Trong thời đại nền kinh tế thị trường trở thành một nền kinh tế của toàn cầu thì doanh nghiệp là một chủ thể quan trọng trong nền kinh tế, là nơi quyết định về các quá trình sản xuất được đưa ra. Trong quá trình hoạt động doanh nghiệp phải sử dụng các đầu vào để sản xuất ra đầu ra (sản phẩm, dịch vụ). Tại sao các doanh nghiệp lại cần vay vốn trong quá trình kinh doanh? Thứ nhất, quá trình kinh doanh đòi hỏi phải có khoảng cách thời gian từ khi mua nguyên liệu để đưa vào sản xuất cho đến khi bán được sản phẩm và thu tiền bán hàng. Trong trường hợp này doanh nghiệp cần vốn ngắn hạn để mua nguyên vật liệu và đáp ứng các chi dùng thường ngày khác. Thứ hai, doanh nghiệp cần đầu tư mua sắm máy móc để mở rộng qui mô sản xuất. Trong trường hợp này doanh nghiệp cần các nguồn vốn dài hạn hơn để có thời gian thu hồi vốn. Trong trường hợp các nguồn vốn nội tại của doanh nghiệp không đáp ứng được nhu cầu (ngắn và dài hạn) thì doanh nghiệp cần vay vốn từ bên ngoài. Nhưng trong tình hình nền kinh tế thế giới và trong nước vừa trải qua cuộc khủng hoảng tài chính, vấn đề tiếp cận nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng đối với doanh nghiệp bị hạn chế. Mặc dù Nhà nước chủ trương kiềm chế lãi suất, nhưng lãi suất hiện nay vẫn ở mức cao nên tình hình vay vốn ngân hàng của doanh nghiệp từ đầu năm 2010 tới nay rất khó khăn. Doanh nghiệp hiện tại vẫn phải vay vốn với lãi suất từ 14%/năm trở lên. Đây là một gánh nặng, vì các chính sách mà Chính phủ đã ban hành trong năm 2009 nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, như hỗ trợ 4% lãi suất, miễn thuế thu nhập doanh nghiệp, giảm 50% thuế suất thuế giá trị gia tăng…đã hết hạn từ cuối năm 2009. Theo tổng kết sơ bộ 6 tháng đầu năm 2010 cho thấy, số doanh nghiệp tiếp cận vốn vay chưa tới 50% số hồ sơ mà các doanh nghiệp có nhu cầu vay. Do đó, việc tiếp cận nguồn tín dụng thương mại được các nhà kinh doanh quan tâm nhiều hơn. quan hệ tín dụng thương mại được hình thành trong điều kiện thành phẩm của doanh nghiệp thừa vốn là nguyên, nhiên, vật liệu của doanh nghiệp thiếu vốn, nếu quan hệ mua bán chịu được thực hiện trong một thời hạn nhất định thì cả hai đều có lợi. Vì có sự khác biệt về chu kỳ sản xuất kinh doanh giữa các doanh nghiệp, nên việc thừa vốn ở doanh nghiệp này và thiếu vốn ở doanh nghiệp khác là hiện tượng phổ biến và có tính tất yếu.
