Theo Uỷ ban Kinh tế và Xã hội khu vực châu Á-Thái Bình Dương (ESCAP), với tốc độ tăng trưởng 8,4%, mức cao kỷ lục trong vòng 5 năm trở lại đây, là một con số biết nói lên tất cả, Việt Nam là nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất ở khu vực Đông Nam Á trong năm 2005.
Kết quả điều tra kinh tế xã hội trong khu vực của ESCAP cho thấy, ngành sản xuất là động lực chủ yếu của nền kinh tế và tăng trưởng trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp được ghi nhận ở mức 10,6%. Ngành dịch vụ cũng tăng trưởng mạnh với tốc độ 8,4%; trong khi ngành nông nghiệp tăng 4%.
Sau khi phân tích nguyên nhân của tình trạng lạm phát năm 2005 ở mức cao do ảnh hưởng của hạn hán, cúm gia cầm và việc tăng giá hàng nhập khẩu, ESCAP cho rằng, Ngân hàng Nhà nước đã duy trì được chính sách tiền tệ thắt chặt và sử dụng nhiều chính sách khác để giảm bớt sức ép của lạm phát.
Về hoạt động thương mại, xuất khẩu của Việt Nam ước tính tăng khoảng 20% trong năm ngoái, nhập khẩu tăng 22,5% do sản phẩm dầu khí đắt đỏ hơn và hoạt động xây dựng tăng mạnh dẫn tới tăng nhập khẩu sắt thép, nhu cầu tăng cao đối với phụ kiện ôtô, xe máy và hoá chất. Thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai đã giảm từ mức -2% GDP trong năm 2004 xuống còn -0,9% GDP trong năm 2005.
Thời gian qua, không chỉ cố gắng tạo ra một môi trường đầu tư thuận lợi, Chính phủ Việt Nam còn mở rộng lợi ích của tăng trưởng kinh tế tới toàn xã hội bằng cách đầu tư vào giáo dục, y tế, nước sinh hoạt, và điện ở các vùng nông thôn. Công cuộc xoá nghèo là mối quan tâm hàng đầu ở Việt Nam và phương pháp tiếp cận của Chính phủ Việt Nam đối với vấn đề này đáng được khen ngợi.
Xếp hạng cạnh tranh toàn cầu do Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) đưa ra hàng năm, đánh giá năng lực cạnh tranh tăng trưởng và năng lực cạnh tranh doanh nghiệp của các quốc gia. Năm 2005, Chỉ số năng lực cạnh tranh tăng trưởng của Việt Nam giảm từ 77 xuống 81, chỉ số năng lực cạnh tranh doanh nghiệp từ 79 xuống 80.
46 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3053 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tình hình kinh tế xã hội của Việt Nam năm 2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN A: NHẬN XÉT CHUNG TÌNH HÌNH KINH TẾ XÃ HỘI CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2005-2008
1) Tình hình kinh tế xã hội của Việt Nam năm 2005
Theo Uỷ ban Kinh tế và Xã hội khu vực châu Á-Thái Bình Dương (ESCAP), với tốc độ tăng trưởng 8,4%, mức cao kỷ lục trong vòng 5 năm trở lại đây, là một con số biết nói lên tất cả, Việt Nam là nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất ở khu vực Đông Nam Á trong năm 2005.
Kết quả điều tra kinh tế xã hội trong khu vực của ESCAP cho thấy, ngành sản xuất là động lực chủ yếu của nền kinh tế và tăng trưởng trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp được ghi nhận ở mức 10,6%. Ngành dịch vụ cũng tăng trưởng mạnh với tốc độ 8,4%; trong khi ngành nông nghiệp tăng 4%.
Sau khi phân tích nguyên nhân của tình trạng lạm phát năm 2005 ở mức cao do ảnh hưởng của hạn hán, cúm gia cầm và việc tăng giá hàng nhập khẩu, ESCAP cho rằng, Ngân hàng Nhà nước đã duy trì được chính sách tiền tệ thắt chặt và sử dụng nhiều chính sách khác để giảm bớt sức ép của lạm phát. Về hoạt động thương mại, xuất khẩu của Việt Nam ước tính tăng khoảng 20% trong năm ngoái, nhập khẩu tăng 22,5% do sản phẩm dầu khí đắt đỏ hơn và hoạt động xây dựng tăng mạnh dẫn tới tăng nhập khẩu sắt thép, nhu cầu tăng cao đối với phụ kiện ôtô, xe máy và hoá chất. Thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai đã giảm từ mức -2% GDP trong năm 2004 xuống còn -0,9% GDP trong năm 2005. Thời gian qua, không chỉ cố gắng tạo ra một môi trường đầu tư thuận lợi, Chính phủ Việt Nam còn mở rộng lợi ích của tăng trưởng kinh tế tới toàn xã hội bằng cách đầu tư vào giáo dục, y tế, nước sinh hoạt, và điện ở các vùng nông thôn. Công cuộc xoá nghèo là mối quan tâm hàng đầu ở Việt Nam và phương pháp tiếp cận của Chính phủ Việt Nam đối với vấn đề này đáng được khen ngợi.
