Nền móng của các công trình xây dựng nhà ở, đường sá, đê điều, đập chắn nước và một số công trình khác trên nền đất yếu thường đặt ra hàng loạt các vấn đề phải giải quyết như sức chịu tải của nền thấp, độ lún lớn và độ ổn định của cả diện tích lớn. Việt Nam được biết đến là nơi có nhiều đất yếu, đặc biệt lưu vực sông Hồng và sông Mê Kông. Nhiều thành phố và thị trấn quan trọng được hình thành và phát triển trên nền đất yếu với những điều kiện hết sức phức tạp của đất nền, dọc theo các dòng sông và bờ biển. Thực tế này đã đòi hỏi phải hình thành và phát triển các công nghệ thích hợp và tiên tiến để xử lý nền đất yếu.
Bài tiểu luận này trình bày một số đặc tính tiêu biểu của nền đất yếu, các vấn đề do nền đất đặt ra và một số công nghệ xử lý nền. Đồng thời trình bày và đề cập đến các giải pháp xử lý nền đất đã được dùng ở Việt Nam. Một số công nghệ xử lý nền mới được trình bày và thảo luận. Một số giải pháp xử lý nền móng trên nền đất yếu thích hợp với điều kiện Việt Nam và hướng phát triển
49 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 5175 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Xử lý đất nền yếu trong xây dựng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH
VIỆN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ & QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
MÔN: XỬ LÝ Ô NHIỄM & THOÁI HÓA MÔI TRƯỜNG ĐẤT
&
TIỂU LUẬN CUỐI KỲ:
GVHD : GS. TSKH LÊ HUY BÁ
SV : NGUYỄN DIỆU AN
MSSV : 07701581
Lớp : ĐHMT3A
Trường ĐH Công nghiệp TP.HCM
Ngày 03 tháng 05 năm 2010
Lời cảm ơn
Trước hết tôi xin chân thành cảm ơn BGH trường ĐH Công Nghiệp TP.HCM đã trang bị kiến thức lẫn cơ sở vật chất một cách đầy đủ và hiện đại, tạo điều kiện cho sinh viên chúng tôi làm tiểu luận.
Và tôi cũng xin cám ơn Viện Khoa học Công nghệ và Quản lý môi trường đã cung cấp những kiến thức cơ bản về bộ môn Xử lý ô nhiểm & Thoái hóa môi trường đấ này, tạo điều kiện cho chúng tôi tìm hiểu, nghiên cứu.
Tôi cũng xin cám ơn thư viện trường ĐH Công Nghiệp TP.HCM đã cung cấp sách vở cũng như phương tiện hiện đại cho chúng tôi nghiên cứu làm tiểu luận.
Đặc biệt, tôi xin cám ơn GS.TSKH Lê Huy Bá, người trực tiếp giảng dạy những kiến thức cơ bản và luôn giúp đỡ chúng em trong suốt quá trình nghiên cứu và học tập.
Trường ĐH Công Nghiệp TP.HCM, ngày 03 tháng 05 năm 2010
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
01
NỘI DUNG
02
1
Khái niệm
02
1.1
Khái niệm về nền đất yếu
02
1.2
Sự hình thành tài nguyên MT đất nền yếu
02
1.3
Một số đặc điểm đất nền yếu dùng trong xây dựng
04
1.4
Các loại đất nền yếu thường gặp
06
1.5
Các vấn đề đặt ra đối với đất nền yếu
06
2.
Nền đất yếu ở Việt Nam
07
2.1
Đất yếu khu vực tây – nam Hà Nội
07
2.2
Đất yếu khu vực TP. Hồ Chí Minh
07
2.3
Đất yếu khu vực Bà Rịa – Vũng Tàu
08
3.
Biện pháp xử lý nền đất yếu và phạm vi ứng dụng
08
3.1
Xử lý nền đất yếu
08
3.2
Phạm vi ứng dụng
09
4.
Biện pháp kết cấu công trình
11
4.1
Dùng vật liệu nhẹ và kết cấu nhẹ
11
4.2
Làm tăng độ mềm của kết cấu công trình
11
4.3
Tăng thêm cường độ kết cấu công trình
11
5.
