
khách hàng để xem xét điều chỉnh mô hình xếp hạng 
2.2. Mô hình áp dụng và các chỉ tiêu đánh giá. 
2.2.1. Mô hình áp dụng. 
Mô hình đơn giản nhất được sử dụng trong xếp hạng tín dụng là mô hình một biến số. 
Chỉ tiêu đánh giá cần được thống nhất trong mô hình. Tuy nhiên nhược điểm của mô hình 
một biến số là kết quả của dự báo khó chính xác nếu thực hiện phân tích và cho điểm các 
chỉ tiêu đánh giá một cách riêng biệt, hơn nữa mỗi người có thể hiểu các chỉ tiêu đánh giá 
theo một cách khác nhau. Để khắc phục nhược điểm này, các nhà nghiên cứu đã phát 
triển những mô hình kết hợp nhiều biến số thành một giá trị để dự báo sự thất bại của 
doanh nghiệp như mô hình phân tích hồi quy, phân tích logic, phân tích xác suất có điều 
kiện, phân tích phân biệt nhiều biến số. 
Trong đó, Mô hình chỉ số tín dụng đa biến của Altman trong dự báo nguy cơ vỡ nợ của 
doanh nghiệp; Mô hình chấm điểm tín dụng cá nhân trong nghiên cứu của Stefanie 
Kleimeier đề xuất áp dụng cho các ngân hàng bán lẻ của Việt nam…là những mô hình 
đang được áp dụng khá phổ biến hiện nay. 
 Tùy vào tình hình thực tế tượng xếp loại NHTM sẽ sử dụng các mô hình khác nhau 
cũng như xác định các chỉ tiêu đánh giá tín dụng một cách phù hợp với quá trình kinh 
doanh và quản trị rủi ro của mình. Ví dụ: 
- Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam xây dựng và áp dụng Hệ thống tính điểm tín 
dụng; 
- Ngân hàng Công thương Việt Nam xây dựng và áp dụng Hệ thống chấm điểm tín 
dụng và xếp hạng khách hàng; 
- Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam ban hành và áp dụng Chính sách khách 
hàng… 
2.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá. 
Các chỉ tiêu mà NH áp dụng để tiến hành XHTD được chia làm 2 nhóm: 
- nhóm chỉ tiêu xếp hạng đối với khách hàng cá nhân: nhóm chỉ tiêu này thường bao 
gồm các chỉ tiêu về nhân thân và chỉ tiêu về quan hệ với ngân hàng. 
- nhóm chỉ tiêu áp dụng đối với khách hàng là doanh nghiệp. 
a. Nhóm chỉ tiêu tài chính. 
Đây là các chỉ tiêu định lượng, được lấy trực tiếp hoặc kết quả tính toán dựa 
trên các báo cáo tài chính như bảng tổng kết tài sản, báo cáo kết quả hoạt động 
kinh doanh, bảng lưu chuyển tiền tệ của doanh nghiệp. 
(1).Các tỷ số khả năng thanh toán. 
 + Khả năng thanh toán tổng quát. 
 + Khả năng thanh toán nợ ngắn hạn. 
 + Khả năng thanh toán nhanh. 
 + Khả năng thanh toán nợ. 
 + Khả năng thanh toán lãi vay. 
(2).Các chỉ số phản ánh hiệu suất sử dụng vốn sản xuất kinh doanh. 
 + Vòng quay vốn lưu động. 
 + Vòng quay toàn bộ tài sản. 
 + Vòng quay hàng tồn kho. 
 + Vòng quay các khoản phải thu 
(3). Các tỷ số phản ánh kết cấu tài chính. 
 + Tỷ số tự tài trợ. 
 + Tỷ số nợ 
(4).Các tỷ số phản ánh khả năng sinh lời. 
 + Tỷ suất lợi nhuận doanh thu. 
 +Tỷ suất lợi nhuận của tài sản (ROA). 
 + Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) 
b. Nhóm các chỉ tiêu phi tài chính. 
