Vốn cho phát triển kinh tế - xã hội là một vấn đề cực kỳ quan trọng và cấp bách trong cuộc sống hiện nay và nhiều năm tới ở nước ta. Để duy trì được những thành quả mà Việt nam đã đạt được nhờ mấy năm đổi mới, giữ vững nhịp độ trưởng kinh tế cao và tránh cho đất nước rơi vào tình trạng “tụt hậu” với nhiều nước trong khu vực, một trong những vấn đề được Chính phủ và các doanh nghiệp quan tâm hàng đầu là nguồn vốn đầu tư để phát triển kinh tế.
Muốn tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá, làm cho dân giàu nước mạnh, đòi hỏi phải có nhiều vốn. Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế năm 2000 đã chỉ rõ “chính sách tài chính quốc gia hướng vào việc tạo vốn và sử dụng vốn có hiệu quả trong toàn xã hội, tăng nhanh sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân, điều tiết quan hệ tích luỹ tiêu dùng theo hướng nâng dần tỷ lệ tích luỹ”. Hiện nay, vấn đề tạo vốn và sử dụng vốn có hiệu quả đang được Chính phủ đặc biệt quan tâm. Chúng ta có huy động được nguồn vốn bên ngoài và phát triển nhanh chóng nguồn vốn trong nước thì mới có thể đáp ứng được yêu cầu công nghiệp - hoá hiện đại hoá đất nước.
Để tiến hành sản xuất - kinh doanh đòi hỏi các doanh nghiệp phải có một lượng vốn nhất định bao gồm: vốn cố định, vốn lưu động và vốn chuyên dùng khác. Doanh nghiệp có nhiệm vụ tổ chức, huy động các loại vốn cần thiết cho nhu cầu kinh doanh, đồng thời tiến hành phân phối quản lý có hiệu quả cao nhất trên cơ sở chấp hành các chế độ, chính sách quản lý kinh tế tài chính và kỷ luật thanh toán của Nhà nước.
Công ty VBĐQ thành phố Hà nội là một doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Tổng Công ty VBĐQ Việt nam, hạch toán độc lập. Với chức năng can thiệp thị trường khi Nhà nước yêu cầu, kinh doanh VBĐQ và thực hiện một số hoạt động dịch vụ khác, vấn đề về vốn và sử dụng vốn có hiệu quả là một trong những mục tiêu hàng đầu của Công ty.
Vừa phải hoàn thành các nhiệm vụ chính trị do Nhà nước giao phó , vừa phải chuyển sang hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường, Công ty Vàng Bạc Đá Quí Hà Nội bước đầu đã gặp không ít khó khăn, lúng túng do chưa kịp đổi mới tư duy kinh doanh để theo kịp với cơ chế mới, còn gò bó cứng nhắc trong phương thức kinh doanh. Trong thời gian gần đây, Công ty đã tiến hành áp dụng các hình thức huy động vốn khác nhau vào hoạt động sản xuất và kinh doanh nên đã đạt được những thành công bước đầu.
Tuy nhiên, vì một lý do nào đó mà Công ty vẫn chưa khai thác hết tiềm năng của các chính sách cũng như các quyết định và biện pháp huy động nguồn vốn hiện nay. Chính vì vậy mà việc nghiên cứu thực trạng nguồn vốn của Công ty để từ đó có thể đưa ra những giải pháp hữu hiệu nhằm tăng nguồn vốn của Công ty cũng như hoàn thiện hơn nữa các hoạt động này là vấn đề bức thiết đặt ra không chỉ với ban lãnh đạo của Công ty mà còn của cả những ai quan tâm đến sự tồn tại và phát triển của Công ty Vàng Bạc Đá Quí - Hà Nội.