Các biện pháp xử lý về móng
12
5.1
Thay đổi chiều sâu chôn móng
13
5.2
Thay đổi kích thước móng
13
5.3
Thay đổi loại móng và độ cứng móng
14
6.
Gia cố nhân tạo nền đất yếu
14
6.1
Biện pháp xử lý bằng đệm cát
15
6.2
Phương pháp đầm chặt lớp đất mặt
18
6.3
Biện pháp xử lý nền bằng cọc cát
18
6.4
Biện pháp xử lý nền bằng cọc vôi và cọc đất – vôi
22
6.5
Biện pháp xử lý nền bằng cọc đất – xi măng
23
6.6
Phương pháp gia tải nén trước
28
6.7
Biện pháp xử lý nền bằng cọc tre và cọc tràm
32
6.8
Biện pháp xử lý nền bằng cọc đá và cọc cát đầm chặt
33
6.9
Cố kết đóng
34
6.10
Gia cường nền yếu bằng cọc tiết diện nhỏ
34
7.
Một số ví dụ tính toán thực tế
34
KẾT LUẬN
37
SUMMARY
Handling soft soil intended to increase bearing capacity of soil, improve some physical properties of soft soil, such as reduction coefficients empty, compress reduce subsidence, increasing tightness increase the number of processing modules form, increasing shear strength of soil ... For irrigation, the disposal of the soil also reduces the soil permeability, ensuring stable block embankments.
The treatment methods include different types of soft soil, based on geological conditions, causes and technologies required to overcome. Technical renovation of soft soil in the field of geotechnical, to make the basis of theoretical and practical methods to improve the ability of the soil load to match the requirements of each different type of work.
With the characteristics of the soil as above, want the foundation construction work on this ground there must be measures to improve the technical strength of its features. Soil after the treatment is called artificial.
The handling of the construction on soft soil depends on conditions such as work characteristics, characteristics of the soil ... Conditions specific to each design that people make rational treatment measures. There are many treatment measures to meet specific soft ground such as: the treatment measures on the structure, the measures of disease process , the treatment measures background.
MỞ ĐẦU
Nền móng của các công trình xây dựng nhà ở, đường sá, đê điều, đập chắn nước và một số công trình khác trên nền đất yếu thường đặt ra hàng loạt các vấn đề phải giải quyết như sức chịu tải của nền thấp, độ lún lớn và độ ổn định của cả diện tích lớn. Việt Nam được biết đến là nơi có nhiều đất yếu, đặc biệt lưu vực sông Hồng và sông Mê Kông. Nhiều thành phố và thị trấn quan trọng được hình thành và phát triển trên nền đất yếu với những điều kiện hết sức phức tạp của đất nền, dọc theo các dòng sông và bờ biển. Thực tế này đã đòi hỏi phải hình thành và phát triển các công nghệ thích hợp và tiên tiến để xử lý nền đất yếu.
Bài tiểu luận này trình bày một số đặc tính tiêu biểu của nền đất yếu, các vấn đề do nền đất đặt ra và một số công nghệ xử lý nền. Đồng thời trình bày và đề cập đến các giải pháp xử lý nền đất đã được dùng ở Việt Nam. Một số công nghệ xử lý nền mới được trình bày và thảo luận. Một số giải pháp xử lý nền móng trên nền đất yếu thích hợp với điều kiện Việt Nam và hướng phát triển
NỘI DUNG
1. Khái niệm:
1.1 Khái niệm về nền đất yếu:
Nền đất yếu là nền đất không đủ sức chịu tải, không đủ độ bền và biến dạng nhiều, do
vậy không thể làm nền thiên nhiên cho công trình xây dựng.
Khi xây dựng các công trình dân dụng, cầu đường, thường gặp các loại nền đất yếu, tùy thuộc vào tính chất của lớp đất yếu, đặc điểm cấu tạo của công trình mà người ta dùng phương pháp xử lý nền móng cho phù hợp để tăng sức chịu tải của nền đất, giảm độ lún, đảm bảo điều kiện khai thác bình thường cho công trình.
