LỜI MỞ ĐẦU
Đối với các nước đang phát triển, vốn có vai trò đặc biệt quan trọng và cần thiết để giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội khác. Xuất phát từ nhu cầu thực tế đó, vốn ODA ra đời nhằm giúp các nước nghèo giải quyết tình trạng thiếu vốn. Nguồn vốn này chủ yếu được đầu tư vào những lĩnh vực giữ vai trò đầu tàu của nền kinh tế, từ đó kéo theo sự phát triển mạnh của các ngành khác. Trên thực tế vai trò của ODA hết sức quan trọng. Có thể minh chứng điều đó qua thực tế ở Châu Âu sau chiến tranh thế giới thứ hai, nhờ vào nguồn vốn viện trợ của Mỹ mà EU đạt được sự tăng trưởng ngoạn mục, trở về thời thịnh vượng như trước chiến tranh, thậm chí còn phát triển hơn trước. Nhật Bản và Hàn Quốc cũng là hai nước nhận được nhiều viện trợ của Mỹ. Kết quả sau một thời gian nhất định, Nhật Bản trở thành cường quốc kinh tế sau Mỹ; còn Hàn Quốc cũng vươn lên thuộc nhóm các nước công nghiệp mới – NICs.
41 trang |
Chia sẻ: thanhlinh222 | Lượt xem: 48088 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Xu hướng oda trên thế giới hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG CƠ SỞ 2
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
*********
Chuyên ngành: Kinh tế đối ngoại
Môn: Đầu tư quốc tê
TIỂU LUẬN
XU HƯỚNG ODA TRÊN THẾ GIỚI HIỆN NAY
TP.Hồ Chí Minh, Tháng 8 năm 2017
Danh sách thành viên nhóm
STT
Họ và tên
MSSV
Đánh giá
1
Nuyễn Thị Tú Lịch
1501015250
2
Tống Nguyễn Nhật Linh
1501015269
3
Nguyễn Văn Lợi
1501015285
4
Phạm Thị Hồng Mai
1501015298
5
Trần Thị Diễm My
1501015318
6
Hoàng Thị Oanh
1501015414
7
Nguyễn Thanh Phương
1501015436
8
Nguyễn Văn Thành
1501015494
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Tên Bảng, Biểu đồ
Nội dung
Số trang
Biểu đồ 2.1.
Lượng vốn ODA ròng năm 1980-2015 tính theo tỉ giá hiện tại
5
Biểu đồ 2.2.
ODA ròng theo % GNI của DAC và một số nước 2000-2016
6
Biểu đồ 2.3.
Tỉ trọng các ngành sử dụng nguồn vốn ODA từ các nước DAC
6
Bảng 2.1.
Danh sách của DAC về các nước nhận vốn ODA vào năm 2014-2016
7
Biểu đồ 4.1.
Cơ cấu vốn ODA và vốn vay ưu đãi ký kết theo nhà tài trợ thời kỳ 2011 - 2015
23
Bảng 4.1.
ODA ký kết theo ngành và lĩnh vực thời kỳ 2011 - 2015
24
Bảng 4.2.
Báo cáo hoàn thành dự án (PCR) và Báo cáo kiểm toán thực hiện hoàn thành dự án (PPAR) của Nhóm 6 Ngân hàng Phát triển
26
Biểu đồ 4.2.
Kết quả đánh giá hoạt động trên cơ sở cấp quốc gia trên cơ sở hoàn thành dự án (PCR) giai đoạn 2005-2014
26
Bảng 4.3
Tỷ trọng vốn ODA và vốn vay ưu đãi so với GDP, Tổng vốn đầu tư toàn xã hội và Tổng vốn đầu tư từ NSNN thời kỳ 2011 - 2015
27
Bảng 4.4.
Vốn ODA ký kết phân bổ theo vùng thời kỳ 2011 - 2015
34
Biểu đồ 4.5.