Xếp hạng cạnh tranh toàn cầu do Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) đưa ra hàng năm, đánh giá năng lực cạnh tranh tăng trưởng và năng lực cạnh tranh doanh nghiệp của các quốc gia. Năm 2005, Chỉ số năng lực cạnh tranh tăng trưởng của Việt Nam giảm từ 77 xuống 81, chỉ số năng lực cạnh tranh doanh nghiệp từ 79 xuống 80.
Những thay đổi thứ hạng của Việt Nam trong Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu năm 2005-2006 của WEF cho thấy Việt Nam vẫn tiếp tục đạt được tiến bộ trong các chỉ số kinh tế vĩ mô, về xóa đói, giảm nghèo và về nỗ lực của Chính phủ trong việc phát triển công nghệ thông tin. Bản thân các doanh nghiệp cũng tin tưởng cao vào triển vọng phát triển kinh tế trong năm tới.
Trong Chỉ số phát triển con người (HDI) năm 2005 do Chương trình phát triển của Liên Hợp Quốc (UNDP) đưa ra, Việt Nam đã đạt được kết quả đáng khích lệ trên nhiều mặt. Chỉ số phát triển con người của Việt Nam năm 2005 tăng 4 bậc, lên mức 108. Báo cáo cho rằng khả năng cân bằng, tương tác giữa chính sách phát triển con người và chính sách phát triển kinh tế, thương mại là nguyên nhân thành công của Việt Nam.
Tuy nhiên, thứ bậc HDI của Việt Nam trên thế giới, ở châu Á và trong khu vực vẫn còn ở mức thấp. Một trong những yếu tố làm cho HDI của Việt Nam còn ở mức thấp là do chỉ số GDP bình quân đầu người còn quá thấp (khoảng 540 USD năm 2004), đây chính là điều cần được quan tâm bởi nó là tiền đề để thực hiện chăm sóc sức khỏe và nâng cao chỉ số giáo dục. Hơn nữa, thứ bậc HDI của Việt Nam tăng lên cũng chủ yếu là nhờ sự tăng lên của chỉ số GDP bình quân đầu người và vì vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế để sớm đưa Việt Nam ra khỏi nước kém phát triển được coi là mục tiêu hàng đầu.
Tăng trưởng kinh tế cũng được tiếp sức bởi mức đầu tư cao (21 tỷ USD), chiếm 38,9% GDP (cao nhất trong những năm gần đây).
Đầu tư từ khu vực tư nhân (chiếm hơn 32% tổng vốn) có tốc độ phát triển nhanh nhất, tăng 28%. Đầu tư của khu vực tư nhân có hiệu quả cao hơn so với khu vực nhà nước và giúp tạo ra nhiều việc làm cho nền kinh tế. Vốn đầu tư tăng trong khu vực này là một dấu hiệu đáng mừng, cho thấy tiềm lực trong nước đang tăng lên và môi trường kinh doanh đang được cải thiện.
Vốn FDI năm nay đã tăng gần 40%, đạt 5,8 tỷ USD, mức cao nhất trong 10 năm (trong đó, đầu tư mới là 4 tỷ USD, đầu tư bổ sung là 1,9 tỷ USD). Có thể nhận thấy rằng năm 2005 đã khởi đầu cho một làn sóng đầu tư FDI mới (sau khi suy giảm từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế Châu Á)
→Thuận lợi:
-Nền kinh tế tăng trưởng mạnh, trong khi vẫn duy trì được những nền tảng kinh tế vĩ mô vững chắc (tỷ lệ nợ thấp, lạm phát ở mức có thể chấp nhận được, tỷ lệ tiết kiệm cao và sự phân hoá giầu nghèo thấp).