Trong thực tế xây dựng, có rất nhiều công trình bị lún, sập hư hỏng khi xây dựng trên nền đất yếu do không có những biện pháp xử lý phù hợp, không đánh giá chính xác được các tính chất cơ lý của nền đất. Do vậy việc đánh giá chính xác và chặt chẽ các tính chất cơ lý của nền đất yếu (chủ yếu bằng các thí nghiệm trong phòng và hiện trường) để làm cơ sở và đề ra các giải pháp xử lý nền móng phù hợp là một vấn đề hết sức khó khăn, nó đòi hỏi sự kết hợp chặt chẽ giữa kiến thức khoa học và kinh nghiệm thực tế để giải quyết, giảm được tối đa các sự cố, hư hỏng công trình khi xây dựng trên nền đất yếu.
1.2. Sự hình thành tài nguyên môi trường đất nền yếu:
Nếu như đối với đất có nền cứng – chắc thường xuất hiện vùng đồi núi, trung du, mà tài nguyên đất là sản phẩm của quá trình phong hóa tại chỗ từ các đá gốc khác nhau; do đó, tài nguyên đất chủ yếu dựa vào chiều dày, mức độ phân bố, thành phần trạng thái và các tính chất vật lí, cơ học của các loại đất hình thành từ các đá gốc khác nhau. Còn đối với các vùng đất có nền yếu hoặc rất yếu thường xuất hiện trên các sản phẩm trầm tích sông biển ở các đồng bằng châu thổ. Vì vậy, tài nguyên đất là quá trình di chuyển các hạt vật liệu đất vơi khoảng cách di chuyển khác nhau và được sắp xếp lại theo quy luật nhất định. Quá trình này rất phức tạp, phụ thuộc vào nhiều yếu tố, do đó đánh giá tài nguyên đất ở đây cần dựa vào cấu trúc nền, bởi vì cấu trúc nền chính là sự sắp xếp không gian các lớp đất được trầm tích qua các năm khác nhau, cấu tạo nên từng tầng, lớp nền đất. Hơn thế, thường dưới các nền đất trầm tích mới này, là những tàn tích hữu cơ bán phân giải các đầm lầy xưa kia bị vùi lấp. Lẫn trong chúng là hỗn hợp bùn nhão với mùn thô và sét hoặc sét cát.
1.2.1. Khu vực vùng trũng thuộc đồng bằng Bắc Bộ (ĐBBB):
Đây là khu vực địa chất rất phức tạp, cho đến nay đã có nhiều nhà khoa học nghiên cứu về cấu trúc nền ĐBBB, các kết quả tuy còn khác nhau nhưng nét tổng quan như sau:
Tính từ dưới lên lên thì cột địa tầng trầm tích Đệ tứ có các tầng trầm tích: Lệ Chi, Hà Nội, Vĩnh Phúc, Hải Hưng và Thái Bình.
- Tầng Lệ Chi: có chiều dày thay đổi khoảng 45 – 70m, gồm có: cuội sỏi thạch anh, bột sét cát.
- Tầng Hà Nội: gồm nhiều nguồn gốc khác nhau, chiều dày khoảng 17 – 45m, chủ yếu gồm cuội, sỏi lẫn cát với hàm lượng cuội với đường kính lớn hơn 10mm giảm dần theo chiều sâu.
- Tầng Vĩnh Phúc: gồm 2 tập:
+ Tập dưới: gồm cát lẫn sỏi nhỏ, cát vừa và nhỏ.
+ Tập trên: gồm sét pha, cát pha sét.
- Tầng Hải Hưng: gồm 3 phụ tầng:
+ Phụ tầng dưới: phổ biến là trầm tích kiểu hồ đầm lầy vùng đồng bằng ven biển, gồm có than bùn và bùn chứa hữu cơ, chiều dày phổ biến 2 -12m.
+ Phụ tầng giữa: trầm tích có nguồn gốc đầm lầy sau biển tiến, chiều dày 3 – 6m.
+ Phụ tầng trên: trầm tích đầm lầy sau biển tiến, chiều dày biến đổi lớn, gồm các trầm tích nền yếu.
- Tầng Thái Bình: gồm 2 phụ tầng:
+ Phụ tầng dưới: phân bố rộng rãi, trầm tích nguồn gốc sông là chủ yếu, chiều dày thay đổi nhiều, gồm các loại: sét pha, cát pha, đất sét phân bố hẹp.
