- Nhóm tác giả See Obstfeld, Sambaugh và Taylor (2005) đã nghiên cứu dựa trên dữ
liệu của nhóm các nước đang phát triển trong thời gian từ giữa đến cuối những năm 80 và
Joshua Aizenman trong bài “Bộ ba bất khả thi” - “The Impossible Trinity (aka The
Impossible trilemma -2010) đã nghiên cứu dựa trên dữ liệu của 50 quốc gia (trong đó 32
quốc gia thuộc nhóm nước đang phát triển) trong giai đoạn 1970-2008 đã cùng đưa ra kết
luận: Từ giữa những năm 1980, hầu hết các nước đang phát triển đều thích chọn lựa mục
tiêu: chính sách tiền tệ độc lập và chế độ tỷ giá hối đoái cố định, đóng cửa thị trường tài
chính – thị trường tài chính tự cung tự cấp.
- Đồng quan điểm như trên, nhóm 3 tác giả Aizenman, Chinn, Ito trong các bài
nghiên cứu năm 2008, 2009, 2010 và 2011 dựa trên dữ liệu từ 1970-2006 của 179 quốc
gia, đã kết luận rằng:
+ Sau những năm 80, các nước đang phát triển không phải thị trường mới nổi
(NON-EMG) vẫn kiên trì với chính sách tỷ giá ổn định ở mức cao, theo sau là độc lập
tiền tệ trong suốt thời kỳ quan sát và không có một xu hướng rõ ràng trong hội nhập tài
chính.
+ Các nước mới nổi (EMG) không ngừng hội nhập đồng thời chấp nhận đánh mất
độc lập tiền tệ, và tỷ giá có xu hướng linh hoạt hơn.
9 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2740 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Xu hướng lựa chọn trong bộ ba bất khả thi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Môn: Tài Chính Quốc Tế - GVHD: TS.Nguyễn Khắc Quốc Bảo 2012
Nhóm thực hiện: Nhóm 1
Tiểu luận
XU HƯỚNG LỰA CHỌN TRONG BỘ BA BẤT KHẢ THI
Môn: Tài Chính Quốc Tế - GVHD: TS.Nguyễn Khắc Quốc Bảo 2012
Nhóm thực hiện: Nhóm 1
Các lý thuyết về bộ ba bất khả thi hầu hết đều mang cùng một ý nghĩa, nó cho thấy
con đường phát triển của mỗi quốc gia ít nhiều phải tuân theo một quy luật. Đó chính là
quy luật đánh đổi giữa các biến trong bộ ba bất khả thi, đó là: chính sách tiền tệ độc lập,
chế độ tỷ giá cố định và tự do hóa dòng vốn. Như vậy, xu hướng lựa chọn trong bộ ba
bất khả thi của mỗi nhóm quốc gia như thế nào? Liệu sự lựa chọn có thay đổi theo thời
gian hay không?
1. Nhóm các nước đang phát triển:
- Nhóm tác giả See Obstfeld, Sambaugh và Taylor (2005) đã nghiên cứu dựa trên dữ
liệu của nhóm các nước đang phát triển trong thời gian từ giữa đến cuối những năm 80 và
Joshua Aizenman trong bài “Bộ ba bất khả thi” - “The Impossible Trinity (aka The
Impossible trilemma -2010) đã nghiên cứu dựa trên dữ liệu của 50 quốc gia (trong đó 32
quốc gia thuộc nhóm nước đang phát triển) trong giai đoạn 1970-2008 đã cùng đưa ra kết
luận: Từ giữa những năm 1980, hầu hết các nước đang phát triển đều thích chọn lựa mục
tiêu: chính sách tiền tệ độc lập và chế độ tỷ giá hối đoái cố định, đóng cửa thị trường tài
chính – thị trường tài chính tự cung tự cấp.