20 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 9431 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tín dụng thương mại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU
GIỚI THIỆU
Trong thời đại nền kinh tế thị trường trở thành một nền kinh tế của toàn cầu thì doanh nghiệp là một chủ thể quan trọng trong nền kinh tế, là nơi quyết định về các quá trình sản xuất được đưa ra. Trong quá trình hoạt động doanh nghiệp phải sử dụng các đầu vào để sản xuất ra đầu ra (sản phẩm, dịch vụ). Tại sao các doanh nghiệp lại cần vay vốn trong quá trình kinh doanh? Thứ nhất, quá trình kinh doanh đòi hỏi phải có khoảng cách thời gian từ khi mua nguyên liệu để đưa vào sản xuất cho đến khi bán được sản phẩm và thu tiền bán hàng. Trong trường hợp này doanh nghiệp cần vốn ngắn hạn để mua nguyên vật liệu và đáp ứng các chi dùng thường ngày khác. Thứ hai, doanh nghiệp cần đầu tư mua sắm máy móc để mở rộng qui mô sản xuất. Trong trường hợp này doanh nghiệp cần các nguồn vốn dài hạn hơn để có thời gian thu hồi vốn. Trong trường hợp các nguồn vốn nội tại của doanh nghiệp không đáp ứng được nhu cầu (ngắn và dài hạn) thì doanh nghiệp cần vay vốn từ bên ngoài. Nhưng trong tình hình nền kinh tế thế giới và trong nước vừa trải qua cuộc khủng hoảng tài chính, vấn đề tiếp cận nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng đối với doanh nghiệp bị hạn chế. Mặc dù Nhà nước chủ trương kiềm chế lãi suất, nhưng lãi suất hiện nay vẫn ở mức cao nên tình hình vay vốn ngân hàng của doanh nghiệp từ đầu năm 2010 tới nay rất khó khăn. Doanh nghiệp hiện tại vẫn phải vay vốn với lãi suất từ 14%/năm trở lên. Đây là một gánh nặng, vì các chính sách mà Chính phủ đã ban hành trong năm 2009 nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, như hỗ trợ 4% lãi suất, miễn thuế thu nhập doanh nghiệp, giảm 50% thuế suất thuế giá trị gia tăng…đã hết hạn từ cuối năm 2009. Theo tổng kết sơ bộ 6 tháng đầu năm 2010 cho thấy, số doanh nghiệp tiếp cận vốn vay chưa tới 50% số hồ sơ mà các doanh nghiệp có nhu cầu vay. Do đó, việc tiếp cận nguồn tín dụng thương mại được các nhà kinh doanh quan tâm nhiều hơn. quan hệ tín dụng thương mại được hình thành trong điều kiện thành phẩm của doanh nghiệp thừa vốn là nguyên, nhiên, vật liệu của doanh nghiệp thiếu vốn, nếu quan hệ mua bán chịu được thực hiện trong một thời hạn nhất định thì cả hai đều có lợi. Vì có sự khác biệt về chu kỳ sản xuất kinh doanh giữa các doanh nghiệp, nên việc thừa vốn ở doanh nghiệp này và thiếu vốn ở doanh nghiệp khác là hiện tượng phổ biến và có tính tất yếu.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CÔNG CỤ CỦA THƯƠNG MẠI TÍN DỤNG
1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1Khái niệm: Tín dụng thương mại là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp dưới hình thức mua bán chịu hàng hóa. Đây là quan hệ tín dụng giữa các nhà sản xuất - kinh doanh được thực hiện dưới hình thức mua bán, bán chịu hàng hóa. Hành vi mua bán chịu hàng hóa được xem là hình thức tín dụng - người bán chuyển giao cho người mua quyền sử dụng vốn tạm thời trong một thời gian nhất định, và khi đến thời hạn đã được thỏa thuận, người mua phải hoàn lại vốn cho người bán dưới hình thức tiền tệ và cả phần lãi cho người bán chịu.
1.2 Đặc điểm của tín dụng thương mại
- Vốn cho vay theo tín dụng thương mại là hàng hóa hay một bộ phận của vốn sản xuất chuẩn bị chuyển hóa thành tiền, chưa phải là tiền nhàn rỗi.
+Người cho vay (chủ nợ) và người đi vay (con nợ) đều là những doanh nghiệp trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa.
+Khối lượng tín dụng lớn hay nhỏ phụ thuộc vào tổng giá trị của khối lượng hàng hóa được đưa ra mua bán chịu.
-Một điều khoản tín dụng thương mại mà các doanh nghiệp thường thỏa thuận khi sử dụng hình thức tín dụng này là: “2/10 Net 30” có nghĩa là nếu trả tiền mặt trong vòng 10 ngày kể từ khi mua hàng, người mua sẽ được chiết khấu 2% trên giá cả hàng bán, người mua sẽ phải trả toàn bộ giá bán sau 10 ngày và được trả chậm trong vòng 30 ngày.