+ Phụ tầng trên: là trầm tích ngoài đê sông Hồng gồm sỏi nhỏ, cát lẫn bột sét, bột sét.
Các loại đất nền yếu ở đây xuất hiện kiểu da báo do:
- Tầng phụ giữa của tầng Hải Hưng.
- Tầng phụ trên và tầng phụ dưới của tầng Thái Bình lộ trên mặt đất. Các tầng này do sản phẩm tích tụ đầm lầy, trong phẫu diện hầu như đều có các lớp bùn nhão và đất chảy, độ lún cao, lực nén thấp.
1.2.2. Đối với đồng bằng Nam Bộ:
Ngoại trừ trầm tích Đệ tứ khu vực, vùng cao phía đông bắc, bắc có nền tầng đất cứng vì chúng là hệ trầm tích phù sa Pleistocen gồm có: các tầng sét, sét cát, cát bột sét. Ví dụ như Mộc Hóa, Đức Hòa, Đức Huệ (Long An), một phần Tây Ninh và quận 1, 3, 10, 12, Phú Nhuận, Tân Bình, Gò Vấp, . . .(TP. Hồ Chí Minh); còn lại, hầu hết đất có độ cao 0 - 1m so mặt biển là đất nền hơi yếu, yếu, thậm chí rất yếu. Vì chúng nằm hầu hết trên vùng đầm lầy biển cũ, chiều sâu phẫu diện xuống 30 – 40m vẫn là lớp bùn nhão lẫn hữu cơ rừng lầy ngọt. Vùng tháp phía Nam Sài Gòn là hệ trầm tích phù sa sông biển gồm các tầng bùn, bùn sét, . . .
Về tổng thể chia ra như sau:
- Trầm tích trẻ Halogen, phổ biến rất rộng rãi, chiều dày thay đổi lớn, từ 8 – 40m, gồm:
+ Trầm tích sông và đầm lầy cục bộ gồm bùn sét, bùn hữu cơ, bùn á sét hữu cơ.
+ Trầm tích đầm lầy gồm bùn sét hữu cơ thân cây cỏ chưa phân hũy hoàn toàn.
+ Trầm tích sông biển, vũng vịnh hổn hợp gồm có sét màu xám đen.
Một đặc điểm đáng chú ý là không thấy dấu hiệu lớp cát mịn hoặc cát trung.
- Trầm tích cổ Pleistocen.
Cấu trúc phổ biến của các tầng đất phù sa cổ nguồn gốc như sau:
- Sét dày 3 – 5m, có nơi 8 – 10m.
- Sét cát dày 3 – 12m.
- Cát từ cát mịn đến cát thô dày 5 – 20m.
Cấu trúc phổ biến của các tầng đất phù sa cổ nguồn gốc biển gồm:
- Sét xám đen.
- Sét lẫn bột.
- Cát trung đến thô lẫn sỏi, cuội.
1.3. Một số đặc điểm của đất nền yếu dùng xây dựng:
Thuộc loại nền đất yếu thường là đất sét có lẫn nhiều hữu cơ;
Sức chịu tải bé (0,5 – 1kG/cm2);
Đất có tính nén lún lớn (a> 0,1 cm2/kG);
Hệ sô rỗng e lớn (e > 1,0);
Độ sệt lớn ( B > 1);
Mo đun biến dạng bé (E< 50kG/cm2);
Khả năng chống cắt bé (ϕ, c bé), khả năng thấm nước bé;
Hàm lượng nước trong đất cao, độ bão hòa nước G> 0,8, dung trọng bé;
1.3.1. Vùng đồng bằng Bắc Bộ:
Đất phù sa nền yếu thuộc đồng bằng Bắc Bộ (ĐBBB):
- Từ 0cm đến độ sâu 50 – 60cm là đất sét pha màu nâu đến vàng nhạt.
- Từ 90 – 100cm mới xuất hiện cát hạt to màu xám.
- Từ > 150cm là cát màu vàng.
Xuống sâu hơn, tùy thuộc vị trí của nó, có thể là nền yếu hay không. Về thành phần cơ giới:
- Tỷ lệ hạt sét trung bình (20 – 25%) cùng với tỉ lệ limon hợp lý (hạt 0,05 – 0,001mm) chiếm khoảng 50% nên đất có thành phần cơ giới trung bình, ở các vùng thấp phổ biến là sét pha trung bình có nơi là sét pha nặng.