-Môi trường chính trị và xã hội ổn định: là một quốc gia yên bình, không có nạn khủng bố, không nằm trong khu vực nhiều thiên tai và chi phí nhân công thấp.
-Nền kinh tế đang dần hội nhập với kinh tế thế giới. Việt Nam dự đoán sẽ trở thành thành viên của WTO trong năm 2006 và đang nỗ lực đẩy mạnh việc mở rộng thị trường trên phạm vi lớn (gồm các ngành dịch vụ nhạy cảm, ngân hàng và tài chính).
→Khó khăn:
-Giá xăng dầu và nguyên liệu đầu vào tăng cao, thiếu hụt điện do hạn hán gây ra. Đợt hạn hán cảnh báo vấn đề an ninh năng lượng ở nước ta; trong khi đó nhu cầu sử dụng điện ngày càng tăng. Do đó, nguy cơ thiếu điện sẽ còn gây ra nhiều khó khăn trong những năm tới.
-Giá dầu thô dao động ở mức cao trong năm cũng gây ra nhiều xáo động đặc biệt khi Việt Nam đang phải nhập khẩu 100% lượng xăng dầu cung ứng cho nhu cầu trong nước. Như vậy từ giờ tới năm 2010, tình hình giá xăng dầu trong nước sẽ vẫn còn phụ thuộc vào dao động của giá dầu quốc tế, đặc biệt là Nhà nước chủ trương giảm trợ giá cho mặt hàng này trong năm tới.
-Ngoài các vấn đề an ninh năng lượng, sản xuất công nghiệp sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh quốc tế khốc liệt hơn trong năm 2006, khi Việt Nam dự kiến sẽ gia nhập WTO, và cũng sẽ tham gia đầy đủ vào Chương trình Ưu đãi Thuế quan có Hiệu lực chung (CEPT) của Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (AFTA), (theo đó thuế quan đối với hàng hoá nhập khẩu của ASEAN sẽ được giảm xuống 0-5%). Những áp lực cạnh tranh này trong khi khả năng cạnh tranh của các ngành sản xuất nội địa nhìn chung vẫn còn rất thấp (theo một vài nguồn thống kê, chỉ 20% các doanh nghiệp trong nước đang sử công nghệ hiện đại), sẽ đặt ra thách thức lớn đối với nền kinh tế trong những năm tới. Bên cạnh đó, giá cả của các nguyên liệu đầu vào quan trọng như than, điện, xăng dầu vốn được nhà nước trợ giá rất có khả năng sẽ tăng lên gần mức quốc tế, tạo thêm gánh nặng đối với các nhà sản xuất trong nước.
-Bên cạnh đó, cúm gia cầm vẫn là nhân tố rủi ro cao nhất đối với nền kinh tế. Cho tới nay, chi phí kiềm chế dịch bệnh là khoảng 0,1% GDP của Việt Nam. Đây cũng được coi là một trong những nguyên nhân chính khiến tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam có thể sẽ giảm nhẹ.
-Các khó khăn trên của năm 2005 vì thế chưa được giải quyết trong tương lai gần, và sẽ vẫn tiếp tục là những thách thức chính của năm 2006. Ngoài ra hai động lực của tăng trưởng kinh tế (sức mua trong nước và mức đầu tư cao) cũng đang có những vấn đề đáng quan tâm. Nếu lạm phát tiếp tục tăng nhanh như hai năm qua, sức mua thực tế sẽ giảm mạnh ảnh hưởng đến sức kéo của cầu. Trong khi đó, do tỷ lệ đầu tư đang ở mức rất cao (38.9% GDP) và khó có thể tiếp tục tăng trong năm tới, nếu hiệu quả đầu tư không tăng (nhất là trong khu vực nhà nước - hiện đang chiếm 60% tổng đầu tư toàn xã hội), sức đẩy của đầu tư đối với tăng trưởng sẽ giảm đáng kể.
2) Tình hình kinh tế xã hội của Việt Nam năm 2006
Năm 2006 đã chứng kiến một số biến đổi quan trọng liên hệ đến nền kinh tế Việt Nam như chuẩn bị gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới và có Quy chế Thương mại bình thường vĩnh viễn, nền kinh tế nước ta cũng còn không ít khó khăn, thách thức, thậm chí còn gay gắt. Tuy vậy, những kết quả đạt được trong năm 2006 là rất khả quan, thể hiện sự cố gắng lớn của các cấp, các ngành, các địa phương... Sự gia tăng các dự án của những tập đoàn kinh tế hàng đầu thế giới như Hoa Kỳ, Nhật Bản vào cuối năm 2006, Hội nghị APEC 14 thành công tốt đẹp... đang làm sôi động dòng vốn đầu tư nước ngoài mới vào Việt Nam.