19 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2124 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tình hình hoạt động tại công ty vàng bạc đá quý TP Hà Nội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lời mở đầu
Vốn cho phát triển kinh tế - xã hội là một vấn đề cực kỳ quan trọng và cấp bách trong cuộc sống hiện nay và nhiều năm tới ở nước ta. Để duy trì được những thành quả mà Việt nam đã đạt được nhờ mấy năm đổi mới, giữ vững nhịp độ trưởng kinh tế cao và tránh cho đất nước rơi vào tình trạng “tụt hậu” với nhiều nước trong khu vực, một trong những vấn đề được Chính phủ và các doanh nghiệp quan tâm hàng đầu là nguồn vốn đầu tư để phát triển kinh tế.
Muốn tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá, làm cho dân giàu nước mạnh, đòi hỏi phải có nhiều vốn. Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế năm 2000 đã chỉ rõ “chính sách tài chính quốc gia hướng vào việc tạo vốn và sử dụng vốn có hiệu quả trong toàn xã hội, tăng nhanh sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân, điều tiết quan hệ tích luỹ tiêu dùng theo hướng nâng dần tỷ lệ tích luỹ”. Hiện nay, vấn đề tạo vốn và sử dụng vốn có hiệu quả đang được Chính phủ đặc biệt quan tâm. Chúng ta có huy động được nguồn vốn bên ngoài và phát triển nhanh chóng nguồn vốn trong nước thì mới có thể đáp ứng được yêu cầu công nghiệp - hoá hiện đại hoá đất nước.
Để tiến hành sản xuất - kinh doanh đòi hỏi các doanh nghiệp phải có một lượng vốn nhất định bao gồm: vốn cố định, vốn lưu động và vốn chuyên dùng khác. Doanh nghiệp có nhiệm vụ tổ chức, huy động các loại vốn cần thiết cho nhu cầu kinh doanh, đồng thời tiến hành phân phối quản lý có hiệu quả cao nhất trên cơ sở chấp hành các chế độ, chính sách quản lý kinh tế tài chính và kỷ luật thanh toán của Nhà nước.
Công ty VBĐQ thành phố Hà nội là một doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Tổng Công ty VBĐQ Việt nam, hạch toán độc lập. Với chức năng can thiệp thị trường khi Nhà nước yêu cầu, kinh doanh VBĐQ và thực hiện một số hoạt động dịch vụ khác, vấn đề về vốn và sử dụng vốn có hiệu quả là một trong những mục tiêu hàng đầu của Công ty.
Vừa phải hoàn thành các nhiệm vụ chính trị do Nhà nước giao phó , vừa phải chuyển sang hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường, Công ty Vàng Bạc Đá Quí Hà Nội bước đầu đã gặp không ít khó khăn, lúng túng do chưa kịp đổi mới tư duy kinh doanh để theo kịp với cơ chế mới, còn gò bó cứng nhắc trong phương thức kinh doanh... Trong thời gian gần đây, Công ty đã tiến hành áp dụng các hình thức huy động vốn khác nhau vào hoạt động sản xuất và kinh doanh nên đã đạt được những thành công bước đầu.
Tuy nhiên, vì một lý do nào đó mà Công ty vẫn chưa khai thác hết tiềm năng của các chính sách cũng như các quyết định và biện pháp huy động nguồn vốn hiện nay. Chính vì vậy mà việc nghiên cứu thực trạng nguồn vốn của Công ty để từ đó có thể đưa ra những giải pháp hữu hiệu nhằm tăng nguồn vốn của Công ty cũng như hoàn thiện hơn nữa các hoạt động này là vấn đề bức thiết đặt ra không chỉ với ban lãnh đạo của Công ty mà còn của cả những ai quan tâm đến sự tồn tại và phát triển của Công ty Vàng Bạc Đá Quí - Hà Nội.
