Môi trường sống – cái nôi của nhân loại đang ngày càng ô nhiễm trầm trọng do con người. Cùng với sự phát triển của xã hội, môi trường đang từng bước bị hủy diệt là mối quan tâm không chỉ riêng của một quốc gia nào. Bảo vệ môi trường là nghĩa vụ của cộng đồng toàn cầu và của Việt Nam nói riêng. Chỉ thị số 36/CT-TW ngày 25/06/1998 của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam đã thể hiện đường lối chỉ đạo đúng đắn đối với công tác bảo vệ và gìn giữ môi trường sống của nước ta.
Hiện trạng môi trường không khí ở nước ta, đặc biệt là trong các khu công nghiệp và đô thị lớn như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Đồng Nai đang là mối lo ngại cho các cơ quan quản lý nhà nước về mặt môi trường cũng như toàn thể dân cư trong khu vực. Phần lớn các nhà máy xí nghiệp chưa có hệ thống xử lý ô nhiễm không khí hoặc có nhưng hoạt động không có hiệu quả và mang tính chất đối phó. Bên cạnh đó, với đặc điểm của một nền công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp mang tính chất sản xuất nhỏ, công nghiệp lạc hậu, thiếu thốn nguyên vật liệu , nên ngày càng khó kiểm soát vấn nạn ô nhiễm không khí.
Gần đây, ở nước ta, xử lý chất thải rắn công nghiệp, chất thải y tế bằng phương pháp thiêu đốt được áp dụng khá phổ biến. Tuy nhiên, vấn đề nảy sinh là phải xử lý khí thải như thế nào, nhất là các lò thiêu đốt chất thải độc hại. Bài tiểu luận này sẽ giúp chúng ta phần nào hiểu về qui trình cũng như những hữu ích của phương pháp thiêu đốt trong việc xử lí ô nhiễm không khí.
28 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3063 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Xử lý ô nhiễm không khí bằng phương pháp thiêu đốt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM
----------------------------**------------------------
TIỂU LUẬN AN TOÀN LAO ĐỘNG VÀ MÔI TRƯỜNG CÔNG NGHIỆP
Đề tài: XỬ LÝ Ô NHIỄM KHÔNG KHÍ BẰNG PHƯƠNG PHÁP THIÊU ĐỐT
GIÁO VIÊN: NGUYỄN VĂN TÚ
SINH VIÊN: NGUYỄN THÁI DƯƠNG
LỚP: 109040A
KHÓA: 010
NĂM HỌC: 2010-2011
Hồ Chí Minh 3-2011
PHẦN 1. LỜI MỞ ĐẦU
Môi trường sống – cái nôi của nhân loại đang ngày càng ô nhiễm trầm trọng do con người. Cùng với sự phát triển của xã hội, môi trường đang từng bước bị hủy diệt là mối quan tâm không chỉ riêng của một quốc gia nào. Bảo vệ môi trường là nghĩa vụ của cộng đồng toàn cầu và của Việt Nam nói riêng. Chỉ thị số 36/CT-TW ngày 25/06/1998 của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam đã thể hiện đường lối chỉ đạo đúng đắn đối với công tác bảo vệ và gìn giữ môi trường sống của nước ta. Hiện trạng môi trường không khí ở nước ta, đặc biệt là trong các khu công nghiệp và đô thị lớn như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Đồng Nai … đang là mối lo ngại cho các cơ quan quản lý nhà nước về mặt môi trường cũng như toàn thể dân cư trong khu vực. Phần lớn các nhà máy xí nghiệp chưa có hệ thống xử lý ô nhiễm không khí hoặc có nhưng hoạt động không có hiệu quả và mang tính chất đối phó. Bên cạnh đó, với đặc điểm của một nền công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp mang tính chất sản xuất nhỏ, công nghiệp lạc hậu, thiếu thốn nguyên vật liệu…, nên ngày càng khó kiểm soát vấn nạn ô nhiễm không khí.
Gần đây, ở nước ta, xử lý chất thải rắn công nghiệp, chất thải y tế bằng phương pháp thiêu đốt được áp dụng khá phổ biến. Tuy nhiên, vấn đề nảy sinh là phải xử lý khí thải như thế nào, nhất là các lò thiêu đốt chất thải độc hại. Bài tiểu luận này sẽ giúp chúng ta phần nào hiểu về qui trình cũng như những hữu ích của phương pháp thiêu đốt trong việc xử lí ô nhiễm không khí.