Nhu cầu huy động vốn ODA và vốn vay ưu đãi của các Bộ, ngành và địa phương thời kỳ 2016 - 2020
36
Mục Lục
LỜI MỞ ĐẦU
Đối với các nước đang phát triển, vốn có vai trò đặc biệt quan trọng và cần thiết để giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội khác. Xuất phát từ nhu cầu thực tế đó, vốn ODA ra đời nhằm giúp các nước nghèo giải quyết tình trạng thiếu vốn. Nguồn vốn này chủ yếu được đầu tư vào những lĩnh vực giữ vai trò đầu tàu của nền kinh tế, từ đó kéo theo sự phát triển mạnh của các ngành khác. Trên thực tế vai trò của ODA hết sức quan trọng. Có thể minh chứng điều đó qua thực tế ở Châu Âu sau chiến tranh thế giới thứ hai, nhờ vào nguồn vốn viện trợ của Mỹ mà EU đạt được sự tăng trưởng ngoạn mục, trở về thời thịnh vượng như trước chiến tranh, thậm chí còn phát triển hơn trước. Nhật Bản và Hàn Quốc cũng là hai nước nhận được nhiều viện trợ của Mỹ. Kết quả sau một thời gian nhất định, Nhật Bản trở thành cường quốc kinh tế sau Mỹ; còn Hàn Quốc cũng vươn lên thuộc nhóm các nước công nghiệp mới – NICs. Trong quá trình đổi mới, tình trạng thiếu vốn cho phát triển đã được giải quyết một phần đáng kể khi Việt Nam bắt đầu nhận viện trợ ODA từ năm 1993. Đây là nguồn vốn bổ sung quan trọng: trung bình đóng góp 11% tổng vốn đầu tư cho toàn xã hội, trong giai đoạn 2006-2010. Các nước và vùng lãnh thổ như Trung Quốc, Đài Loan nhờ vào nguồn vốn ODA và việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này đã tạo ra một nền kinh tế phát triển cao và ngày nay bắt đầu trở thành nước cung cấp viện trợ cho các nước khác. Ngoài ra, viện trợ ODA cũng đóng góp một phần tỷ lệ đáng kể vào tăng trưởng GDP của các nước đang phát triển, bình quân 1-2%/năm. Như vậy, có thể thấy viện trợ ODA sẽ giúp giải quyết phần nào “cơn khát vốn” này và mang lại luồng sinh khí mới cho các nước đang phát triển và sẽ làm “thay da đổi thịt” cho nhiều nền kinh tế nếu ODA được sử dụng một cách hiệu quả.
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ ODA
Khái niệm
Hiện nay trên thế giới có rất nhiều quan điểm khác nhau về ODA nhưng nói chung những quan điểm ấy đều dẫn chung đến một bản chất. Theo cách hiểu chung nhất thì ODA là các khoản viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay với những điều kiện ưu đãi của các cơ quan tài chính thuộc các tổ chức Quốc tế các nước, các tổ chức Phi chính phủ nhằm hỗ trợ cho sự phát triển và thịnh vượng của các nước khác (không tính đến các khoản viện trợ cho mục đích thuần tuý quân sự ).
Nghị định 87-CP của chính phủ Việt Nam quy định về nguồn vốn ODA là sự hợp tác phát triển giữa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với một hay nhiều Quốc gia, tổ chức Quốc tế. Hình thức của sự hợp tác có thể là hỗ trợ cán cân thanh toán, hỗ trợ theo chương trình, hỗ trợ theo kỹ thuật hoặc theo dự án.
Phân loại
Phân loại theo nước nhận: theo phân loại này thì ODA có 2 loại:
ODA thông thường: hỗ trợ cho các nước có thu nhập bình quân đầu người thấp.
ODA đặc biệt: hỗ trợ cho các nước đang phát triển với thời hạn cho vay ngắn, lãi suất cao hơn.
Phân loại theo nguồn cung cấp: bao gồm
ODA song phương: là các khoản viện trợ trực tiếp từ nước này tới nước khác thông qua việc ký kết giữa chính phủ hai nước.
ODA đa phương: Là viện trợ chính thức của một tổ chức quốc tế (IMF, WB1...) hay tổ chức khu vực (ADB, EU,...) hoặc của một chính phủ của một nước dành cho chính phủ của một nước nào đó, nhưng có thể được thực hiện thông qua các tổ chức đa phương như chương trình phát triển Liên hiệp quốc ( UNDP ), quĩ nhi đồng Liên Hiệp quốc ( UNICEF )... cũng có thể không.