-Để đảm bảo người mua chịu trả nợ đúng hạn, bên cạnh sự tin tưởng, người bán chịu còn đòi hỏi phải có một chứng cứ pháp lý, đó chính là tờ giấy chứng nhận quan hệ mua bán chịu nêu trên, tờ giấy chứng nhận này có thể do chủ nợ lập để đòi tiền, hoặc do con nợ lập để cam kết trả tiền, nó được gọi là “kỳ phiếu thương mại” hay “thương phiếu”. Vì vậy, thương phiếu ra đời trên cơ sở quan hệ mua bán chịu giữa các chủ thể trong nền kinh tế. Trong quá trình phát triển, thương phiếu dần dần biến đổi tính chất, từ một giấy chứng nhận nợ thông thường trở thành một công cụ lưu thông tín dụng có thể thực hiện được chức năng phương tiện lưu thông và phương tiện thanh toán thay thế cho tiền mặt trong nền kinh tế.
1.2.1 Đặc điểm của thương phiếu:
+Dựa trên cơ sở người lập: thương phiếu tồn tại dưới 2 hình thức là hối phiếu và lệnh phiếu:
Hối phiếu: là chứng chỉ có giá do người bán chịu lập, yêu cầu người mua chịu trả một số tiền xác định vào một thời gian và ở một địa điểm nhất định cho người thụ hưởng.
1.2.2 Nội dung hối phiếu:
-Tiêu đề :”Lệnh phiếu “ ghi ở bề mặt của lệnh phiếu
-Một cam kết vô điều kiện để thanh toán một số tiền nhất định
-Thời hạn trả tiền.
-Địa điểm trả tiền
-Tên người hưởng lợi hoặc tên của người ra lệnh thực hiện việc thanh toán
-Địa điểm,ngày ký phát lệnh phiếu
-Chữ ký người ký phát lệnh phiếu.
Hình: Hối phiếu
-Lệnh phiếu: là chứng chỉ có giá do người mua chịu lập, cam kết trả một số tiền xác định trong một thời gian và ở một địa điểm nhất định cho người thụ hưởng.
Trên lệnh phiếu kì hạn được quy định rõ
Một lệnh phiếu có thể do một hay nhiều người ký phát cam kết thanh toán cho một hay nhiều người hưởng lợi.
Lệnh phiếu cần có sự bảo lãnh của ngân hàng hoặc công ty tài chính để đảm bảo khả năng thanh toán của lệnh phiếu.
1.2.3 Nội dung lệnh phiếu:
-Tiêu đề :”Lệnh phiếu “ ghi ở bề mặt của lệnh phiếu
-Một cam kết vô điều kiện để thanh toán một số tiền nhất định
-Thời hạn trả tiền.
-Địa điểm trả tiền
-Tên người hưởng lợi hoặc tên của người ra lệnh thực hiện việc thanh toán
-Địa điểm,ngày ký phát lệnh phiếu
-Chữ ký người ký phát lệnh phiếu.
Lệnh phiếu trả ngay:
Lệnh phiếu có kỳ hạn:
Hình2: Lệnh phiếu
Hối phiếu và lệnh phiếu nếu thiếu một trong những điều kiện trên sẽ trở thành vô hiệu lực ngoại trừ một số trường hợp đặc biệt. Đồng thời để thực hiện tốt quản lý của nhà nước đối với hoạt động thương phiếu, ngân hàng nhà nước là người chịu trách nhiệm in, cung cấp và bảo quản mẫu thương phiếu.
1.2.4 Một số điểm khác nhau giữa hối phiếu và lệnh phiếu:
+ Hối phiếu do chủ nợ lập, còn lệnh phiếu do người thiếu nợ lập
+ Hối phiếu thông thường có 3 người quan hệ với nhau: Người phát hành hối phiếu (người phát lệnh), người trả tiền theo hối phiếu (người thu lệnh) và người hưởng thụ.
+Còn lệnh phiếu thường có 2 người liên hệ: người phát lệnh phiếu và người hưởng thụ.
+Hối phiếu thường gồm hai bản, lệnh phiếu chỉ có một bản chính do con nợ phát ra để chuyển cho người hưởng lợi lệnh phiếu đó.