PHẦN 2. NỘI DUNG
Mảng 1: Khái niệm về ô nhiễm không khí.
I/ Khái quát về môi trường khí quyển.
Môi trường là tập hợp tất cả các yếu tố tự nhiên và xã hội bao quanh con người, ảnh hưởng tới con người và tác động đến các hoạt động sống của con người như: không khí, nước, độ ẩm, sinh vật, xã hội loài người và các thể chế.
Môi trường bao gồm: thạch quyển, thủy quyển, khí quyển, sinh quyển.
Môi trường không khí (khí quyển) là lớp chất khí bao quanh hành tinh Trái Đất và được giữ lại bởi lực hấp dẫn của Trái Đất.
Cấu trúc môi trường khí quyển:
Thành phần phần trăm của không khí khô theo thể tích - ppmv:
Chất khí
Theo NASA
Nitơ
78,084%
Ôxy
20,946%
Agon
0,9340%
Điôxít cacbon (CO2)
390 ppmv
Neon
18,18 ppmv
Hêli
5,24 ppmv
Mêtan
1,745 ppmv
Krypton
1,14 ppmv
Hiđrô
0,55 ppmv
Không khí ẩm thường có thêm
Hơi nước
Dao động mạnh; thông thường khoảng 1%
Tính chất quan trọng của khí quyển là: Tính giảm nhiệt trong tầng đối lưu, tính đảo nhiệt, địa hình ảnh hưởng được đến không khí, khí quyển có quá trình tích tụ, xảy ra phản ứng quang hóa và hóa học trong khí quyển.
II/ Ô nhiễm không khí.
1/ Định nghĩa.
Ô nhiễm không khí là sự thay đổi lớn trong thành phần của không khí hoặc có sự xuất hiện các khí lạ làm cho không khí không sạch, có sự tỏa mùi, làm giảm tầm nhìn xa, gây biến đổi khí hậu, gây bệnh cho con người và sinh vật.
Hiện nay, ô nhiễm khí quyển là vấn đề thời sự nóng bỏng của cả thế giới chứ không phải riêng của một quốc gia nào. Môi trường khí quyển đang có nhiều biến đổi rõ rệt và có ảnh hưởng xấu đến con người và các sinh vật. Hàng năm con người khai thác và sử dụng hàng tỉ tấn than đá, dầu mỏ, khí đốt. Đồng thời cũng thải vào môi trường một khối lượng lớn các chất thải khác nhau như: chất thải sinh hoạt, chất thải từ các nhà máy và xí nghiệp làm cho hàm lượng các loại khí độc hại tăng lên nhanh chóng.
2/ Quá trình gây ô nhiễm không khí.
Đầu tiên là do trung tâm sản xuất gây ô nhiễm không thể kiểm soát dẫn tới quá trình phát tán, lan truyền trong khí quyển. Và sau đó nguồn tiếp nhận chất ô nhiễm không khí là thực vật, động vật và con người.
3/ Nguyên nhân.
Có rất nhiều nguồn gây ô nhiễm không khí. Có thể chia ra thành nguồn tự nhiên và nguồn nhân tạo.
- Tự nhiên: Do các hiện tượng tự nhiên gây ra: núi lửa, cháy rừng. Tổng hợp các yếu tố gây ô nhiễm có nguồn gốc tự nhiên rất lớn nhưng phân bố tương đối đồng đều trên toàn thế giới, không tập trung trong một vùng. Trong quá trình phát triển, con người đã thích nghi với các nguồn này.