- Đồng quan điểm như trên, nhóm 3 tác giả Aizenman, Chinn, Ito trong các bài
nghiên cứu năm 2008, 2009, 2010 và 2011 dựa trên dữ liệu từ 1970-2006 của 179 quốc
gia, đã kết luận rằng:
+ Sau những năm 80, các nước đang phát triển không phải thị trường mới nổi
(NON-EMG) vẫn kiên trì với chính sách tỷ giá ổn định ở mức cao, theo sau là độc lập
tiền tệ trong suốt thời kỳ quan sát và không có một xu hướng rõ ràng trong hội nhập tài
chính.
+ Các nước mới nổi (EMG) không ngừng hội nhập đồng thời chấp nhận đánh mất
độc lập tiền tệ, và tỷ giá có xu hướng linh hoạt hơn.
Môn: Tài Chính Quốc Tế - GVHD: TS.Nguyễn Khắc Quốc Bảo 2012
Nhóm thực hiện: Nhóm 1
+ Xu hướng hiện tại, các nước đang phát triển lựa chọn một mô hình trung gian
với chế độ tỷ giá thả nổi có quản lí bằng cách nỗ lực gia tăng dự trữ ngoại hối, chính sách
tiền tệ độc lập vừa phải và hội nhập tài chính.
- Vijay Joshi trong bài nghiên cứu “ Ấn Độ và bộ ba bất khả thi” lấy số liệu từ năm
1990-2000 cũng đưa ra kết luận là Ấn Độ trong suốt thập kỷ đã đối phó với bộ ba bất
khả thi bằng cách áp dụng một tỷ giá hối đoái trung gian kết hợp với kiểm soát dòng
vốn.
- Ila Patnaik và Ajay Shah trong bài báo “ Châu Á đương đầu với bộ ba bất khả thi”
- “Asia confronts the Impossible Trinity” (2010) dựa trên dữ liệu trong khoảng thời gian
từ 1970-2008 của 11 quốc gia châu Á đã đưa ra kết luận là sự phản ứng của 11 quốc gia
Châu Á đối với bộ ba bất khả thi khá đa dạng:
+ Ấn Độ và Trung Quốc trước đây đã lựa chọn mở cửa tài khoản vốn thấp và chế độ
tỷ giá hối đoái cố định cùng một chính sách tiền tệ độc lập. Gần đây (từ năm 2008 trở về
sau), Trung Quốc và Ấn Độ đã và đang phấn đấu để giữ tỷ giá hối đoái ít linh hoạt kết
hợp với chính sách mở cửa tài khoản vốn khá mạnh. Có phải hai nước này đã bảo vệ
chính sách tiền tệ độc lập? Phân tích cho thấy, mặc dù đã dùng chính sách vô hiệu hóa
hoặc các kỹ thuật can thiệp khác dựa trên kiểm soát vốn hoặc áp chế tài chính, thì họ đã
thất bại trong việc thực hiện chính sách tiền tệ độc lập. Bởi cách duy nhất để có được tỷ
giá hối đoái cố định là phải duy trị một tỷ lệ lãi suất rất thấp trong điều kiện thực tế.
+ Nhóm các nước Malaysia, Đài Loan, Thái Lan, Singapore, Hồng Kông có xu
hướng mở cửa tài khoản vốn mạnh, kết hơp với tỷ giá ít linh hoạt hơn so với Ấn Độ.
+ Trong số 11 nước Châu Á được nghiên cứu, Hàn Quốc có nhiều tiến bộ nhất với mô
hình chủ đạo của nền kinh tế công nghiệp. Hàn Quốc mở cửa vốn nhiều hơn và hệ thống
tài chính phát triển tốt hơn và tỷ giá hối đoái gần như linh hoạt nhất ở Châu Á.
+ Đối với Philippines và Indonesia , mở cửa tài khoản vốn ở mức thấp. Đây là hai nền
kinh tế có các biến dạng của các chính sách tiền tệ liên quan đến tỷ giá hối đoái cố định là
thấp nhất. Mặc dù vậy, các nền kinh tế này đã lựa chọn chính sách để có một chế độ tỷ
giá hối đoái linh hoạt đáng kể.