Phân loại ODA theo tính chất nguồn vốn
Viện trợ không hoàn lại: bên nước ngoài cung cấp viện trợ ( mà bên nhận viện trợ không phải thanh toán lại ) để bên nhận có thể thực hiện các chương trình, dự án đã được thỏa thuận giữa hai bên như: hỗ trợ kỹ thuật ( thực hiện việc chuyển giao công nghệ cho nước nhận việc trợ ), bằng hiện vật ( lương thực, thuốc chữa bênh, ).
Viện trợ có hoàn loại: nhà tài trợ cung cấp cho nước cần vốn một khoản tiền ( tùy theo quy mô và mục đích đầu tư ) với mức lãi suất ưu đãi và thời gian hoàn trả thích hợp, các ưu đãi thường là: lãi suất thấp, thời gian vay dài ( 20-30 năm ),
ODA cho vay hỗn hợp: là các khoản ODA kết hợp một phần ODA không hoàn lại và một phần tín dụng thương mại theo các điều kiện của tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển mạnh hơn cả về đời sống kinh tế xã hội.
Đặc điểm
ODA là nguồn vốn mang tính chất ưu đãi: vì bao giờ cũng có phần không hoàn lại là chủ yếu, còn phần cho vay chủ yếu là cho vay ưu đãi với lãi suất thấp hơn lãi suất ngân hàng rất nhiều ( thường dưới 3% một năm ) nhưng thời gian sử dụng vốn rất dài ( thường là 20-50 năm ).
ODA luôn bị ràng buộc trực tiếp hoặc gián tiếp: Đi kèm với ODA bao giờ cũng có những ràng buộc nhất định về kinh tế , chính trị. Bao gồm: nước viện trợ phải đáp ứng yêu cầu cho bên cấp viện trợ như việc thay đổi chính sách đối ngoại, chính sách kinh tế, thể chế chính trị, cho phù hợp với mục đích của bên cấp viện trợ.
Khả năng gây nợ cho nước nhận đầu từ của ODA: Khi tiếp nhận và sử dụng nguồn vốn ODA do tính chất ưu đãi nên gánh nặng nợ thường chưa xuất hiện. Một số nước do không sử dụng hiệu quả ODA có thể tạo nên sự tăng trưởng nhất thời, nhưng sau một thời gian lại lâm vào vòng nợ nần do không có khả năng trả nợ. Vấn đề là ở chỗ vốn ODA không có khả năng đầu tư trực tiếp cho sản xuất, nhất là cho xuất khẩu trong khi việc trả nợ lại dựa vào xuất khẩu thu ngoại tệ. Do đó, trong khi hoạch định chính sách sử dụng ODA phải phối hợp với các nguồn vốn để tăng cường sức mạnh kinh tế và khả năng xuất khẩu.
CHƯƠNG II: BIẾN ĐỘNG VÀ XU HƯỚNG ODA TRÊN THẾ GIỚI HIỆN NAY
2.1. Biến động của ODA
2.1.1. Sự biến động trong lượng vốn
Biểu đồ 2.1. Lượng vốn ODA ròng năm 1980-2015 tính theo tỉ giá hiện tại
(Đơn vị: Tỷ USD) (Nguồn:
Giai đoạn 1980-1990: Hỗ trợ phát triển chính thức tăng tương đối đều, tỉ trọng ODA nằm trong khoảng 29,06 tỷ USD đến 58,234 tỷ USD. Từ những năm 1990, giá trị ODA có sự giảm nhẹ do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng đầu những năm 1990 tác động đến nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, từ những năm 2000, dòng vốn ODA có dấu hiệu khởi sắc khi tăng tương đối đều với tốc độ cao. Cụ thể, trong giai đoạn 2000-2005, tổng giá trị vốn đã tăng hơn gấp đôi từ 49,831 tỷ USD lên 108,2 tỷ USD. Tuy vào năm 2008 có khủng hoảng tài chính, lượng vốn vẫn chỉ giảm nhẹ trong năm đó và tiếp tục tăng những năm sau. Từ đó đến hiện tại, tốc độ tăng trưởng của mức vốn ODA tương đối bền vững.