- phần thứ nhất -
*****
Khái quát về công ty Vàng bạc đá quý tp hà nội
I. lịch sử hình thành và phát triển
Công ty VBĐQ Hà nội là một doanh nghiệp quốc doanh chịu sự quản lý trực tiếp của Tổng Công ty VBĐQ Việt Nam. Tiền thân của Công ty là cửa hàng VBĐQ Đinh tiên Hoàng, được Ngân hàng Nhà nước Trung ương thành lập từ năm 1958 với nhiệm vụ chủ yếu là quản lý vàng bạc, kinh doanh hàng mỹ nghệ, sửa chữa và làm mới tư trang vàng bạc phục vụ nhu cầu nhân dân thủ đô, các tỉnh lân cận và khách du lịch nước ngoài. Cho tới năm 1980, khi Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách đổi mới trong quản lý kinh tế và cụ thể là ban hành nhiều chính sách hình thành và điều chỉnh cơ chế mới về quản lý và kinh doanh tiền tệ thì Ngân hàng Nhà nước đã quyết định chuyển việc quản lý vàng bạc sang kinh doanh vàng bạc, đá quý và các dịch vụ liên quan như sửa chữa, làm mới tư trang. . .
Ngày 14/08/1981, Tổng giám đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ( nay là thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) đã ký quyết định số 88-NH-QĐ, theo đó thành lập Công ty kinh doanh và quản lý vàng bạc Hà nội, lấy địa điểm 89 Đinh tiên Hoàng làm trụ sở chính và bàn giao cửa hàng Vàng bạc 89 Đinh tiên Hoàng cho Công ty quản lý. Cho đến năm 1987, Công ty kinh doanh vàng bạc Hà nội mới thực sự chuyển hẳn sang kinh doanh Vàng bạc với tên giao dịch Quốc tế là GOSICO.
Quá trình phát triển của công ty về quy mô có thể chia ra thành các giai đoạn sau :
- Giai đoạn 1981 - 1986 : Đây là thời kỳ kinh doanh của Công ty còn mang nặng tính bao cấp. Cho đến năm 1987, Công ty kinh doanh và quản lý vàng bạc Hà nội vẫn chịu sự chỉ đạo và điều hành trực tiếp của Ngân hàng Nhà nước -Hà nội. Cũng trong giai đoạn này, mọi hoạt động, mọi quyết định trong việc quản lý và kinh doanh Vàng bạc của Công ty đều phải tuân theo nghị định 38-CP của Hội đồng Chính phủ. Nhiệm vụ chủ yếu của Công ty trong thời kỳ này hầu như chỉ là quản lý vàng bạc theo mệnh lệnh của Ngân hàng Nhà nước Việt nam.
- Giai đoạn 1987-1989 : Đây là thời kỳ mở rộng chuyển đổi sang cơ chế thị trường. Với chỉ thị 40/NH-CT của Tổng giám đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc mở rộng kinh doanh vàng bạc đá quý, Công ty đã tiến hành mở rộng quy mô kinh doanh, phát triển mạnh việc mua bán vàng ta nhằm đáp ứng nhu cầu mua vàng dự trữ của nhân dân trong thời kỳ này . Bởi lẽ, đây là thời kỳ nền kinh tế nước ta rơi vào khủng hoảng trầm trọng, tỉ lệ lạm phát cao, tiền mặt mất giá nghiêm trọng nên nhu cầu về dự trữ vàng được coi như là cứu cánh. Trong thời kỳ này, quy mô kinh doanh của Công ty đã phát triển lên 12 cửa hàng, 1 xưởng sản xuất, doanh số hoạt động tăng lên, lãi bình quân 110 triệu đồng/năm.
- Giai đoạn 1990 - 1995: Đây được coi là giai đoạn kinh doanh khó khăn nhất của Công ty với nhiều biến động song đây cũng là thời kỳ hoạt động thành công nhất của Công ty cả về nhiệm vụ chính trị lẫn mục tiêu kinh doanh. Trong thời kỳ này, Công ty hoạt động trong điều kiện môi trường kinh doanh phức tạp, trong một điều kiện nền kinh tế thị trường có sự điều tiết và định hướng của Nhà nước, lúc này Công ty đã mở rộng mặt hàng kinh doanh mới đó là kinh doanh đá quý. Do vậy, tên Công ty được đổi thành Công ty Vàng Bạc Đá quý Hà Nội.