Môn: Tài Chính Quốc Tế - GVHD: TS.Nguyễn Khắc Quốc Bảo 2012
Nhóm thực hiện: Nhóm 1
- Irma Rosenburg trong bài nghiên cứu “ Bộ ba bất khả thi và những ràng buộc
trong việc lựa chọn chính sách” - “The impossible trinity and constraints on policy
options” (2010) cũng cho ra kết luận tương tự. Gần đây, hầu hết các quốc gia Châu Á đều
duy trì một chế độ tỷ giá thả nổi có quản lí theo kiến nghị của IMF. Tuy nhiên, một số
quốc gia vẫn cho phép tỷ giá hối đoái linh động hơn thời gian trước. Riêng Trung Quốc
duy trì chính sách tiền tệ với mục tiêu ổn định giá trị đồng nhân dân tệ.
- Stephen Grenville (2011) trong bài “Bộ ba bất khả thi và các dòng vốn ở khu vực
Đông Á” - “The impossible Trinity and Capital Flows in East Asia” cho rằng mô hình bộ
ba bất khả thi đã không còn phù hợp với bối cảnh hiện tại. Dẫn chứng bằng trường hợp
cụ thể của ba quốc gia sau:
+ Singapore: Điều hành chính sách tiền tệ độc lập, duy trì một hệ thống dải băng
tỷ giá bằng cách sử dụng dự trữ ngoại hối và hội nhập tài chính.
+ Trung Quốc: thực hiện chính sách tiền tệ độc lập, tự do hóa tài chính và duy trì
tỷ giá hối đoái cố định bằng cách sử dụng dự trữ ngoại hối.( Dự trữ ngoại hối của TQ đă
tăng hơn 50% GDP)
+ Thái Lan đã duy trì tỷ lệ lãi suất phù hợp. Và với dự trữ ngoại hối gia tăng vào
khoảng một nửa GDP hàng năm, đã có thời gian Thái Lan có những can thiệp mạnh mẽ
nhằm chống lại sự biến động mạnh trong tỷ giá hối đoái gia tăng.
Từ đó, ông kết luận rằng: Thuyết bộ ba bất khả thi áp dụng khi các giả định là đơn
giản, thực tế phức tạp hơn. Ngoài sự ảnh hưởng của chênh lệch lãi suất đến dòng chảy
vốn đầu tư, còn có những nhân tố khác ảnh hưởng (đánh giá rủi ro, ý muốn chủ quan…).
Các thị trường mới nổi vẫn rất nhỏ bé và dễ bị tổn thương khi có bất kỳ sự thay đổi nhỏ
nào. Do đó, cần phải xây dựng những chính sách giúp cố đình tỷ giá nhưng vẫn đảm bảo
thu hút vốn đầu tư, hạn chế tối thiểu sự sụp đổ.
Kết luận:
Nhìn chung, trong nhiều thập kỷ qua, nhóm các nước đang phát triển có nhiều sự thay
đổi trong chính sách điều hành vĩ mô của mình để tìm ra hướng giải quyết bộ ba bất khả
thi. Tuy nhiên, chưa có một quốc gia nào thực sự giải quyết được vấn đề này. Nếu như
Môn: Tài Chính Quốc Tế - GVHD: TS.Nguyễn Khắc Quốc Bảo 2012
Nhóm thực hiện: Nhóm 1
trước đây, hầu hết các quốc gia đang phát triển đều lựa chọn mục tiêu chính sách tiền tệ
độc lập, duy trì chế độ tỷ giá hối đoái cố định và từ bỏ hội nhập tài chính thì theo thời
gian, xu hướng lựa chọn đó đã hoàn toàn thay đổi. Dựa theo nghiên cứu của Joshua
Aizenman trong bài “The Impossible Trinity (aka The Impossible trilemma -2010) đã
nghiên cứu dựa trên dữ liệu của 50 quốc gia (trong đó 32 quốc gia thuộc nhóm nước đang
phát triển) trong giai đoạn 1970-2008, chúng ta theo dõi đồ thị sau:
Có thể thấy, có sự khác biệt giữa thị trường mới nổi (EMG) và các thị trường đang phát
triển không nằm trong nhóm mới nổi (NON-EMG). So sánh hai biểu đồ cho thấy thị
trường EMG di chuyển hướng về phía: chế độ tỷ giá linh hoạt hơn, hòa nhập tài chính
cao hơn và chính sách tiền tệ độc lập kém hơn, hơn là các nước NON-EMG. Đồ thị cho
thấy các nước EMG có xu hướng hội tụ đến một điểm trung gian ở giữa 3 chỉ số. Ngược
lại, các nước NON-EMG, trung bình, không biểu lộ sự hội tụ như vậy. Cả hai nhóm,
mức độ ổn định tỷ giá suy giảm từ đầu những năm 1970 đến đầu những năm 1990, nó gia
tăng trong khoảng 15 năm gần đây. Tuy nhiên, khủng hoảng toàn cầu năm 2008 có thể
Emerging Market Countries
( EMG)
Non-Emerging Marketdeveloping
Countries (NON-EMG)
Môn: Tài Chính Quốc Tế - GVHD: TS.Nguyễn Khắc Quốc Bảo 2012
Nhóm thực hiện: Nhóm 1
làm cho một vài nước hướng đến tỷ giá linh hoạt cao hơn. Vào thời kỳ cuối của mẫu, các
nước NON-EMG biểu lộ mức độ của sự ổn định tỷ giá và độc lập tiền tệ lớn hơn, nhưng
mức độ hòa nhập tài chính thấp hơn khi so sánh với các nước EMG.
2. Nhóm các nước phát triển:
- Theo nghiên cứu của Aizenman, Chinn, Ito (2009, 2011), ưu tiên hàng đầu của các
nước công nghiệp phát triển thay đổi theo thời gian, đầu tiên là độc lập tiền tệ, tiếp đến là
hội nhập tài chính vào những năm 90 và cho đến nay là duy trì mục tiệu ổn định tỷ giá ở
mức cao, cùng với tự do hóa tài chính rộng rãi đã làm mất đi sự độc lập về tiền tệ.
- Irma Rosenburg trong bài nghiên cứu “The impossible trinity and constraints on
policy options” (2010) chỉ ra rằng : ngày nay, tất cả các nước phát triển ngoại trừ Đan
Mạch đều duy trì một chế độ tỷ giá neo cố định hoặc thả nổi. Một ví dụ cụ thể là trường
hợp của Thụy Điển. Trước năm 1992, Thụy Điển duy trì chế độ tỷ giá hối đoái cố định
kết hợp với đóng cửa tài khoản vốn. Tuy nhiên, tỷ giá cố định đã không thành công trong
việc nhằm bình ổn thị trường mức lạm phát vẫn còn quá cao. Đến năm 1992 chế độ tỷ giá
cố định đã sụp đổ sau khi một loạt các hoạt động đầu cơ bùng nổ đồng Krona được phép
thả nổi, nền kinh tế Thụy Điển được cải thiên đáng kể: lạm phát đi xuống và gần với lạm
phát mục tiêu khoảng 2%, GDP khoảng 3%...Như vậy trong giai đoạn này Thụy Điển đã
lựa chọn mục tiêu tự do hóa dòng vốn và tỷ giá linh hoạt.
- Joshua Aizenman trong bài “The Impossible Trinity (aka The Impossible trilemma
-2010) đã nghiên cứu dựa trên dữ liệu của 50 quốc gia (trong đó 32 quốc gia thuộc nhóm
nước đang phát triển) trong giai đoạn 1970-2008 đã dẫn chứng cho thấy:
+ Mỹ trong 3 thập kỷ vừa qua đã chọn lựa: chính sách tiền tệ độc lập, hòa nhập tài
chính và cho tỷ giá thả nổi.
+ Khu vực Cộng đồng Châu Âu và Argentina những năm 1990 đã chọn: duy trì tỷ giá
ổn định, hòa nhập tài chính nhưng từ bỏ chính sách tiền tệ độc lập.