+Dựa trên cơ sở phương thức chuyển nhượng: thương phiếu tồn tại dưới 3 hình thức:
- Thương phiếu vô danh: là loại thương phiếu không ghi tên người thụ hưởng
- Thương phiếu đích danh: là loại thương phiếu có ghi tên người thụ hưởng nhưng không được chuyển nhượng
- Thương phiếu ký danh: là loại thương phiếu có ghi tên người thụ hưởng và có quyền chuyển nhượng
1.2.5 Tính chất của thương phiếu:
- Tính trừu tượng: Trên thương phiếu không ghi cụ thể nguyên nhân phát sinh khoản nợ mà chỉ ghi các thông tin về số tiền phải trả, thời hạn trả tiền và người trả tiền.
- Tính bắt buộc: Qui định người trả tiền phải thanh toán cho người thụ hưởng đúng hạn, không được phép từ chối hoặc trì hoãn việc trả tiền.
- Tính lưu thông: Thương phiếu được chuyển nhượng từ người thụ hưởng sang người khác bằng phương pháp ký hậu, nó có thể chuyển hoá ra tiền khi mang đến ngân hàng xin chiết khấu hoặc cầm cố. tính chất này khiến thương phiếu trở thành một loại phương tiện thanh toán thay cho tiền trong thời gian hiệu lực và mệnh giá thương phiếu.
1.2.6 Pháp luật về thương phiếu:
Pháp luật về thương phiếu thương mại xuất hiện từ lâu (khoảng cuối thế kỷ XI đầu thế kỷ XII) ở các nước Phương Tây, đáp ứng các yêu cầu tất yếu, khách quan từ hoạt thương mại. và ngày nay, thương phiếu được xem là một công cụ tín dụng, một phương tiện thanh toán hữu hiệu trong hoạt động thương mại.
Xuất phát từ vai trò kinh tế của thương phiếu, các nước đã chú trọng xây dựng một cách có hệ thống và tương đối cụ thể các quy phạm pháp luật nhằm tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động của thương phiếu. không chỉ dừng lại ở hệ thống pháp luật trong nước, trên phương diện quốc tế, pháp luật thương mại quốc tế cũng đòi hỏi phải có sự thống nhất về luật pháp liên quan đến thương phiếu, trong chừng mực có thể đạt được, để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của thương nhân cũng như để bảo đảm một cách hữu hiệu sự tồn tại và hoạt động của thương phiếu. Điển hình là Công ước Geneve ngày 7 tháng 6 năm 1930 về hối phiếu và lệnh phiếu đã được ký kết.
Từ đó đến nay, pháp luật thương mại quốc tế đã có rất nhiều các văn bản điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động thương phiếu. Hơn nữa, điều này nhằm đáp ứng với tình hình phát triển kinh tế thế giới nói chung.
ở Việt Nam, trong thời kỳ áp dụng cơ chế tập trung, bao cấp. Nhà nước can thiệp rất sâu trong hoạt động kinh tế. Các tổ chức kinh tế, công dân chưa được tự do kinh doanh: pháp luật kinh doanh nói chung cũng như pháp luật thương mại chưa được chú trọng. Điều này chỉ thật sự được đổi mới và phát triển từ khi Đảng và Nhà nước chuyển hướng phát triển nền kinh tế nước ta theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Trong hoàn cảng đó, thương phiếu và pháp luật thương phiếu chỉ được đề cập trong những năm gần đây: Luật Thương Mại 1997. Pháp lệnh Thương phiếu được UBTVQH thông qua ngày 24/12/1999, có hiệu lực từ ngày 01/07/2000, và Nghị định số 32/NĐ-CP của Chính phủ ngày 05/07/2001 (gọi tắt là NĐ 32) hướng dẫn chi tiết thi hành pháp lệnh thương phiếu. Tuy nhiên, những văn bản pháp luật vừa nêu vẫn được coi là chưa đủ để có một mội trường pháp lý thuận tiện cho thương phiếu hoạt động
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG TÍN DỤNG THƯƠNG MẠI TRONG NƯỚC VÀ QUỐC TẾ CỦAVIỆT NAM HIỆN NAY
2. TÍN DỤNG THƯƠNG MẠI TRONG NƯỚC
2.1 Tình hình trong nước
Do đặc điểm tuần hoàn, lưu chuyển vốn khác nhau, trong những đơn vị sản xuất kinh doanh, nên xảy ra sự không ăn khớp giữa sản xuất và tiêu thụ sản phẩm đây là tình trạng phổ biến của các doanh nghiệp kinh doanh sản xuất ở Việt Nam hiện nay. Tại một thời điểm, trong khi một số nhà sản xuất có hàng hóa muốn bán thì số khác lại muốn mua hàng hóa đó nhưng không có tiền. Từ đó phát sinh việc mua bán chịu giữa các đối tượng này ngày càng phổ biến hơn. Đây cũng chính là cơ sở của tín dụng thương mại. Và tín dụng thương mại đã đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam.