Nhìn chung, lượng vốn ODA tăng qua các năm, tuy nhiên mức độ tăng không ổn định, tuỳ thuộc vào tình hình thế giới nói chung và các quyết định trong việc viện trợ nói riêng.
Trong tổng số vốn viện trợ song phương, phần lớn vốn được cấp bởi các nước OECD/DAC, cụ thể năm 2015 là 131.555 tỷ USD ( theo số liệu của data.oecd.org) trên tổng 152,513 tỷ USD của toàn thế giới (tương đương 86,26%). DAC là các nước thuộc tổ chức OECD cam kết thường xuyên cung cấp vốn ODA, hiện nay gồm 30 thành viên. Ngoài ra, vốn viện trợ song phương còn được đóng góp một phần nhỏ từ các nước không thuộc DAC. Bên cạnh đó tồn tại ODA đa phương, là nguồn vốn từ các định chế tài chính và tổ chức quốc tế, cụ thể như: các cơ quan của UN, WB, IMF, ADB, AfDB,
2.1.2 Sự biến động theo tỉ lệ ODA và GNI
Biểu đồ 2.2.ODA ròng theo % GNI của DAC và một số nước 2000-2016 (nguồn data.worldbank.org) (đơn vị %)
Tuy tỉ trọng vốn ODA có xu hướng tăng, nhưng khi so tỉ lệ với tổng thu nhập quốc dân của các nước tài trợ lại có xu hướng không đổi. Khái niệm 0,7% ODA/GNI lần đầu được chấp nhận vào năm 1970 và được nhấn mạnh tầm quan trọng nhiều lần tại các hội nghị viện trợ và phát triển quốc tế. Cho đến nay, mục tiêu quốc tế nổi bật nhất trong lĩnh vực viện trợ là nâng cao vốn phát triển chính thức (ODA) bằng 0,7% thu nhập quốc dân của các nhà tài trợ. Tuy nhiên, tính đến thời điểm hiện tại, chỉ có một vài nước đã chạm và duy trì được chỉ tiêu này (bao gồm Na Uy,Thuỵ Điển, Hà Lan, Lúc-xăm-bua, Đan Mạch, UAE). Đặc biệt, các tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, tuy mới gia nhập DAC vào năm 2014, nhưng dựa vào chỉ số ODA/GNI đã cho thấy UAE xứng đáng được công nhận là một nhà tài trợ tầm cỡ thế giới.
2.1.3. Sự biến động trong cơ cấu ODA
2.1.3.1 Sự biến động trong lượng vốn đổ vô các ngành
2005 2015
Biểu đồ 2.3. Tỉ trọng các ngành sử dụng nguồn vốn ODA từ các nước DAC
Nguồn ODA có mặt ở hầu hết các lĩnh vực kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội. Các chương trình, dự án ODA đã góp phần tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo và cải thiện đời sống của nhân dân. Cơ cấu ODA ký kết vào các lĩnh vực như biểu đồ trên, trong đó, có thể thấy phát triển cơ sở hạ tầng và sản xuất vẫn luôn chiếm một vị trí trọng tâm trong tổng vốn ODA, bởi nó là nền móng thúc đẩy một nền kinh tế đi lên. Đặc biệt, cơ sở hạ tầng kinh tế (giao thông, liên lạc, mạng lưới phân phối, định chế tài chính và cung cấp năng lượng) tăng tỉ trọng mạnh qua các năm. Đa số các nước nhận ODA đang trong giai đoạn kinh tế phát triển nên việc xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại sẽ là yếu tố quan trọng thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Ngoài ra, viện trợ nhân đạo cũng có cơ cấu tăng, chứng tỏ các quốc gia ngày càng quan tâm đến các vấn đề phúc lợi xã hội.