Đây là các chỉ tiêu định tính, nguồn của các chỉ tiêu này được lấy không phải chỉ dựa 
trên các báo cáo tài chính của doanh nghiệp, các thông tin này được thu thập từ nhiều 
nguồn cả bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Để xác định các chỉ tiêu này một cách 
chính xác đòi hỏi người xếp hạng phải có trình độ, am hiểu về lĩnh vực nhất định. 
(1).Lĩnh vực hoạt động kinh doanh. 
 Lĩnh vực hoạt động kinh doanh phản ánh triển vọng phát triển của ngành, của sản 
phẩm mà doanh nghiệp đanh hoạt động. Những lĩnh vực đang phát triển. có sự tăng 
trưởng cao thì mức độ tín nhiệm sẽ cao hơn so với những lĩnh vực, những ngành đang 
suy thoái. 
(2). Uy tín trong quan hệ với các tổ chức tín dụng. 
 Chỉ tiêu này cho biết doanh nghiệp trong quan hệ với các tổ chức tín dụng có trả 
nợ đúng hạn, thực hiện đầy đủ các cam kết hay không. Khi doanh nghiệp luôn trả nợ đầy 
đủ và đúng hạn cho thấy doanh nghiệp có tín nhiệm với các tổ chức tín dụng, sử dụng 
vốn có hiệu quả. 
(3). Khả năng trả nợ từ lưu chuyển tiền tệ. 
 Chỉ tiêu này cho biết khả năng trả nợ gốc trung dài hạn trong tương lai. Tính toán 
chỉ tiêu này dựa vào nguồn thu nhập dự kiến từ phương án sản xuất kinh doanh, dự án 
đầu tư. Dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả cao thì khả năng trả nợ 
từ lưu chuyển tiền tệ sẽ lớn. 
(4). Trình độ quản lý của lãnh đạo doanh nghiệp. 
 Trình độ quản lý thể hiện ở kinh nghiệm chuyên môn, trình độ học vấn, khả năng 
lãnh đạo điều hành, tính năng động, nhậy bén trong hoạt động kinh doanh… đây là yếu tố 
rất quan trọng trong quản lý doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có ban lãnh đạo có năng 
lực, có chuyên môn cao sẽ tạo được niềm tin trong quan hệ với ngân hàng. 
(5). Các chỉ tiêu khác. 
 Doanh nghiệp cũng chỉ là một chủ thể trong hoạt động kinh doanh, chịu sự tác 
động bởi rất nhiều các yếu tố từ bên ngoài như chính sách của nhà nước, nhà cung cấp, 
người tiêu dùng, sản phẩm thay thế, sự phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên…, những doanh 
nghiệp phụ thuộc vào bên ngoài nhiều thì mức độ tín nhiệm sẽ thấp hơn so với những 
doanh nghiệp có ít sự phụ thuộc hơn. 
2.2.3. Mô hình XHTD và các chỉ tiêu đánh giá của Ngân hàng đầu tư và phát 
triển Việt Nam 
a. Các chỉ tiêu áp dụng đối với các khoản vay cá nhân. 
Mô hình chấm điểm XHTD cá nhân của BIDV bao gồm hai phần là nhóm các chỉ tiêu 
chấm điểm nhân thân với trọng số 0,4 và nhóm các chỉ tiêu chấm điểm quan hệ với ngân 
hàng với trọng số 0,6. Cụ thể. 