+ 1990 - 1993 : Đây là giai đoạn mà sự biến động trong kinh doanh được Công ty tập trung khai thác chủ yếu là sự biến động lớn về giá vàng. Bên cạnh đó, Công ty phải hoạt động kinh doanh trên một thị trường đầy tiềm năng song mức độ cạnh tranh vô cùng gay gắt với hàng trăm cửa hàng vàng bạc tư nhân được Nhà nước cho phép hoạt động. Vừa phải kinh doanh theo cơ chế thị trường, vừa phải làm nhiệm vụ chính trị là góp phần thực hiện các chính sách tiền tệ của Nhà nước, bình ổn giá vàng, ổn định lưu thông tiền tệ song Công ty đã đạt được những thành tích đáng kể như đã dập tắt được cơn sốt vàng trong những năm 1992-1993.
+ Năm 1994, Cửa hàng Vàng Bạc Đá quý số I - 89 Đinh Tiên Hoàng đã được sáp nhập vào phòng kinh doanh của Công ty. Hệ thống các cửa hàng của Công ty đã được củng cố, nâng cấp và mở rộng lên thành 16 cửa hàng .
+ Năm 1995, Công ty quyết định thành lập Trung tâm Vàng Bạc Đá quý - Hà nội tại địa điểm 89 Đinh Tiên Hoàng trong nỗ lực nhằm đổi mới và làm năng động hơn cơ chế hoạt động kinh doanh của mình. Đồng thời, Công ty cũng quyết định giao vốn giao quyền tự chủ kinh doanh cho các cửa hàng nhằm tạo cho các cửa hàng một cung cách làm ăn mới, có thể khai thác triệt để hơn các thị trường khu vực.
- Giai đoạn 1996 - đến nay: nền kinh tế có xu hướng chững lại do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ. Tiến độ đầu tư phát triển kinh tế trầm lắng và có những nguy cơ về rủi ro tiềm ẩn. Thu nhập dân cư vẫn tăng nhưng tốc độ tăng chậm hơn những năm trước (thu nhập bình quân đầu người 300USD/người). Sự vượt trội về công nghệ tiên tiến và hiện đại của các doanh nghiệp có vốn đầu tư 100% của nước ngoài lấn sân. Vì vậy, phương pháp gia công chế tác thủ công truyền thống của ta chưa thể cạnh tranh nổi. Môi trường cạnh tranh thực sự trở nên gay gắt bởi Công ty phải đối đầu với cả hệ thống doanh nghiệp tư nhân đầy năng động. Tình hình kinh doanh của Công ty trở nên hết sức khó khăn.
Từ năm 1997 đến nay, Nhà nước không cho phép nhập vàng, toàn bộ hoạt động kinh doanh VBĐQ phải tự vận động từ nguồn trong nước, Nhà nước đã dần kiểm soát được tình hình biến động của thị trường, lạm phát biến động ở mức thấp, giá vàng quốc tế liên tục giảm. Tình hình đó đã dẫn đến thực trạng một số các cửa hàng hoạt động kém hiệu quả thậm chí có nguy cơ lỗ và mất vốn. Công ty đã từng bước thu dần màng lưới nằm rải rác trên địa bàn Thủ đô , tập trung về một vài điểm để nâng cấp thành trung tâm VBĐQ và TMTH nhằm tập trung vốn và tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Cho đến nay, quy mô kinh doanh của Công ty giảm xuống còn hai cửa hàng, bốn trung tâm VBĐQ với 59 cán bộ công nhân viên thuộc biên chế. Vốn của công ty được cấp cho tới 15/12/1999 là hơn 7,6 tỷ đồng, ngoài ra còn có vốn tín dụng và vốn huy động kỳ phiếu bằng vàng (khoảng 24 tỷ đồng ). Lợi nhuận thuế trước vốn của Công ty là: 246 triệu đồng.