Trong nền kinh tế thị trường hiện tượng thừa thiếu vốn ở các doanh nghiệp thường xuyên xảy ra, vì vậy hoạt động của tín dụng thương mại một mặt đáp ứng được nhu cầu vốn của các doanh nghiệp tạm thời thiếu đồng thời giúp cho các doanh nghiệp tiêu thụ được hàng hoá của mình. Mặt khác sự tồn tại của hình thức tín dụng này giúp cho các doanh nghiệp khai thác được vốn nhằm đáp ứng kịp thời cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Ngay từ khi xuất hiện thương phiếu được xem là một phương tiện thanh toán hữu hiệu, đáp ứng các nhu cầu thanh toán trong trường hợp có sự khác biệt về địa lý giữa nơi bán và nơi mua. Và hiện nay, thương phiếu vẫn giữ vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay.
Bên cạnh vai trò là một phương tiện thanh toán, thương phiếu còn được xem là một công cụ tín dụng, sỡ dĩ có vai trò này bởi vì các doanh nghiệp kinh doanh sản xuất thực hiện các hoạt động chiết khấu trên thương phiếu. Tín dụng chiết khấu thương phiếu được hiểu là nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn, mà thực chất của hình thức này là ngân hàng tiến hành mua lại các thương phiếu đang trong thời kỳ chưa đến hạn thanh toán và cung ứng một khoản vốn cho các thương nhân để họ có điều kiện tiếp tục tái sản xuất. Khi kết thúc thời hạn chiết khấu, ngân hàng sẽ đòi tiền ở người có nhiệm vụ trả tiền thương phiếu.
2.1.1Tăng nguồn vốn kinh doanh
Trong tín dụng thương mại, các nhà sản xuất có thể tận dụng được nguồn vốn nhàn rỗi để sản xuất, làm tăng nguồn vốn kinh doanh trong thời gian ngắn, với chi phí thấp hoặc chi phí có thể bằng không, tùy theo mối quan hệ giữa người cấp tín dụng và người sử dụng nguồn vốn đó.
2.1.2 Tiết kiệm chi phí và lưu thông tiền tệ
Sử dụng vốn tín dụng thương mại giúp cho các nhà sản xuất giảm chi phí sử dụng vốn. Để đáp ứng nhu cầu vốn, thay vì đi vay tại các các ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng khác với mức lãi suất cao, thủ tục phức tạp, phát sinh nhiều chi phí trung gian từ việc vay vốn, thì nhà sản xuất có thể mua chịu nguyên vật liệu, hay nhập hàng từ nhà cung ứng với chi phí trả sau và có mức chiết khấu hợp lý thỏa thuận được. Việc sử dụng nguồn vốn tín dụng không chỉ có lợi cho nhà sản xuất mà còn có lợi cho kinh tế về mặt vĩ mô, khi không phải cung ứng thêm lượng tiền ra lưu thông. Giúp cho ngân hàng trung ương thực hiện chính sách tiền tệ dễ dàng hơn.
2.1.3 Đẩy nhanh tốc độ chu chuyển hàng hóa
Trong nền kinh tế thị trường hiện tượng thừa thiếu vốn ở các doanh nghiệp thường xuyên xảy ra, vì vậy hoạt động của tín dụng thương mại một mặt đáp ứng được nhu cầu vốn của các doanh nghiệp tạm thời thiếu đồng thời giúp cho các doanh nghiệp tiêu thụ được hàng hoá của mình. Nguồn vốn tín dụng thương mại giúp đáp ứng nhu cầu vốn trong thời vụ sản xuất cao điểm, đáp ứng nhu cầu thị trường. Đồng thời dưới cơ chế hoạt động của tín dụng thương mại, nhà sản xuất có thể bán được hàng hóa của mình, giải quyết tình trạng tồn kho, và các chi phí có liên quan đến tồn trữ hàng hóa. Người sản xuất được cấp tín dụng thương mại sẽ bắt đầu chu kì sản xuất mới mà không cần chờ đợi đến khi có vốn mới. Như vậy, tín dụng thương mại đã huy động được nguồn vốn nhàn rỗi vào vòng quay sản xuất, làm sản xuất hiệu quả hơn, dòng tiền có khả năng sinh lời nhiều hơn. Trong sản xuất kinh doanh, tín dụng thương mại là một phần không thể thiếu nhằm cung ứng vốn. Qua đó, còn liên kết các nhà sản xuất với nhau, bởi mối quan hệ của nhà sản xuất được hiểu là đầu ra của người này là đầu vào của người kia.