Bảng1.1:CácchỉtiêuchấmđiểmcánhâncủaBIDV 
Chỉtiêu Điểmbanđầu Trọng 
số 100 75 50 25 0 
PhầnI :Thôngtinvềnhânthân 
1 Tuổi 36-55 
tuổi 
26-35 
tuổi 
56-60 
tuổi 
20-25 
tuổi 
>60tuổi 
hoặc18- 
20tuổi 
10% 
2 Trìnhđộhọc 
vấn 
Trênđại 
học 
Đại học Caođẳng Trung 
học 
Dưới 
trung 
học 
10% 
3 Tiền án,tiền 
sự 
Không Có 10% 
4 Tìnhtrạngcư 
trú 
Chủ sở 
hữu 
Nhà 
chung 
cư 
Với gia 
đình 
Thuê Khác 10% 
5 Sốngườiăn 
theo 
<3 
người 
3người 4người 5người Trên 5 
người 
10% 
6 Cơcấugia 
đình 
Hạt 
nhân 
Sống 
với cha 
mẹ 
Sống 
cùng gia 
đình khác 
Khác 10% 
7 Bảohiểm 
nhânmạng 
>100 
triệu 
50-100 
triệu 
30-50 
triệu 
<30 
triệu 
 10% 
8 Tínhchất 
côngviệchiện 
tại 
Quảnlý, 
điều 
hành 
Chuyên 
môn 
Laođộng 
được đào 
tạonghề 
Lao 
động 
thờivụ 
Thất 
nghiệp 
10% 
9 Thờigianlàm 
côngviệchiện 
tại 
>7năm 5-7 
năm 
3-5năm 1-3năm <1năm 10% 
10 Rủironghề 
nghiệp 
Thấp Trung 
bình 
 Cao 10% 
PhầnII:Quanhệvớingânhàng 
1 Thunhập >10 5–10 3–5 triệu 1–3triệu <1 triệu 30% 
 ròng ổn định 
hàng tháng 
triệu 
đồng 
triệu 
đồng 
đồng đồng đồng 
2 Tỷ lệ số tiền 
phải trả/Thu 
75% 30% 
3 Tình hình trả 
nợ gốc và lãi 
Luôn trả 
nợ đúng 
Đã bị 
gia hạn 
Đã có nợ 
quá 
Đã có 
nợ quá 
Hiện 
đang có 
25% 
4 Các dịch vụ 
sử dụng 
Tiền gửi
và các 
 Chỉ sử 
dụng dịch 
 Không 
sử dụng 
15% 
Căn cứ vào tổng điểm đạt được đã nhân với trọng số để xếp hạng khách hàng cá nhân 
theo mười mức giảm dần từ AAA đến D như trình bày trong Bảng 1.2 
Với mỗi mức xếp hạng sẽ có cách đánh giá rủi ro tương ứng. 
Bảng1.2:HệthốngkýhiệuXHTDcánhâncủaBIDV 
Điểm Xếphạng Đánhgiáxếphạng 
95-100 AAA 
Rủirothấp 90-94 AA 
85-89 A 
80-84 BBB 
Rủirotrungbình 70-79 BB 
60-69 B 
50-59 CCC 
Rủirocao 40-49 CC 
35-39 C 
<35 D 
(Nguồn:NgânhàngđầutưvàpháttriểnViệtNam) 
Mô hình xếp hạng khoản vay cá nhân trong hệ thống XHTD của BIDV là một ma trận 
kết hợp giữa kết quả XHTD với kết quả đánh giá tài sản đảm bảo như trình bày trong 
Bảng 1.4. Việc đánh giá tài sản đảm bảo cũng được chấm điểm theo ba chỉ tiêu là loại tài 
sản, tỷ suất giữa giá trị tài sản so với khoản vay, rủi ro gảm giá trị tài sản đảm bảo như 
trình bày trong Bảng 1.3. Căn cứ vào tổng điểm đã chấm cho tài sản đảm bảo để xếp loại 
theo ba mức A, B, C như trình bày trong Bảng 1.5 
Bảng1.3:CácchỉtiêuchấmđiểmtàisảnđảmbảocủaBIDV 
Chỉtiêu Điểm 
100 75 50 25 0 
(Nguồn:NgânhàngđầutưvàpháttriểnViệtNam) 
1 Loạitàisảnđảm 
bảo 
Tài khoản 
tiền gửi, 
giấy tờ có 
giá do 
Chính phủ 
hoặc BIDV 
pháthành 
Giấytờcó 
giádo tổ 
chức phát 
hành (Trừ 
cổphiếu) 
Bất 
động 
sản 
(Nhà 
ở) 
Bất 
độngsản 
(Không 
phảinhà 
ở),động 