Thành tựu:
-Trong năm 2006 có 4 biến chuyển kinh tế đặc biệt theo thứ tự thời gian như sau: Thứ nhất là Việt-Nam gảm thuế đối với tất cả những hàng nhập cảng từ tất cả 10 thành viên của khối AFTA xuống còn 0-5% kể từ ngày 01.01.2006. Đến năm 2012, Việt-Nam sẽ hoàn toàn bỏ thuế nhập cảng như các nước khác trong khối AFTA để cải thiện tình trạng kinh tế trước sự cạnh tranh của Trung Quốc, theo như nhận định của những nhà quan sát quốc tế. Thứ hai là Việt-Nam đã hoàn thành trách nhiệm tổ chức một hội nghị lớn nhất từ trước đến nay đó là Hội Nghị APEC vào giữa tháng 11, quy tụ nguyên thủ và đại diện của 21 quốc gia và lãnh thổ.
Thứ ba là Việt-Nam đã được Hoa-Kỳ chấp thuận cho hưởng quy chế PNTR. Kết qủa là kể từ nay việc buôn bán giữa Hoa-kỳ với Việt-Nam sẽ không còn phải được cứu xét lại hàng năm như trước đây. Thứ tư là WTO đã nhận Việt-Nam là thành viên thứ 150 của tổ chức này. Đây là một diễn biến quan trọng nhất đòi hỏi Việt-Nam thực hiện những cải tố kinh tế sâu rộng về nhiều l ĩnh vực kể cả nông nghiệp, dịch vụ, công nghệ, luật pháp, môi trường, lao động, hành ch ính, v.v. Quy chế hội viên WTO vừa tạo cơ hội phát triển kinh tế và đưa ra những thử thách lớn lao cho Việt-Nam. Quy chế này bắt đầu có hiệu quả vào ngày 11.01.2007. - Việt Nam là một nước mức độ kinh tế tăng trưởng cao nhất trong vùng Á châu chỉ đứng sau Trung Quốc. Vốn nước ngoài, đầu tư của nhà nước vào những dự án công cộng, và nhu cầu tiêu thụ nội địa tiếp tục là những yếu tố thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng. Nền kinh tế nước ta năm 2006 vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá cao. Hầu hết các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu do Quốc hội đề ra đều đạt và vượt kế hoạch.
- Tổng sản phẩm trong nước (GDP) cả năm ước tăng 8,2% (kế hoạch là 8%). GDP bình quân đầu người đạt trên 11,5 triệu đồng, tương đương 720 USD (năm 2005 đạt trên 10 triệu đồng, tương đương 640 USD)
- Giá trị tăng thêm của ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 3,4 - 3,5% (kế hoạch là 3,8%); ngành công nghiệp và xây dựng tăng 10,4 - 10,5% (kế hoạch là 10,2%); ngành dịch vụ tăng 8,2 - 8,3% (kế hoạch là 8%);
- Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng khoảng 20% (kế hoạch là 16,4%);
- Tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội đạt khoảng 41% GDP (kế hoạch là 38,6%);
- Tốc độ tăng giá tiêu dùng khoảng 7 - 7,5% (kế hoạch là thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế);
- Tạo việc làm mới cho 1,6 triệu lao động (kế hoạch là 1,6 triệu);
- Giảm tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới xuống còn 19% (kế hoạch là 20%);
- Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng giảm dưới 24% (kế hoạch là 24%);
- Mức giảm tỷ lệ sinh 0,3%o (kế hoạch là 0,4%o);
- Tổng thu ngân sách nhà nước đạt trên 258 nghìn tỷ đồng (dự toán là 237,9 nghìn tỷ đồng), tăng 19%; tổng chi ngân sách nhà nước đạt trên 315 nghìn tỷ đồng (dự toán là 294,4 nghìn tỷ đồng), tăng 20%; bội chi ngân sách nhà nước trong mức 5% GDP (dự toán là 5%);
- Trong 8 chỉ tiêu còn lại, có 6 chỉ tiêu đạt và vượt kế hoạch, gồm chỉ tiêu về đào tạo nghề dài hạn, số lượng địa phương hoàn thành phổ cập trung học cơ sở, tuyển mới đại học cao đẳng, tỷ lệ che phủ rừng, cung cấp nước sạch cho đô thị và tỷ lệ xử lý số cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Còn 2 chỉ tiêu đạt thấp so với kế hoạch, là tuyển mới trung học chuyên nghiệp và tỷ lệ dân số ở nông thôn được cung cấp nước sạch [1].