- Nhân tạo:
+ Công nghiệp: Đây là nguồn gây ô nhiễm lớn nhất của con người. Các quá trình gây ô nhiễm là quá trình đốt các nhiên liệu hóa thạch: than, dầu, khí đốt tạo ra: CO2, CO, SO2, NOx, các chất hữu cơ chưa cháy hết: muội than, bụi, quá trình thất thoát, rò rỉ trên dây truyền công nghệ, các quá trình vận chuyển các hóa chất bay hơi, bụi. Đặc điểm: nguồn công nghiệp có nồng độ chất độc hại cao,thường tập trung trong một không gian nhỏ. Tùy thuộc vào quy trình công nghệ, quy mô sản xuất và nhiên liệu sử dụng thì lượng chất độc hại và loại chất độc hại sẽ khác nhau. + Giao thông vận tải: Đây là nguồn gây ô nhiễm lớn đối với không khí đặc biệt ở khu đô thị và khu đông dân cư. Các quá trình tạo ra các khí gây ô nhiễm là quá trình đốt nhiên liệu động cơ: CO, CO2, SO2, NOx,Pb, Các bụi đất đá cuốn theo trong quá trình di chuyển. Nếu xét trên từng phương tiện thì nồng độ ô nhiễm tương đối nhỏ nhưng nếu mật độ giao thông lớn và quy hoạch địa hình, đường xá không tốt thì sẽ gây ô nhiễm nặng cho hai bên đường.
+ Sinh hoạt: Là nguồn gây ô nhiễm tương đối nhỏ, chủ yếu là các hoạt động đun nấu sử dụng nhiên liệu nhưng đặc biệt gây ô nhiễm cục bộ trong một hộ gia đình hoặc vài hộ xung quanh. Tác nhân gây ô nhiễm chủ yếu: CO, bụi.
4/ Tác nhân.
Dẫn xuất của cacbon:
Dẫn xuất của lưu huỳnh:
Các chất gây ô nhiễm không khí đặc biệt:
Các hợp chất hữu cơ:
Các hợp chất chứa halogen:
Mảng 2: Phân loại ô nhiễm không khí.
I/ Phân loại ô nhiễm theo địa hình.
1/ Ô nhiễm không khí ở vùng đồi núi và trung du.
Nguyên nhân chính gây ô nhiễm không khí thường do nạn cháy rừng.
Tác hại: làm mất cân bằng sinh thái và sự phục lại rừng hồi rất lâu song không nguy hiểm trực tiếp đến tính mạng con người.
Sẽ không đáng lo ngại nếu chúng ta hạn chế thu hẹp diện tích vùng địa hình này, đảm bảo nguồn nước, bảo vệ rừng và sự cứu hộ kịp thời khi cháy rừng xảy ra.
2/ Ô nhiễm không khí ở vùng đòng bằng.
Vô hình và không mùi vị, những phần tử ô nhiễm không khí cực nhỏ lan tỏa trong không khí, bay qua các đại lục và làm chết khoảng 380.000 người mỗi năm…
Khí thải từ động cơ diesel, sulfur từ các nhà máy nhiệt điện đốt than, và bụi sa mạc cùng quện vào nhau tạo thành một hỗn hợp phân tử bụi âm ỉ lan tỏa trong không trung hàng tuần.
Những thành phần độc hại nhất là những thành phần nhỏ nhất, có đường kính dưới 2,5 micromet. Khi chúng ta hít thở, các phân tử này có thể gây kích ứng phổi hoặc truyền trực tiếp xuống dòng máu và phá hủy các huyết mạch.
Tuy nhiên cần đặt ra câu hỏi nghi vấn đối với tầm quan trọng của việc tập trung vào vấn đề ô nhiễm liên lục địa.
Đa phần ô nhiễm có tác động tại chỗ. Nghiên cứu này cũng cho thấy trong tất cả các trường hợp, chỉ có dưới 20 phần trăm tổng lượng ô nhiễm của một vùng là do các nguồn ô nhiễm từ nơi khác đến.
Hơn nữa, khó khăn của việc nghiên cứu các phần tử nhỏ bé trên phạm vi toàn cầu có thể khiến nhóm nghiên cứu đã phải coi các nguồn bụi tự nhiên cũng độc hại như khói thải từ các nhà máy điện đốt than. Đây là “vùng tối” của khoa học, khi các nhà nghiên cứu vẫn chưa chắc chắn loại phân tử nào là độc hại nhất.
3/ Ô nhiễm không khí ở vùng ven biển.
Tàu thuỷ là tác nhân gây ô nhiễm không khí vùng ven biển.