- Độ giữ nước tối đa đạt 32 – 35%, trong khi đó độ ẩm thông thường vẫn > 18%, do đó ở giai đoạn nào của cây trồng cạn, chế độ nước đều thích hợp.
- Độ pH khoảng 6,5 – 7,5.
- Tỉ lệ hữu cơ trong đất phổ biến từ 1,3 – 25, trung bình là 1,56 là loại đất tương đối giàu hữu cơ.
Với đặc điểm đất như trên, đất vùng đồng bằng sông Hồng có thể dùng xây dựng và công trình giao thông đường bộ từ trung bình đến khá.
1.3.2. Vùng đồng bằng sông Cửu Long:
ĐBSCL tạo do phù sa mới bồi trên vùng vịnh biển cũ. Phù sa mới đã vùi lấp rừng lầy hỗn hợp ở đây, nhất là ở 3 bồn trũng: Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên và bán đảo Cà Mau. Trừ vùng đất phù sa do đê sông bồi đắp theo sông Tiền và sông Hậu, tùy lớp phù sa mới dày mỏng khác nhau mà nền đất yếu này có dạng hơi yếu, yếu và rất yếu. Căn cứ vào sự lắng đọng phù sa, tính chất và sự phân bố chất hữu cơ, thành hạt, . . .có thể phân ra như sau:
- Với vùng đất phù sa giữa châu thổ, phân ra các khu vực khác nhau như:
Đất phù sa ở ven sông Hậu và sông Tiền; thành phần cơ giới chủ yếu là limon và cát, ít sét, lượng hữu cơ không nhiều (1 – 2%) đạm tổng số 0,08 – 0,1%; pH = 5,5 – 6,5; đất ở đây thuộc dạng trung bình đến hơi yếu.
Đất phù sa sông hơi thấp, bị ngập lụt nhiều: thành phần cơ giới chủ yếu là sét (>50%) và limon (30 – 40%), rất ít cát, . . .thuộc diện đất nền yếu, khó khăn trong xử lý nền. Khi xây nhà cao tầng dễ bị nghiêng lún.
Đất phù sa bị địa hình thấp, ngập lụt rất nhiều, phân bố ở các vùng thấp hơn và rất khó khăn cho xây dựng nh2 cao tầng, đường sá dễ bị lún, nghiêng, lở.
1.4. Các loại nền đất yếu thường gặp:
+ Đất sét mềm: gồm các loại đất sét hoặc á sét tương đối chặt, ở trạng thái bão hòa nước, có cường độ thấp;
+ Bùn: Các loại đất tạo thành trong môi trường nước, thành phần hạt rất mịn (<200μm) ở trạng thái luôn no nước, hệ số rỗng rất lớn, rất yếu về mặt chịu lực;
+ Than bùn: Là loại đất yếu có nguồn gốc hữu cơ, được hình thành do kết quả phân hủy các chất hữu cơ có ở các đầm lầy (hàm lượng hữu cơ từ 20 – 80%);
+ Cát chảy: Gồm các loại cát mịn, kết cấu hạt rời rạc, có thể bị nén chặt hoặc pha loãng đáng kể. Loại đất này khi chịu tải trọng động thì chuyển sang trạng thái chảy gọi là cát chảy.
+ Đất bazan: Đây cũng là đất yếu với đặc diểm độ rỗng lớn, dung trọng khô bé, khả năng thấm nước cao, dễ bị lún sập.
1.5. Các vấn đề đặt ra với nền đất yếu:
Móng của đường bộ, đường sắt, nhà cửa và các dạng công trình khác đặt trên nền đất yếu thường đặt ra những bài toán sau cần phải giải quyết:
+ Độ lún: Độ lún có trị số lớn, ma sát âm tác dụng lên cọc do tính nén của nền đất.
+ Độ ổn định: Sức chịu tải của móng, độ ổn định của nền đắp, ổn định mái dốc, áp lực đất lên tường chắn, sức chịu tải ngang của cọc. Bài toán trên phải được xem xét do sức chịu tải và cường độ của nền không đủ lớn.