2.1.4 Khuyến khích sản xuất kinh doanh
Tín dụng thương mại dưa trên sự tín nhiệm giữa các nhà sản xuất với nhau, hỗ trợ nhau trong quá trình sản xuất. Thực tế, các nhà sản xuất sử dụng vốn tín dụng vốn thương mại trong hầu hết các trường hợp mua nguyên vật liệu, nhập hàng, tiêu thụ sản phẩm… thay vì đi vay tại ngân hàng với thủ tục phức tạp, lãi suất cao. Trong những giai đoạn lạm phát, chính sách thắt chặt tiền tệ làm cho nguồn vốn đến tay các doanh nghiệp khó khăn hơn thì tín dụng thương mại với cam kết đơn giản giữa các doanh nghiệp, cùng chi phí sử dụng vốn cực thấp lại là biện pháp vốn tối ưu cho các doanh nghiệp, giúp duy trì sản xuất kinh doanh. Tín dụng thương mại được xem là hình thức tài trợ rẻ tiền, rất linh hoạt trong kinh doanh. Bên cạnh đó, nó còn tạo điều kiện mở rộng mối quan hệ với đối tác lâu bền giữa các doanh nghiệp trong nền kinh tế.
Hình3: Quá trình hoạt động của tín dụng thương mại
2.2 Tín dụng thương mại quốc tế
Trong các quan hệ quốc tế, quan hệ về tài chính - tín dụng - ngân hàng là quan hệ phổ biến giữa các nước trên thế giới hiện nay; mối quan hệ này được đặc biệt quan tâm ở các nước đã và đang phát triển đối với các nước kém phát triển.
Đảng, Nhà nước ta đã xác định đường lối phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH là tăng trưởng nhanh và bền vững cả trước mắt cũng như lâu dài phải dựa trên hai yếu tố: Nội lực và ngoại lực, trong đó nội lực là yếu tố quyết định và bên ngoài là yếu tố quan trọng. Chính vì vậy, hơn 10 năm qua nước ta đã sử dụng vốn vay nước ngoài chủ yếu là vay vốn ODA, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn viện trợ cùng với nguồn lực tài chính trong nước là yếu tố quyết định để xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội và đã đạt nhiều kết quả đáng khích lệ; Mức tăng trưởng kinh tế mấy năm qua xấp xỉ 8%, nước ta đã dần dần khẳng định vị thế trên thế giới và các nước trong khu vực; Đời sống tinh thần và vật chất của nhân dân được nâng lên một bước khả quan.
Một trong những yếu tố tạo nên thắng lợi về phát triển kinh tế thời gian qua là nguồn vốn vay nước ngoài mà chủ yếu là vay vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) của nhiều nước.
Biểu đồ: Nợ vay nước ngoài và tín dụng thương mại quốc tế năm 2010
Nguồn :www.vdb.gov.vn
Tính đến thời điểm này, nước ta đang có số nợ vay khoảng 14 tỷ USD, trong đó vay hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) chiếm khoảng 85%, còn lại trên là 15% vay tín dụng thương mại. Hàng năm ngân sách nhà nước bố trí chi khoảng 1/3 tổng số tiền chi trả nợ để trả nợ nước ngoài, chủ yếu là vốn ODA của các nước phương Tây.