Bằng việc sử dụng loại nhiên liệu ít pha lưu huỳnh, tàu thuỷ sẽ góp phần làm giảm bớt ô nhiễm không khí. Tuy nhiên liên quan tới ô nhiễm không khí hiện vẫn có một vấn đề còn tồn tại, đó là tất cả các loại tàu thuỷ thương mại trên toàn thế giới đang xả khí ô nhiễm bằng lượng khí thải của một nửa số ô tô đang lưu thông trên toàn cầu.
II/ Phân loại ô nhiễm theo khu vực.
1/ Ô nhiễm không khí ở vùng nông thôn.
Khoảng 10 năm trước vấn đề này chưa dáng lo ngại. Tuy nhiên với sự phát triển chóng mặt của quá trình công nghiệp hóa thì sự ô nhiễm ở nông thôn trở thành chủ đề nóng được dư luận quan tâm.
Sản xuất nông nghiệp theo hướng hiện đại hóa giúp nâng cao năng suất song lại ảnh hưởng không nhỏ đến môi trương không khí. Từ việc sử dụng dụng cụ thuần nông nay đã được thay bằng máy móc, thuốc nông sản và phân bón hóa học. Nếu không có biện pháp bảo vệ và không được quan tâm đúng cách sẽ rất nguy hiểm. Bên cạnh đó hoạt động nông nghiệp đang bị hoạt dộng công nghiệp “lấn áp” và giữ thế chủ đạo. Bởi so sánh giữa hai hoạt động thì nông nghiệp vẫn an toàn hơn so với công nghiệp.
Tiểu thủ công nghiệp thì chưa được các cơ quan chức năng địa phương đề ra biện pháp bảo vệ môi trường. Mặc dù lượng khí thải rất nhỏ nhưng phần nào cũng tác động trực tiếp đến nơi sinh sống. Vì vậy để có đường lối chung trong việc quản lí không khí vùng nông thôn trước hết phải chú tâm đến hoạt động sản xuất này.
2/ Ô nhiễm không khí ở đô thị.
Đây là chủ đề tốn không ít giấy bút để bàn luận và “mổ xẻ” nhưng thực chất vẫn chưa có một nhà chức trách có thể làm thay đổi được nó. Do đây không còn thuộc riêng bất cứ cơ quan chức năng nào mà là sự chung tay của toàn xã hội.
Năng lượng tiêu thụ ở các đô thị có thể chiếm tới 3/4 tổng năng lượng tiêu thụ của quốc gia. Năng lượng tiêu thụ, tức là tiêu thụ nhiên liệu than, dầu, xăng, khí đốt càng nhiều, nguồn khí thải ô nhiễm càng lớn, do đó các vấn đề ô nhiễm không khí trầm trọng thường xảy ra ở các đô thị, đặc biệt là thường xảy ra ở các đô thị lớn.
Ở nước ta trong thời gian khoảng ¼ thế kỷ qua, cùng với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là quá trình đô thị hoá tương đối nhanh.
Bảng 1 : Diễn biến đô thị hoá ở nước ta trong ¼ thế kỷ qua và dự báo đến 2020
Năm
1986
1990
1995
2000
2003
2006
2009
Dự báo
2010
2020
Số lượng đô thị (từ loại V trở lên)
480
500
550
649
656
729
752
-
-
Dân số đô thị
(triệu người)
11,87
13,77
14,938
19,47
20,87
22,83
25,38
28,5
40,0
Tỷ lệ dân ĐT trên tổng dân số toàn quốc (%)
19,3
20,0
20,75
24,7
25,8
27,2
29,6
32,0
45,0
Bảng 2: Bùng nổ giao thông cơ giới (ước tính).
Năm 1980
2000
Hiện nay
Xe đạp
Ô tô, xe máy
GT công cộng
Xe đạp
Ô tô, xe máy
GT công cộng
Xe đạp
Ô tô, xe máy
GT công cộng
80%
5%
15%
65%
>30%
<5%
2-3%
87-88%
10%
Bảng 3: Công nghiệp hóa.
Năm
1995
2000
2005
2009
Số KCN
2
4
6
12
Diện tích (ha)
90
268
702
1927
Tuy vậy, tốc độ đô thị hóa ở nước ta còn chậm hơn đô thị hóa trung bình của châu Á khoảng 15 năm (năm 2007 tỷ lệ dân số đô thị của toàn Châu Á đã vượt 50%, của Malaysia: 69,3%, của Phillipine: 64,2%, của Indonesia: 50,4% và của Thailand: 32,9%).