2.1.3.2. Tỉ trọng ODA dành cho các khu vực
Trên là tổng hợp danh sách cách quốc giai nhận được ODA giai đoạn 2012 – 2013. Và theo như bảng thống kê thì Afghanistan chính là nước nhận được ODA nhiều nhất, theo sau chủ yếu là các nước thuộc Châu Phi như Algeria, Kenya, Algeria, và đông đảo các quốc gia thuộc khu vực có thu nhập thấp và trung bình thấp. Lượng vốn ODA dành cho các quốc gia này rất mạnh, và nó chủ yếu đến từ Mỹ và Nhật Bản. Chính đều này cũng cho thấy cả Mỹ và Nhật Bản đều muốn khẳng định tầm ảnh hưởng của mình tại đây. Ngoài ra, World Bank cũng tang hỗ trợ ODA cho các nước nhằm xóa bỏ tỷ lệ đói nghèo cũng như xây dựng các cơ sở hạ tầng, chương trình giáo dục giúp nâng cao đời sống kinh tế, xã hội của các quốc gia.
2.2. Xu hướng ODA hiện nay
Trong giai đoạn hiện nay đã xuất hiện một số đặc điểm quan trọng sau:
Thứ nhất
Tỉ trọng ODA song phương có xu thế tăng lên, ODA đa phương có xu thế giảm đi. Quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới và xu thế hội nhập đã tạo điều kiện cho các quan hệ kinh tế, chính trị... giữa các quốc gia ngày càng được đẩy mạnh và tăng cường. Hoạt động của một số tổ chức đa phương tỏ ra kém hiệu quả làm cho một số nhà tài trợ ngần ngại đóng góp cho các tổ chức này. Điều đó là nguyên nhân chính tạo nên sự chuyển dịch, tỉ trọng ODA song phương có xu thế tăng lên, ODA đa phương có xu hướng giảm đi. Điều đó đã được chứng minh trên thực tế là trong các năm 1980 - 1994 trong tổng số ODA của thế giới, tỉ trọng ODA song phương từ 67% tăng lên 69% trong khi đó tỉ trọng ODA đa phương giảm từ 33% xuống 31%.
(Nguồn: Bộ Kế hoạch - Đầu tư).
Thứ hai
Sự cạnh tranh ngày càng tăng trong quá trình thu hút ODA.
Trên thế giới, một số nước mới giành được độc lập hoặc mới tách ra từ các nhà nước liên bang tăng lên đáng kể và có nhu cầu lớn về ODA. Một số nước công hoà thuộc Nam Tư cũ và một số nước Châu Phi bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh sắc tộc đang cần đến sự hỗ trợ quốc tế. ở Châu á, Trung Quốc, các nước Đông Dương, Myanmar... cũng đang cần đến nguồn ODA lớn để xây dựng kinh tế, phát triển xã hội. Số nước có nhu cầu tiếp nhận ODA là rất lớn vì vậy sự cạnh tranh giữa
các nước ngày càng trở nên gay gắt. Các vấn đề mà các nước cung cấp ODA quan tâm đến tạo nên sự cạnh tranh giữa các nước tiếp nhận là năng lực kinh tế của quốc gia tiếp nhận, các triển vọng phát triển, ngoài ra còn chịu nhiều tác động của các yếu tố khác như: Nhãn quan chính trị, quan điểm cộng đồng rộng rãi, dựa trên sự quan tâm nhân đạo và hiểu biết về sự cần thiết đóng góp vào ổn định kinh tế - xã hội quốc tế. Cùng mối quan hệ truyền thống với các nước thế giới thứ ba của các nước phát triển, hay tầm quan trọng của các nước đang phát triển với tư cách là bạn hàng (thị trường, nơi cung cấp nguyên liệu, lao động). Mặt khác, chính sách đối ngoại, an ninh và lợi ích chiến lược, trách nhiệm toàn cầu hay cá biệt... cũng là nhân tố tạo nên xu hướng phân bổ ODA trên thế giới theo vùng. Ngoài ra còn có thêm lý do đó là sự chuẩn bị đáp ứng nhu cầu riêng biệt về thủ tục, quy chế, chiến lược, viện trợ ... khác nhau của các nhà tài trợ trên thế giới cũng tạo nên sự chênh lệch trong quá trình thu hút và sử dụng ODA giữa các quốc gia hấp thụ nguồn vốn này. Chính sự cạnh tranh gay gắt đã tạo nên sự tăng giảm trong tiếp nhận viện trợ của các nước đang phát triển. Kể từ năm 1970, ODA chủ yếu hướng vào Tiểu vùng Sahara và Trung Đông kể cả Ai Cập. Bên cạnh đó, Trung Mỹ là vùng nhận được tỷ trọng viện trợ tăng lên chút ít, tỷ trọng này đã thực sự bị cắt giảm mạnh đối với các vùng Nam Á (đặc biệt là Ấn Độ) và Địa Trung Hải trong vòng 10 năm, từ tài khoá 1983/1984 đến 1993/1994, tỷ trọng thu hút ODA thế giới của tiểu vùng Sahara đã tăng từ 29,6% lên 36,7%, của Nam và Trung á khác và Châu Đại Dương từ 20,3% lên 22,9%; Châu Mỹ La Tinh và vùng Caribê từ 12% lên 14% (nguồn: Bộ Kế hoạch - Đầu tư).