+ Thấm: Cát xủi, thẩm thấu, phá hỏng nền do bài toán thấm và dưới tác động của áp lực nước.
+ Hoá lỏng: Đất nền bị hoá lỏng do tải trọng của tầu hoả, ô tô và động đất.
* Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, các vấn đề thực tế sau đây đang được quan tâm:
- Xây dựng công trình đường giao thông, thuỷ lợi, đê điều và công trình cơ sở trên nền đất yếu.
- Xử lý và gia cường nền đê, nền đường trên nền đất yếu hiện đang khai thác và sử dụng cần có công nghệ xử lý sâu.
- Xử lý trượt lở bờ sông, bờ biển và đê điều.
- Lấn biển và xây dựng các công trình trên biển.
- Xử lý nền cho các khu công nghiệp được xây dựng ven sông, ven biển.
- Xử lý nền đất yếu để chung sống với lũ tại đồng bằng sông Cửu Long.
2. Nền đất yếu ở Việt Nam:
Thực tế những năm xây dựng các công trình ở Việt Nam đặc biệt là sau ngày thống nhất đất nước năm 1975, cho thấy móng của nhiều công trình công nghiệp, dân dụng, giao thông, thủy lợi, . . .đều đặt trên nền đất yếu.
Ở miền núi và trung du, đất yếu nằm trong dải trũng rộng, vùng hồ cạn, bãi thềm và vùng trũng dưới chân núi. Cấu trúc của chúng không phức tạp, thường chỉ là một lớp đất yếu đồng nhất và có chiều dày không lớn lắm. Công trình xây dựng trên các tầng đát nền này không cần dung các biện pháp xử lý phức tạp. Ngược lại, ở các miền đồng bằng, nền đất yếu rất phổ biến, cấu trúc phức tạp và đa dạng. Chiều dày các tầng đất yếu khá lớn, thành phần trầm tích, trạng thái và tính chất cơ lý của các lớp đất yếu cũng rất khác nhau. Do đó, phải dùng các biện pháp xử lý nền phức tạp và kinh phí xử lý nền khá tốn kém.
Nắm vững và xử lý tốt nền móng là yêu cầu quan trọng để công trình xây dựng an toàn và kinh tế. Để đáp ứng yêu cầu này, khi thiết kế và thi công ở bất cứ khu vực nào người thiết kế cần nghiên cứu các đặc trưng địa kĩ thuật của các lớp đất nền để từ đó đề ra các biện pháp xử lý nền phù hợp.
Nền đất yếu phổ biến là ở các vùng đồng bằng, các công trình xây dựng tại các thành phố, thị trấn, khu công nghiệp, . . . chủ yếu tập trung ở các miền này. Đặc biệt tập trung tại một số vùng: tây nam Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa – Vũng Tàu.
2.1. Đất yếu khu vực tây nam Hà Nội:
Khu vực tây nam Hà Nội nằm ở hữu ngạn sông Hồng, gồm 4 quận nội thành và 2 huyện Thanh Trì, Từ Liêm cũ. Địa hình tương đối bằng phẳng, cao độ thay đổi từ 4 – 13m. Địa hình tạo thành do tích tụ biển, hồ lầy ven biển và tích tụ sông tạo nên các tầng Vĩnh Phú, Giảng Võ và Đống Đa tương ứng.
Các lớp đất của các tầng này gồm có: lớp bùn, lớp than bùn và lớp đất hữu cơ.
2.2. Đất yếu khu vực thành phố Hồ Chí Minh:
Khu vực thành phồ Hồ Chí Minh thuộc loại địa hình đồng bằng bồi tụ các trầm tích phù sa cổ đến trẻ với các nguồn gốc sông, đầm lầy, sông, biển, vũng vịnh hỗn hợp. Tầng trầm tích biến đổi khá lớn và phức tạp, chiều dày từ vài m đến hơn một trăm m.
Khu vực thành phố có thể chia ra làm 2 vùng:
- Vùng cao phía bắc gồm Củ Chi, Hóc Môn, Gò Vấp, một phần các quận 1, 3, 5, 10, 12, Thủ Đức, Phú Nhuận, Tân Bình: phân bố trầm tích cổ Pleixtocen gồm có: sét, sét cát, cát mịn đến thô có khả năng chịu tải tốt.