Đô thị càng phát triển thì số lượng phương tiện GTVT lưu hành trong đô thị càng tăng nhanh (Biểu đồ 1). Đây là áp lực rất lớn đối với môi trường không khí đô thị.
Biểu đồ 1. Số lượng ô tô và xe máy hoạt động hàng năm của Việt Nam
Số lượng phương tiện cơ giới này tập trung chủ yếu rất lớn tại các đô thị lớn, đặc biệt là ở Tp. Hồ Chí Minh và Hà Nội (Biểu đồ 2).
Một đặc trưng của các đô thị Việt Nam là phương tiện giao thông cơ giới 2 bánh chiếm tỷ trọng lớn. Ở các đô thị lớn, trong những năm qua, tỷ lệ sở hữu xe ôtô tăng nhanh, tuy nhiên lượng xe máy vẫn chiếm tỷ lệ rất lớn.
Tp. Hồ Chí Minh có tới 98% hộ dân thành phố có sở hữu xe máy.
Biểu đồ 2. Số lượng xe máy trên 1.000 dân ở các thành phố lớn của Việt Nam 2006
Hình 1. Tình trạng giao thông tại Ngã sáu Dân Chủ, Tp. Hồ Chí Minh
Hình 2. Tình trạng giao thông tại đường Láng Hạ, Hà Nội
Công nghiệp hóa và đô thị hóa càng mạnh thì nhu cầu tiêu thụ năng lượng càng lớn, nguồn ô nhiễm không khí càng tăng.
Nhu cầu tiêu thụ xăng dầu trong nước ngày càng tăng và dự báo trong 25 năm tới còn tiếp tục tăng cao (Biểu đồ 3). Nếu các tiêu chuẩn về chất lượng xăng dầu không được thắt chặt thì chúng ta sẽ phải đối mặt với vấn đề ô nhiễm không khí đô thị rất nghiêm trọng.
Tiêu thụ xăng dầu là một trong những nguyên nhân phát thải các chất độc hại như CO, hơi xăng dầu (HmCn, VOC), SO2, chì, BTX. Phát thải những chất này liên quan chặt chẽ đến chất lượng xăng dầu. Trong cơ cấu tiêu thụ xăng dầu của quốc gia thì GTVT chiếm tỷ trọng lớn nhất, là nguồn phát thải khí ô nhiễm lớn nhất trong đô thị.
Biểu đồ 3. Nhu cầu xăng dầu của Việt Nam những năm qua và dự báo cho đến 2025
Mảng 3: Thực trạng ô nhiễm không khí.
I/ Tình hình ô nhiễm không khí
Lượng xe máy gia tăng nhanh chóng ở các thành phố là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng ô nhiễm không khí nghiêm trọng như hiện nay. Đây thực sự là một thách thức lớn bởi mỗi năm có tới 600.000 người tử vong do tình trạng ô nhiễm không khí.
Nghiên cứu mang tên “Ô nhiễm không khí đô thị ở các thành phố châu Á” công bố ngày 13/12, cho biết các nhà khoa học cảnh báo rằng tình trạng ô nhiễm không khí đang đe dọa tới sức khỏe và chất lượng cuộc sống của người dân châu Á.
Qua khảo sát, phát hiện thấy rằng nồng độ tập trung chất PM10 (có hại cho sức khỏe và cuộc sống của con người) sản sinh từ khói xe máy trong không khí ở một số thành phố đã lên tới mức báo động. Theo tác giả công trình nghiên cứu Dieter Schwela, nồng độ tập trung chất PM10 ở các thành phố châu Á cao hơn nhiều so với châu Âu và Mỹ. Do vậy, 22 nước châu Á là đối tượng nghiên cứu cần có biện pháp giải quyết vấn đề ô nhiễm không khí do chất PM10.
Giám đốc điều hành Chương trình Định cư con người của LHQ (UN-HABITAT) Anna Tibaijuka cho rằng, châu Á - Thái Bình Dương là khu vực đông dân cư nhất thế giới và được coi là động lực kinh tế của toàn cầu trong tương lai. Chính vì vậy, khu vực này cần thống nhất về tầm nhìn chung trong nỗ lực phát triển bền vững các thành phố như LHQ kêu gọi.