Thứ ba
Sự phân phối ODA theo khu vực nghèo của thế giới không đồng đều.
Nguyên nhân tạo nên sự khác biệt như vậy có thể có rất nhiều lý giải khác nhau, có thể là do những mong muốn của các quốc gia đi viện trợ như mở rộng quan hệ hợp tác về chính trị hay kinh tế, mục đích xã hội, điều đó phụ thuộc rất nhiều vào ý muốn chủ quan của nhà tài trợ. Lúc đầu họ chỉ quan tâm đến việc thiết lập các mối quan hệ với các nước láng giềng của mình, nhưng sau họ lại nhận thấy rằng cần thiết lập các quan hệ với các nước khác trên thế giới để tìm kiếm thị trường trao đổi buôn bán hay đầu tư mà việc đầu tiên thiết lập quan hệ ngoại giao bằng cách viện trợ ODA. Mặt khác chính những yếu tố trong nội bộ của quốc gia cũng tạo nên những khác biệt lớn trong quá trình nhận viện trợ như các mối quan hệ với các nước phát triển, hay những thành tích trong phát triển đất nước hay cũng có thể là do nhu cầu hết sức cần thiết như chiến tranh, thiên tai...
Thứ tư
Triển vọng gia tăng nguồn vốn ODA ít lạc quan.
Mặc dù Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã khuyến nghị dành 1% GNP của các nước phát triển để cung cấp ODA cho các nước nghèo. Nhưng nước có khối lượng ODA lớn như Nhật Bản, Mỹ... thì tỷ lệ này mới chỉ đạt ở mức trên dưới 0,3% trong nhiều năm qua. Tuy có một số nước như Thụy Điển, Na uy, Phần Lan, Đan Mạch... đã có tỷ lệ ODA chiếm hơn 1% GNP, song khối lượng ODA tuyệt đối của các nước này không lớn. Thêm vào đó tình hình kinh tế phục hồi chậm chạp ở các nước đang phát triển cũng là một trở ngại gia tăng ODA. Ngoài ra, hàng năm các nước cung cấp ODA dựa vào kết quả hoạt động của nền kinh tế của mình để xem xét khối lượng ODA có thể cung cấp được. Nhưng hiện nay các nước phát triển đang có những dấu hiệu đáng lo ngại trong nền kinh tế của mình như khủng hoảng kinh tế hay hàng loạt các vấn đề xã hội trong nước, chịu sức ép của dư luận đòi giảm viện trợ để tập trung giải quyết các vấn đề trong nước.