II. Chức năng, nhiệm vụ và điều kiện kinh doanh của Công ty
2.1. Chức năng và nhệm vụ của Công ty
Công ty VBĐQ Hà Nội , có chức năng như một đơn vị kinh doanh tổng hợp bao gồm cả kinh doanh thương mại, dịch vụ, xuất khẩu, sản xuất, gia công . . . Do đó, các chức năng và nhiệm vụ chủ yếu của Công ty hiện nay là :
- Tổ chức mua bán VBĐQ với mọi thành phần kinh tế.
- Xuất nhập khẩu VBĐQ, tiến hành kinh doanh VBĐQ với các tổ chức nước ngoài.
- Tiến hành các hoạt động dịch vụ như cầm đồ, gửi vàng két sắt, gia công sản xuất, sửa chữa và làm mới các trang sức bằng vàng bạc . . .
- Kiểm định chất lượng vàng bạc, đá quý.
- Đào tạo thợ kim hoàn.
- Liên doanh liên kết với các tổ chức trong và ngoài nước về lĩnh vực VBĐQ theo đúng pháp luật hiện hành. Tuỳ theo yêu cầu của tình hình mà có thể thành lập các chi nhánh đại diện tại nước ngoài để xuất khẩu, nhập khẩu các loại đá quý đã chế tác và các loại trang sức vàng bạc.
- Tiến hành các hoạt động can thiệp thị trường vàng khi cần theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước.
- Thực hiện tốt chế độ hạch toán kinh tế, chấp hành tốt các chế độ, chính sách về quản lý kinh tế, tài sản của Nhà nước, sử dụng có hiệu quả các tài sản vật chất, nguồn vốn, đóng góp và làm tròn nghĩa vụ thuế với Nhà nước.
- Hoàn thiện bộ máy tổ chức và cơ chế quản lý kinh doanh của Công ty.
2.2. Về mặt hàng vàng bạc đá quý
Hiện nay, Công ty đang kinh doanh các mặt hàng bao gồm vàng, bạc, các loại đá quý trong đó vàng là mặt hàng mang lại doanh thu chủ yếu cho Công ty.
Mặt hàng vàng của Công ty được mua bán dưới 2 dạng : Vàng nguyên liệu và vàng trang sức.
Vàng nguyên liệu : gồm có vàng bìa , vàng lá, nhẫn tròn.
- Vàng bìa là loại vàng nhập khẩu còn nguyên dạng tiêu chuẩn quốct tế với trọng lượng 1kg/bìa.
- Vàng lá GOSICO được Công ty tung ra thị trường từ năm 1994 với trọng lượng là 37,5 gram/lá (1lượng ).
- Vàng nhẫn tròn : Vẫn thường được nhân dân ta quen dùng vừa làm đồ trang sức vừa với mục đích dự trữ và tích luỹ của cải.
Vàng trang sức : Gồm các loại nhẫn, lắc, kiềng cổ, dây chyền, hoa tai... được gia công chế tác từ các loại vàng từ 18 K đến 24 K, có gắn hoặc không có gắn đá quý. Hiện nay, Công ty đang kinh doanh chủ yếu là vàng 18K và vàng 24K.
- Vàng 24K : Với nguồn hàng từ các xưởng gia công chế tác trong nước và xưởng sản xuất của Công ty nên nguồn hàng cũng như chủng loại mẫu mã đều rất đa dạng và phong phú.
- Vàng 18K : Là vàng 24K có pha thêm 1 số kim loại quý nhằm làm tăng vẻ đẹp của mặt hàng. Loại vàng trang sức 18K này trong nước có thể sản xuất được song mẫu mã kém đa dạng, chất lượng không đồng đều, hiện nay nguồn hàng này vẫn phần lớn được sản xuất tại các xí nghiệp thuộc hệ thống Tổng Công ty hoặc các đơn vị sản xuất trong nước, ngoài ra còn có các hàng nữ trang cao cấp18K của nước ngoài như Italy, Nga , Pháp, Hàn Quốc, Thái Lan. .