Môn: Tài Chính Quốc Tế - GVHD: TS.Nguyễn Khắc Quốc Bảo 2012
Nhóm thực hiện: Nhóm 1
Kết luận: (Biểu đồ lấy từ nghiên cứu của Joshua Aizenman (2010) đã nêu trên)
Nhìn từ biểu đồ, có thể thấy hầu hết các nước công nghiệp hóa trước đây ưu tiên mục
tiêu độc lập tiền tệ. Tuy nhiên từ những năm 90, các nước này đã tăng cường mở cửa tài
khoản vốn. Và từ đây có một nhóm các quốc gia lựa chọn mục tiêu tự do hóa tài chính và
tỳ giá hối đoái cố định mà chấp nhận mất đi sự độc lập tiền tệ (Khu vực đồng tiền chung
Châu Âu), và nhóm các quốc gia còn lại thì duy trì chế độ tỷ giá thả nổi kết hợp với hội
nhập tài chính và duy trì chính sách tiền tệ độc lập (Mỹ, Thụy Điển).
Kết luận chung:
Tổng hợp lại, rất khó để xác định mô hình lựa chọn nào là tối ưu nhất. Tùy vào đặc
điểm thị trường tài chính của mỗi một quốc gia mà chính phủ mỗi nước có thể đưa ra sự
lựa chọn cho mình.
Riêng đối với nhóm các nước đang phát triển, từ các bằng chứng thực nghiệm,
Aizenman, Chinn và Ito trong các bài nghiên cứu năm 2008, 2009, 2010 và 2011 đã vạch
ra một con đường mới cho chính phủ các nước đang phát triển trong việc lựa chọn mẫu
hình bộ ba bất khả thi. Họ thấy rằng các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước mới
nổi đã thể hiện một xu hướng mới khi đạt tới trạng thái trung gian giữa ba chính sách
mục tiêu: hội nhập tài chính nhưng không quên kiểm soát vốn, độc lập tiền tệ vừa phải,
Môn: Tài Chính Quốc Tế - GVHD: TS.Nguyễn Khắc Quốc Bảo 2012
Nhóm thực hiện: Nhóm 1
và cơ chế tỷ giá biến động trong một biên độ mục tiêu cho phép bằng cách tăng cường
kho dự trữ ngoại hối như một công cụ để quản lý tỷ giá. Minh họa bằng đồ thị sau:
Môn: Tài Chính Quốc Tế - GVHD: TS.Nguyễn Khắc Quốc Bảo 2012
Nhóm thực hiện: Nhóm 1
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ila Patnaik and Ajay Shah (2010), “Asia confronts the Impossible Trinity”, Asian
Development Bank Working Paper.
2. Stephen Grenville (2011), “The Impossible Trinity and Capital Flows in East
Asia”, Asian Development Bank Working Paper.
3. Joshua Aizenman (2010), “The Impossible Trinity (aka The Impossible
trilemma)”.
4. Joshua Aizenman ,Menzie D.Chinn, Hiro Ito (2011), “Trilemme configurations in
Asia in an Era of Financial Globalization”.
5. Joshua Aizenman, Hiro Ito (2011), “The “Impossible Trinity,” the International
Monetary Framework, and the Pacific Rim”.
6. Joshua Aizenman, Hiro Ito (2011),Surfing the Waves of Globalization” Asia and
Financial Globalization in the Context of the Trilemma”
7. Joshua Aizenman ,Menzie D.Chinn, Hiro Ito (2009), “The “Impossible Trinity”
Hypothesis in an Era of Global Imbalance: Measure and Testing”.
8. Joshua Aizenman ,Menzie D.Chinn, Hiro Ito (2008), “The “Impossible Trinity”
Hypothesis in an Era of Global Imbalance: Measure and Testing”
9. Irma Rosenburg (2010), “The impossible trinity and constraints on policy
options”.
10. Vijay Joshi ( 2003), “India and The Impossible Trinity”.
11. Koichi Hamada and Yosuke Takeda, (2001), “The choice between flexible
Exchange rate, Capital control and The Currency Board in Asia contries: A
Prespective from the “Impossible Trinity”