Tuy nhiên, ở các nước phát triển, kinh tế tăng bình quân 6%/năm trong các năm 1991 - 1994 (4%/năm trong thập kỷ 80). Đời sống nhân dân đang được cải thiện rõ rệt. Do sự phục hồi kinh tế ở các nước phát triển, nguồn vốn chuyển dịch vào các nước đang phát triển có thể sẽ giảm sút trong các năm tới, ODA là một khoản vốn mà các nước phát triển hỗ trợ cho các nước đang phát triển nó được thực hiện từ rất lâu, qua các giai đoạn nhất định, có những xu thế vận động riêng, nhìn chung lại, xu hướng vận động hiện nay hàm chứa cả các yếu tố thuận lợi lẫn khó khăn cho một số nước đang phát triển như nước ta đang tìm kiếm nguồn hỗ trợ phát triển chính thức, tuy nhiên các yếu tố thuận lợi là cơ bản. Xét trên phạm vi quốc tế, ODA có thể huy động được lại tuỳ thuộc voà chính sách đối ngoại khôn khéo và khả năng hấp thụ vốn nước ngoài của chính nền kinh tế nước đó. Qua đó ta có thể thấy rõ được những đặc điểm riêng biệt của ODA so với các nguồn vốn khác.
CHƯƠNG III: TÁC ĐỘNG CỦA NGUỒN VỐN ODA ĐẾN NƯỚC CẤP/NHẬN NGUỒN VỐN
3.1. Tác động đối với nước nhận viện trợ
3.1.1. Tác động tích cực
· Nguồn bổ sung vốn quan trọng cho các nước đang phát triển
Tất cả các quốc gia khi thực hiện Công nghệ hoá - Hiện đại hoá đều cần đến một lượng vốn đầu tư rất lớn và đây là thách thức đối với các nước đang phát triển. Với nội lực còn hạn chế thì vốn trong nước không thể đáp ứng được nhu cầu về vốn đầu tư, do đó việc huy động vốn từ nước ngoài trở nên tất yếu. Đặc biệt, nguồn ODA tập trung đầu tư cho các lĩnh vực cơ sở hạ tầng ở các nước đang phát triển là một giải pháp hữu hiệu để khắc phục sự thiếu vốn. Tại Việt Nam, năm 2016, tổng vốn ODA đạt 142,6 tỷ USD, trong đó khoảng 80% lượng vốn ODA được dành cho đầu tư vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng, số vốn này chiếm khoảng 40% tổng vốn đầu tư của toàn xã hội cho cơ sở hạ tầng. (Theo Tổng cục Thống kê Việt Nam)
· Tiếp cận với thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến và phát triển nguồn nhân lực
a/ Thành tựu khoa học tiên tiến
Thông qua hình thức viện trợ kèm theo ràng buộc phải sử dụng dịch vụ hay hàng hoá của nhà tài trợ, nước nhận đầu tư có cơ hội được tiếp cận với những công nghệ sản xuất hay quản lý tiên tiến.
Trong lĩnh vực khoa học, công nghệ: dự án ODA về công nghệ cao, tiên tiến trong các lĩnh vực công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu, công nghệ xây dựng... Dự án phát triển hạ tầng khu công nghệ cao và Trung tâm vũ trụ Việt Nam tại khu Công nghệ cao Hòa Lạc, Hà Nội do Nhật Bản tài trợ là một thí dụ điển hình.
b/ Phát triển nguồn nhân lực
Nhận thấy vai trò then chốt của phát triển nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế của một quốc gia nên các nhà tài trợ rất chú trọng ưu tiên cho lĩnh vực này. Đào tạo nguồn nhân lực có thể được thực hiện ở trong và ngoài nước nhận đầu tư. Đặc biệt, các nhà tài trợ thường quan tâm đến việc đào tạo cho nhóm nhân sự tham gia vào quản lý nhà nước nhằm nâng cao năng lực quản lý cho họ. Đầu tư cho nguồn nhân lực mang lại hiệu quả lâu dài trong quá trình phát triển.
· Góp phần phát triển kinh tế địa phương va xoá đói giảm nghèo
ODA còn tác động tích cực đến phát triển kinh tế xã hội của các địa phương và vùng lãnh thổ, đặc biệt là ở các thành phố lớn: nguồn vốn này trực tiếp giúp cải thiện điều kiện về vệ sinh y tế, cung cấp nước sạch, bảo vệ môi trường. Đồng thời nguồn ODA cũng góp phần tích cực trong việc phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, phát triển lưới điện nông thôn, phát triển nông nghiệp, xoá đói giảm nghèo. Trong năm 2014 Tổng công ty Điện lực miền Trung (EVN CPC) đã nhận hơn 236 triệu USD từ Ngân hàng Thế gi