Các loại khác :
- Bạc : Thực tế cho thấy doanh thu và lợi nhuận từ bạc mang lại rất nhỏ trong cơ cấu tổng doanh thu của Công ty nên đây được coi như mặt hàng bình dân và hàng bán kèm.
- Đá quý và các loại ngọc: Hiện nay, nhu cầu mặt hàng này đã tăng lên đáng kể so với vài năm trước. Tuy nhiên, Công ty chỉ tiến hành kinh doanh đá quý và ngọc đã qua sơ chế, đã được chế tác hay kinh doanh cùng trang sức vàng nhằm đảm bảo mức lợi nhuận.
2.3. Vốn kinh doanh
Tổng số vốn Công ty được cấp cùng với phần Công ty tự bổ sung và tính đến 15/12/1999 đạt gần 8 tỷ đồng, trong đó vốn lưu động hơn 7,2 tỷ chiếm 95%. Với số vốn trên, Công ty phải kiêm 2 nghĩa vụ :
+ Nộp thuế sử dụng vốn 0,5%
+ Trích bảo toàn vốn hàng tháng 1% bằng vàng (nếu giá vàng tăng lên) và bằng tiền (nếu giá vàng hạ).
Nguồn vốn vay chiếm tỷ trọng khá cao 71% (hơn 23 tỷ đồng), đặc biệt là nguồn vốn huy động trong dân (gần 21 tỷ đồng).
III. Tổ chức bộ máy quản lý và kinh doanh của Công ty Vàng bạc đá quý thành phố Hà nội
1.Cơ cấu tổ chức
Giám đốc vừa là đại diện Nhà nước vừa đại diện cho CBCNV, quản lý Công ty theo chế độ một thủ trưởng. Giám đốc có quyền quyết định việc điều hành hoạt động của Công ty theo đúng chính sách pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của Đại hội CNVC, chịu trách nhiệm giữa Nhà nước và tập thể người lao động về kết quả kinh doanh của Công ty. Giám đốc có quyền tổ chức bộ máy quản lý của Công ty phù hợp với yêu cầu kinh doanh theo nguyên tắc gọn, nhẹ và hiêụ quả cao.
Giúp việc cho giám đốc có các phó giám đốc, các trưởng phòng. Khi vắng mặt, giám đốc có thể uỷ quyền cho phó giám đốc thay mặt mình để điều hành công việc.
Phòng hành chính tổ chức
Tổ chức bộ máy đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ quản lý của Công ty nhằm đáp ứng tốt nhất yêu cầu được giao.
Quản lý nhân sự, vận dụng thực hiện các chế độ chính sách trong cơ quan. Xử lý, giải quyết công tác thanh tra, kiểm tra cho Công ty, tổng hợp thi đua khen thưởng.
Phòng kinh doanh tổng hợp
Nghiên cứu thị trường, dự đoán nhu cầu của thị trường một cách khoa học trên cơ sở đó để lập phương án kinh doanh có hiệu quả nhất.
Khai thác nguồn hàng, nghiên cứu tạo nguồn hàng ngày càng phong phú đa dạng.
Tìm kiếm khách hàng, ký kết các hợp đồng, tổ chức thực hiện tốt các hợp đồng.
Quản lý và tổ chức các trung tâm, cửa hàng bán lẻ phục vụ nhu cầu tiêu dùng của các tầng lớp dân cư.
Phòng kế toán tài chính
Xây dựng, theo dõi việc thực hiện kế hoạch kinh doanh của Công ty, báo cáo với giám đốc việc thực hiện mọi hoạt động của Công ty bằng tiền thông qua việc thực hiện đúng, đầy đủ chế độ kế toán thống kê của Nhà nước ban hành.
Thống kê, phân tích các chỉ tiêu chủ yếu làm cơ sở để vạch phương án đẩy mạnh hoạt động kinh doanh .
Quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tạo thêm nguồn vốn, đáp ứng kịp thời các nhu cầu về vốn cho hoạt động kinh doanh. Giám sát sử dụng vốn.
Giám đốc
Phó Giám đốc
Phó Giám đốc
Phòng hành chính tổ chức
Phòng kinh doanh tổng hợp
Phòng tài chính kế toán
Trung tâm 1
Trung tâm 2
Trung tâm 4
Trung tâm 5
Cửa hàng 12
Cửa hàng 22
- Phần thứ hai -
******
hoạt động kinh doanh của Công ty Vàng bạc đá quý thành phố Hà nội qua từng thời kỳ
ở những năm1988 - 1990, thời kỳ cả nước bước sang cơ chế thị trường, hoạt động kinh doanh của Công ty thời kỳ này còn hết sức chập chững, chưa làm chủ được thị trường do mới chuyển đổi từ cơ chế bao cấp sang kinh doanh theo cơ chế thị trường, với sức cạnh tranh của hàng trăm doanh nghiệp tư nhân với cơ chế linh hoạt, việc quản lý thị trường lỏng lẻo đã phần nào làm cho hoạt động kinh doanh của Công ty khó khăn, lúng túng.
Bước sang năm 1991 nhất là với sự ra đời của hệ thống Tổng Công ty Vàng bạc đá quý Việt nam đã tạo ra những bước ngoặt lớn cả về chất và lượng trong hoạt động kinh doanh của Công ty, tạo được vị thế vững chắc cho Công ty trên thị trường.
Trong giai đoạn này, Công ty thực hiện hai chức năng chính là can thiệp thị trường khi Nhà nước yêu cầu và tiến hành hoạt động kinh doanh VBĐQ. Chức năng can thiệp thị trường của Công ty trong giai đoạn này được đặt lên hàng đầu do giá cả tăng với tốc độ phi mã tạo ra các cơn sốt vàng làm ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế, đặc biệt tại thị trường Hà nội. Do đó, nhiệm vụ của Công ty được Thành uỷ, UBNDTP, NHNNVN giao cho hết sức nặng nề - thực hiện chính sách ổn định và phát triển kinh tế Thủ đô. Cụ thể, Công ty đã trực tiếp can thiệp nhiều đợt sốt vàng, trong đó có 2 đợt sốt vàng lớn nhất là:
Đợt 1 từ 10/91 đến 5/92: sở dĩ kéo dài 7 tháng là do lượng vàng can thiệp đưa ra thị trường chưa đủ, Công ty đã bán 12.933 lạng (485kg), bình quân một tháng bán ra 69kg trong khi nhu cầu thị trường cần từ 150kg đến 200kg/tháng.
Đợt 2 đúng dịp xuân Quý dậu 1993, Công ty bán 15.010 lạng (563kg, bình quân 188kg/tháng).
Qua hai đợt can thiệp cho thấy muốn đạt hiệu quả thì ngay từ những ngày đầu phải có sự kế hoạch chu đáo, số lượng đưa ra đủ mạnh để cắt “cơn sốt” giả tạo. Thực tế, trong đợt Tết Quý dậu có ngày Công ty bán ra từ 40 đến 50kg. Trong 10 ngày đầu chiến dịch, Công ty đã bán hơn 300kg, nhờ vậy đã cắt được cơn sốt thị trường. Trong những ngày này, toàn bộ CBCNV Công ty được huy động làm việc từ sáng đến tối cộng với sự hỗ trợ thu tiền của NHNN Tp Hà nội nên kết quả hết sức khả quan. Đây là đợt tập dượt lớn nhất trong kinh doanh, đối mặt thật sự với thị trường. Chính qua kinh nghiệm này, Công ty đã nắm bắt được điểm chủ yếu của thị trường vàng tư nhân tạo điều kiện cho hoà nhập và có vị thế trên thương trường. Đội ngũ CBCNVđã trưởng thành nhiều mặt cả về nhận thức cũng như thao tác nghiệp vụ cụ thể.