Tình hình kinh tế nước ta đang trên đà tăng trưởng, nguồn đầu tư trực tiếp bằng vốn nước ngoài (FDI) và nguồn vốn của các nhà đầu tư trong nước tăng lên thì lượng vốn vay ODA nên giảm dần và có thể vay vốn tín dụng thương mại thông thường ở các tổ chức OCR, vay của ADB, vay của IBRRD, hoặc của WB … khi cần thiết.
Chúng ta cũng không nên dựa vào ngưỡng an toàn cho nợ nước ngoài theo tập quán quốc tế là 50% GDP. Thực tế ở nước ta thì năm 2000 tỷ trọng nợ gần 40% trong GDP; Dự kiến năm 2006 là gần 37% GDP; Bình quân 2001-2005 là gần 36% GDP; Ước năm 2009-2010 tỷ trọng khoảng 37% GDP. Vì mỗi thời kỳ, mỗi nước có những đặc điểm về kinh tế và xã hội khác nhau, không vì theo tập quán quốc tế ấy để dẫn đến tình trạng “tốt vay dày nợ”…
Trong giai đoạn 2006-2010 và tiếp theo đến 2015, nước ta dần dần đi vào thế ổn định khi gia nhập WTO, sẽ được hưởng những thuận lợi nhất định. Xu hướng đẩy mạnh huy động nguồn vốn của các nhà đầu tư trong nước, nhà nước và nhân dân đều có lợi và tạo ra khả năng phát triển bền vững. Đồng thời tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp đầu tư 100% vốn (FDI) để giảm dần số dư nợ vay hiện nay xuống đến mức hợp lý; Từ đó số chi trả nợ từ ngân sách nhà nước hàng năm chỉ còn 1/4 đến 1/5 số tiền chi để trả nợ cho nước ngoài; Trường hợp cần thiết phải vay ODA hoặc vay tín dụng thương mại thông thường của các nước phải đặt hiệu quả là chỉ tiêu hàng đầu cho mỗi lần vay, cho mỗi dự án.
Nhà nước và từng doanh nghiệp cần cân nhắc kỹ lưỡng về hiệu quả cho mỗi lần vay, có cơ chế kiểm soát chặt chẽ việc giải ngân vốn vay bao gồm cả vay ưu đãi (ODA) và vay thương mại thông thường. Cần quy định trách nhiệm kinh tế và hành chính của người đi vay thì chắc chắn việc sử dụng và quản lý vốn vay nước ngoài sẽ là động lực quan trọng góp phần tích chực đưa nước ta tiến nhanh, tiến vững chắc sớm ra khỏi danh sách các nước chậm phát triển trên thế giới.
2.3 Ưu và nhược điểm của tín dụng thương mại
2.3.1Trong nước
Ưu điểm
-Tín dụng thương mại góp phần đẩy nhanh quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa, làm cho chu kỳ sản xuất rút ngắn lại.
-Tín dụng thương mại tham gia vào quá trình điều tiết vốn giữa các doanh nghiệp một cách trực tiếp mà không thông qua bất kỳ cơ quan trung gian nào.
-Tín dụng thương mại được cấp giữa các doanh nghiệp quen biết, uy tín nên có lợi thế là thủ tục nhanh, gọn, đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn và góp phần đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp.
-Tín dụng thương mại góp phần làm giảm khối lượng tiền mặt trong lưu thông, làm giảm chi phí lưu thông xã hội.
-Tạo điều kiện mở rộng hoạt động của tín dụng ngân hàng thông qua nghiệp vụ chiết khấu, bảo lãnh và thu hộ thương phiếu, sẽ giúp ngân hàng tăng thu nhập nhưng ít rủi ro trong hoạt động kinh doanh của mình.
-Trong trường hợp người đi vay vốn ngân hàng nhận nợ bằng lệnh phiếu, khi cần thiết, ngân hàng có thể bán khoản nợ này để thu nợ trước hạn bằng cách chuyển nhượng lệnh phiếu cho ngân hàng khác. Đây là một giải pháp chứng khoán hoá các khoản cho vay của ngân hàng.
-Tín dụng thương mại tạo ra thương phiếu bổ sung hàng hoá cho thị trường mở, tạo điều kiện cho ngân hàng trung ương thực hiện tốt công tác điều hoà khối tiền trong lưu thông.
-Tạo thuận
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hoanchinh_5901.doc
- hoanchinh_5901.pdf