- Vùng đồng bằng thấp phía Nam: phân bố trầm tích trẻ Holoxen nguồn gốc sông biển, đầm lầy gồm có: sét bùn, bùn á sét hữu cơ bão hòa nước, xám sét ghi xám xanh có nguồn gốc trầm tích tro núi lửa. Bề dày từ 8 – 30m, một số đến 35 – 40m.
Đất yếu, hoàn toàn bão hòa nước và chưa cố kết, đang trong quá trình phân hủy, độ ẩm rất cao từ 50 đến trên 100%.
Nước dưới đất trong tầng sét bùn, bùn á sét hữu cơ cách mặt đất 0,5 – 0,8m có quan hệ thủy lực với nước mặt, sông, đầm lầy và nước thải. Nước bị nhiễm bẩn, nhiễm phèn, nhiễm mặn; có tính ăn mòn acid và sunfat cao đối với móng công trình. Cần lưu ý là khi được cố kết hoặc xử lý cọc cừ, đất sẽ thoát nước và chặt hơn, nhưng khi nước bị tháo kiệt (mùa khô), tầng đất bị giảm thể tích tới giới hạn co và có thể làm sụp đổ hoàn toàn móng đã xử lý.
2.3. Đất yếu khu vực Bà Rịa – Vũng Tàu:
Nằm ở vùng rìa của trũng Cửu Long, nguồn gốc của đất yếu chủ yếu từ sông, sông – biển, đầm lầy – biển. Dọc theo các thung lũng các sông Thị Vải, Mỏ Nhát, Mũi Giui, Cỏ May, . . .ở dạng các bãi bồi rộng dọc theo chiều dài sông, giữa các thung lũng sông lớn là đầm lầy tạo hỗn hợp sông – đầm lầy; gần ven biển, cửa sông đất có nguồn gốc sông biển.
Đất yếu phân bố trên diện rộng quanh khu vực Long Sơn, trên một dải kéo dài từ Bà Rịa tới Vũng Tàu trên các thềm biển, sông biển hỗn hợp với cao độ địa hình thấp, chủ yếu từ 1 – 4m. Địa hình nền đất yếu từ trên xuống: bùn sét, bùn sét pha, . . . Chiều dày lớp đất từ 5 – 10m (dọc Quốc lộ 51). Ba khu vực có chiều dày đất yếu >15m là dải trũng phía bắc đảo Long Sơn, dọc thung lũng sông Thị Vải, sông Cỏ May.
3. Biện pháp xử lý nền đất yếu và phạm vi áp dụng:
3.1 Xử lý nền đất yếu:
Với các đặc điểm của đất yếu như trên, muốn đặt móng xây dựng công trình trên nền đất này thì phải có các biện pháp kỹ thuật để cải tạo tính năng xây dựng của nó. Nền đất sau khi xử lý gọi là nền nhân tạo.
Việc xử lý khi xây dựng công trình trên nền đất yếu phụ thuộc vào nhiều điều kiện như: đặc điểm công trình, đặc điểm của nền đất.v.v. Với từng điều kiện cụ thể mà người thiết kế đưa ra biện pháp xử lý hợp lý.
+ Xử lý bằng cọc tràm và cọc tre.
+ Xủ lý bằng bệ phản áp để tăng độ ổn định và chống trượt lở công trình đường giao thông và đê điều.
+ Gia tải trước với mục đích tăng cường độ và giảm độ lún của nền.
+ Gia tải trước đất nền với thoát nước thẳng đứng: công nghệ cho phép tăng nhanh quá trình cố kết, rút ngắn quãng đường và thời gian dịch chuyển của nước trong đất dưới tác dụng của tải trọng có thể là lớp đất đắp hoặc hút chân không.
+ Cọc đất vôi và cọc đất xi măng: trộn vôi hoặc xi măng với đất bằng hình thức bơm phun và quấy trộn tại chỗ. Công nghệ cho phép tạo được các cọc đất vôi, đất xi măng với cường độ thấp hơn các loại cọc thông thường. Đây là giải pháp thích hợp để xử lý sâu nền đất yếu, phục vụ cho v