Ngoài chức năng can thiệp, về mặt tổ chức kinh doanh, Công ty cũng đã có nhiều đổi mới: tăng cường xúc tiến tiếp thị, quảng cáo dưới nhiều hình thức, tham gia các kỳ hội chợ triển lãm, xây dựng cơ chế linh hoạt hơn, cải tiến quy trình mua bán hàng đơn giản thuận tiện nhằm phục vụ khách hàng cao nhất, thay đổi cơ cấu hàng hoá kinh doanh theo từng thời kỳ để thu lợi nhuận cao nhất (khi vàng ít lãi chuyển sang kinh doanh bạc năm 1992, 1993 bán gần 9 tấn). Mở rộng kinh doanh tổng hợp, dịch vụ cầm đồ và các dịch vụ thu tiền khác.
Bảng kinh doanh tổng hợp Năm 1993
Đơn vị :triệu đồng
Tiêu thức
Kế hoạch
Thực hiện
I. Tổng doanh số mua:
59751
12970
Trong đó: - Vàng (kg)
460
949.8
- Bạc (kg)
4000
9120
II. Tổng doanh số bán:
61502
140129
Trong đó: - Vàng (kg)
460
1013
- Bạc (kg)
3000
8889
III. Kết quả kinh doanh:
-57
Kết qủa kinh doanh năm 1995 đạt 270 triệu lãi ròng và năm 1996 đạt 517,4 triệu là một con số đầy khích lệ sau hai năm 93 - 94 kinh doanh không hiệu quả.
Biểu kinh doanh tổng hợp Năm 1994 - 1996
Đơn vị :triệu đồng
Chỉ tiêu
1994
1995
1996
I. Doanh số mua
107.683
105.324
145.237
Trong đó: - Vàng (kg)
768
751
1.046,44
- Bạc (kg)
1.423
II.Doanh số bán
104.134
105.864
150.751
Trong đó : - Vàng (kg)
783
751,2
1.040,06
- Bạc (kg)
1.322
III.Kết quả kinh doanh: - Tổng thu
108.503
7365
7280,4
- Tổng chi
108.503
7099
6762,8
- Lãi ròng
0
266
517,6
Giai đoạn từ 1996 đến nay, môi trường kinh doanh trong và ngoài nước không thuận lợi buộc Công ty phải tập trung triển khai các chương trình hành động mang tính nội lực cao như:
Hướng về đổi mới tổ chức phù hợp với tình hình mới.
Hướng về chiến lược kinh doanh táo bạo nhưng có tính toán.
Tự thâm canh phát triển trên chính mảnh đất của mình.
Với 3 chương trình đó, đến nay, Công ty đã thu được những kết quả đáng kể:
1.Về mặt tổ chức cán bộ
Đã giải thể cửa hàng kinh doanh kém hiệu quả, thua lỗ tập trung về các đại điểm có điều kiện kinh doanh nâng cấp thành các Trung tâm lớn, có đủ sức mạnh về vốn để cạnh tranh với thương trường, đến thời điểm 31/6/98 toàn Công ty còn lại 4 Trung tâm và 3 cửa hàng.
Đây là vấn đề then chốt và cấp bách nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp đồng thời là yểu tố đảm bảo tức thì cho sự tồn tại và phát triển của Công ty. Bên cạnh việc điều chỉnh về tổ chức mạng lưới cửa hàng, Công ty thực hiện đồng bộ một loạt các biện pháp khác như:
* Ký hợp đồng trách nhiệm với các cán bộ có liên quan trực tiếp đến tiền - hàng và quản lý tài sản vốn nhằm nâng cao trách nhiệm đối với tài sản đơn vị.
* Tập trung đào tạo và đào tạo lại có trọng điểm đối với một số cán bộ chủ chốt, soạn thảo nội quy, quy chế, quy trình nghiệp vụ, hoàn t