sản, cổ 
phiếu 
Không 
có tài 
sản 
đảm 
bảo 
2 Giátrịtàisảnđảm 
bảo/Tổngnợ vay 
>200% 150-200% 100- 
150% 
70- 
100% 
<70% 
3 Rủirogiảmgiátài 
sảnđảm bảotrong 
2nămgầnđây 
0%hoặccó 
xu hướng 
tăng 
1-10% 10- 
30% 
30-50% >50% 
(Nguồn:NgânhàngđầutưvàpháttriểnViệtNam) 
Bảng1.4: Ma trậnkếthợpgiữakếtquảXHTDvớikếtquảđánhgiátàisản 
đảmbảocủaBIDV 
ĐánhgiáTSĐB 
XHTD 
A 
B 
C 
AAA 
Xuấtsắc 
Tốt 
Trungbình AA 
A 
BBB 
Tốt 
Trungbình 
Trungbình 
/ 
Từchối 
BB 
B 
CCC Trungbình 
/ 
Từchối 
Từchối CC 
C 
D 
(Nguồn:NgânhàngđầutưvàpháttriểnViệtNam) 
Bảng1.5:HệthốngkýhiệuđánhgiátàisảnđảmbảocủaBIDV 
Điểm Mứcxếploại Đánhgiátàisảnđảmbảo 
225-300 A Mạnh 
75-224 B Trungbình 
<75 C Thấp 
(Nguồn:NgânhàngđầutưvàpháttriểnViệtNam) 
b. Xếp hạng tín dụng đối với các khoản vay của doanh nghiệp. 
Các chỉ tiêu tài chính được đánh giá dựa theo khung hướng dẫn của NHNN và có điều 
chỉnh vài hệ số thống kê ngành theo tính toán từ dữ liệu thông tin tín dụng của BIDV. 
Các chỉ tiêu phi tài chính được xây dựng nhằm bổ sung cho các chỉ tiêu tài chính. Mỗi chỉ 
tiêu đánh giá có năm khoảng giá trị chuẩn tương ứng là năm mức điểm 20, 40, 60, 80, 
100 (Điểm ban đầu). Tùy theo mức độ quan trọng mà giữa các chỉ tiêu và nhóm chỉ tiêu 
có trọng số khác nhau. Căn cứ tổng điểm đạt được sau khi đã nhân điểm ban đầu với 
trọng số để xếp loại. 
Doanh nghiệp được phân loại theo ba nhóm quy mô lớn, vừa và nhỏ. Mỗi nhóm quy 
mô sẽ được chấm điểm theo hệ thống gồm mười bốn chỉ tiêu tài chính tương ứng với bốn 
nhóm ngành nông - lâm – ngư nghiệp, thương mại d ịch vụ, xây dựng, công nghiệp. Hệ 
thống chỉ tiêu tài chính gồm : Nhóm chỉ tiêu thanh khoản (Khả năng thanh toán hiện 
hành, khả năng thanh toán nhanh, khả năng thanh toán tức thời), nhóm chỉ tiêu hoạt 
động (Vòng quay vốn lưu động, vòng quay hàng tồn kho, vòng quay các khoản phải thu, 
hiệu suất sử dụng tài sản cố định), nhóm chỉ tiêu cân nợ (Tổng nợ so với tổng tài sản, nợ 
dài hạn so với vốn chủ sở hữu), nhóm chỉ tiêu thu nhập (Lợi nhuận gộp so với doanh 
thu thuần, lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh so với doanh thu thuần, lợi nhuận sau thuế 
so với vớn chủ sở hữu, lợi nhuận sau thuế so với tổng tài sản bình quân, lợi nhuận trước 
thuế và lãi vay so với chi phí trả lãi). Hệ thống chỉ tiêu phi tài chính gồm bốn mươi chỉ 
tiêu đánh giá thuộc năm nhóm gồm khả năng trả nợ từ lưu chuyển tiền tệ, trình độ quản 
lý, quan hệ với ngân hàng, các nhân tố bên ngoài, các đặc điểm hoạt động khác như trình 
bày tại Bảng 1.6. 
Bảng1.6: ĐiểmtrọngsốcácchỉtiêuphitàichínhchấmđiểmXHTDdoanh 
nghiệ