Các thành phố lớn tại Việt Nam như Hà Nội và TP.HCM đang phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm không khí nghiêm trọng, đặc biệt là từ bụi mịn.
Ở Việt Nam từ trong nhà ra ngoài đường phố ô nhiễm không khí liên quan đến một nguy cơ không được mấy người quan tâm: đó là nạn ô nhiễm không khí ngay trong nhà do việc đun nấu bằng củi, than và các loại nhiên liệu rẻ tiền mà hậu quả rất đáng sợ.
Hiện trong không khí có rất nhiều chất gây ô nhiễm như bụi, khí CO, SO2, NOx, chất benzen gây ung thư… Trong đó, lượng bụi là cao nhất. Thật ra, bụi rất độc bởi chứa hợp chất thơm đa vòng gây ung thư, và còn nhiều hợp chất nguy hiểm khác chưa được xác định. Đặc biệt, bụi càng nhỏ càng độc hại bởi dễ chui sâu vào phổi như bụi mịn (PM 2,5 - bụi khí dưới 2,5 micron).
Hiện tại, ở VN chưa áp dụng chỉ tiêu đối với bụi mịn. Mỹ đặt giới hạn 35 microgram/m3, trong khi Tổ chức Y tế thế giới (WHO) còn đặt tiêu chuẩn thấp hơn là 25 microgram/m3. Theo khảo sát của AIT, lượng bụi mịn trong không khí tại Hà Nội và TP.HCM cao hơn các tiêu chuẩn này nhiều lần, cao nhất lên đến hơn 100 microgram/m3, còn trung bình cũng trên 50 microgram/m3.
Ô nhiễm ở Hà Nội và TP.HCM tuy chưa đến mức như Manila, Bangkok hay nhiều đô thị khác ở Trung Quốc, tuy nhiên cũng đã nghiêm trọng và đáng quan tâm. Còn lượng bụi đã ở mức nguy hiểm.
Khảo sát bằng các trạm quan trắc không khí tại ven các đường giao thông tại Hà Nội cho thấy có tới 40% lượng chất gây ô nhiễm trong không khí xuất phát từ giao thông. Còn lại 20% từ đốt rác thải, rơm rạ, 20% là chất thứ phát (hình thành trong không khí), còn lại từ các hoạt động công nghiệp, đun nấu thức ăn và các nguồn ô nhiễm đến từ khu vực khác (do gió đưa đến).
Tình hình tại TP.HCM cũng tương tự. Ngoài ra, hai nhà máy nhiệt điện ở Thủ Đức và Nhà Bè cũng là nguồn thải khí SO2 vào không khí rất lớn.
Tình trạng ùn tắc giao thông tại Hà Nội và TP.HCM càng khiến mức độ ô nhiễm không khí trở nên nghiêm trọng hơn. Khi nhiều xe đứng một chỗ và nổ máy sẽ thải ra lượng chất ô nhiễm cực kỳ lớn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe người đi đường.
II/ Hiện trạng công nghệ xử lý ô nhiễm không khí tại khu vực.
Trong một thời gian dài hầu hết các nhà máy được xây dựng trước năm 1990 (kể cả các nhà máy được xây dựng trước năm 1975) đã hoạt động với những đặc điểm chung như sau:
- Phần lớn các nhà máy đều cũ, thời gian hoạt động tương đối dài (20 năm).
- Thiết bị lạc hậu, thuộc các thế hệ từ những năm 70 trở về trước.
- Nguyên liệu, nhiên liệu không tốt, nhiều chất thải, tiêu hao lớn.
- Công nghệ lạc hậu không đồng bộ.
- Hầu hết các xí nghiệp đều nằm trong khu dân cư mật độ cao.
- Hầu hết các xí nghiệp đều không có hệ thống kiểm soát và sử lý ô nhiễm môi trường không khí.
Vì vậy mà vấn đề bảo vệ môi trường không khí không được quan tâm đúng mức và gây nên nhiều ảnh hưởng xấu cho môi trường xung quanh.
Từ sau khi có luật đầu tư nước ngoài ra đời đến nay, nhất là sau khi cso luật môi trường (1994) tình trạng trên mới được từng bước cải thiện. Nhiều nhà máy hoạt động từ nhiều năm đã đầu tư lắp đặt các thiết bị xử lý khí thải (các nhà máy thuộc công ty thép miền nam, các nàh máy hoá chất...) một số nhà máy mới xây dựng cũng lắp đặt các thiết bị xử lý không khí theo dạng nhập toàn bộ dây chuyền hoặc thiết kế chế tạo tại việt nam. Có thể kể tên một số công trình xử lý theo các nhóm ngành sau:
- Đối với các nguồn ô nhiễm do đốt nhiên liệu: như phân tích ở trên đây là nguồn ô nhiễm không khí đáng kể nhất nhưng do nhiều nguyên nhân như chi phí đầu tư và vận hành lớn, việc lắp đặt thiết bị xử lý có thể ảnh hưởng đến chế độ làm việc của lò hơi, vận hành phức tạp...nên số nhà máy xí nghiệp tiến hành xử lý khói thải còn chiếm một tỷ lệ rất nhỏ, trông khi lẽ ra 100% nguồn ô nhiễm loại này cần phải được xử lý. Các nhà máy lắp đặt thiết bị xử lý khói thải có thể chia làm 3 loại:
+ Các nhà máy dùng dầu f.o làm nhiên liệu cho lò hơi, thuộc loại này phần lớn là các nhà máy, các cơ sở sản xuất có sẵn nằm trong dân cư đông đúc, công suất lò hơi nhỏ (5t/h) như xí nghiệp dựoc phẩm 26, đệt gia định, công ty pesco, cơ sở thuận thiên (tp. Hồ chí minh) hoặc nhà máy mới xây dựng hiện đại như công ty liên doanh tôn phương nam (khu công nghiệp biên hoà).
+ Các nhà máy chế biến hạt điều dùng nhiên liệu là vỏ hạt điều như nhà máy sacafa (tp. Hồ chí minh), nhà máy chế biến hạt điều tây ninh, nhà máy chế biến hạt điều long an.
+ Một số nhà máy dùng các loại nhiên liệu mạt cưa, trấu, bã mía, củi gỗ... Như các nhà máy gỗ long bình (biên hoà), nhà máy giấy thanh bình (tp. Hồ chí minh), nhà máy gạo sấy long an, nhà máy đường bình dương. Thiết bị xử lý trong phần lớn các trường hợp là thiết bị lọc bụi dạng ướt kết hợp với thiết bị hấp thụ hơi khí độc với dung dịch hấp thụ là nước. Hiệu suất xử lý đạt khoảng 80% với bụi tro và 50% với khí SO2 và NO2.
- Đối với ngành công nghiệp liệu kim: công ty thép miền nam là một trong số các đơn vị có sự quan tâm đúng mức đối với các vấn đề xử lý khí thải. Sau thử nghiệm ban đầu đối với việc xử lý khói thải từ lò luyện thép hồ quang của nhà máy thép tân bình bằng kỹ thuật và thiết bị trong nước (sử dụng thiết bị lọc ướt), công ty đã phối hợp với các công ty thuỵ sỹ và ấn độ thiết kế thi công hệ thống xửlý khói thải lò hồ quang cho các nhà máy thép biên hoà và thủ đức theo nguuyên lý thu bụi bằng túi lọc vải có kết hợp khử co. Với vốn đầu tư khoảng 10 tỷ đồng cho 2 nhà máy, các hệ thống nói trên đã hoạt động có hiệu quả, giảm đáng kể tải lượng các chất ô nhiễm không khí. Hiện nay công ty đang tiếp tục triển khai kỹ thuật trên cho các nhà máy còn lại của công ty.
- Đối với công nghiệp mạ kim loại: đây là một ngành công nghiệp đang có xu hướng phát triển nhanh tại khu vực với các chất ô nhiễm không khí điển hình là hơi axit (hcl), khí nh3, bụi. Một số nhà máy lớn trong khu vực như posvina (tp. Hcm), công ty tôn phương nam (khu côgn nghiệp biên hoà 1- đồng nai) đã phối hợp với cefinea xây dựng các hệ thống xử lý với thiết bị hấp thụ 2 bậc, dung môi là nước đạt hiệu quả cao. Một số công ty đang có kế hoạch xâ