- Nhìn tổng quát, hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu đều đạt và vượt mức Quốc hội đề ra. Nền kinh tế duy trì được tốc độ tăng trưởng khá cao; cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Các cân đối lớn được bảo đảm và ổn định được kinh tế vĩ mô. Các lĩnh vực về khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, văn hoá, thông tin, dạy nghề, y tế, thể dục thể thao và nhiều lĩnh vực xã hội khác cũng có chuyển biến tích cực.
- Một số lĩnh vực đạt kết quả nổi bật, như tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội năm 2006 đạt khoảng 41% GDP, là mức cao nhất trong nhiều năm qua, trong đó nguồn vốn của doanh nghiệp dân doanh chiếm gần một phần ba; đây là một cố gắng rất lớn trong việc huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển và là yếu tố rất quyết định cho tăng trưởng GDP. Sản lượng lương thực vẫn đạt khoảng 40 triệu tấn, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, đồng thời duy trì xuất khẩu gạo năm thứ 2 liên tiếp đạt trên 5 triệu tấn và đạt trên 1 tỷ USD trong năm 2006. Công nghiệp và xây dựng có nhịp độ tăng trưởng khá cao, nhiều sản phẩm công nghiệp chủ yếu đều tăng khá so với cùng kỳ năm trước[2]; các công trình trọng điểm quốc gia và các dự án đầu tư nhóm A được tập trung chỉ đạo, cơ bản kiểm soát được tiến độ. Xuất khẩu hàng hoá tăng cả về số lượng, mặt hàng và tổng kim ngạch; thị trường xuất khẩu tiếp tục được mở rộng; nhập siêu giảm nhiều so với các năm trước. Lĩnh vực dịch vụ đạt mức tăng khá cao.
- Công tác sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước được tiến hành tích cực; năm 2006 cổ phần hóa 420 doanh nghiệp, đưa tổng số doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa lên 3.480, hầu hết là hoạt động có hiệu quả và đã có 81 doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán; các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty nhà nước tiếp tục được kiện toàn, sản xuất kinh doanh đạt kết quả tốt hơn. Đã có hơn 41.000 doanh nghiệp dân doanh được thành lập và đăng ký kinh doanh, thu hút một nguồn lực lớn của xã hội vào sản xuất, kinh doanh. Đầu tư trực tiếp của nước ngoài đạt kết quả khả quan, với tổng số vốn cấp phép mới và tăng thêm đạt khoảng 6,6 tỷ USD và số vốn thực hiện khoảng 3,7 tỷ USD, tăng trên 19% so với năm 2005.
- Các hoạt động khoa học - công nghệ trọng điểm được đẩy mạnh. Cơ chế quản lý tiếp tục được đổi mới theo hướng nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học - công nghệ và thực hiện xã hội hoá nhằm huy động các nguồn lực cho công tác nghiên cứu và ứng dụng khoa học - công nghệ. Nhiều doanh nghiệp chú trọng đầu tư đổi mới công nghệ và ứng dụng khoa học. Hình thức chợ và sàn giao dịch thiết bị công nghệ được tổ chức ở một số địa phương, với sự tham gia của nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước đã có những kết quả thiết thực.
- Việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông được triển khai tích cực. Công tác tổ chức thi tuyển ở các cấp có tiến bộ. Quy mô đào tạo bậc đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề tiếp tục tăng. Cơ sở vật chất nhà trường được củng cố, tăng cường; gần 90% địa phương đã hoàn thành chương trình kiên cố hoá trường, lớp, cải thiện điều kiện dạy và học, tạo diện mạo mới cho các cơ sở giáo dục. Các trung tâm học tập cộng đồng tiếp tục được mở rộng. Cuộc vận động chống tiêu cực trong ngành giáo dục đã có một số chuyển biến, được sự đồng thuận của xã hội.
- Công tác xóa đói, giảm nghèo đạt được kết quả tốt hơn, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Các xã, các hộ sau khi thoát nghèo được chú ý hỗ trợ các điều kiện để phát triển sản xuất.
- Sự chỉ đạo chủ động, quyết liệt, sâu sát của trung ương và các địa phương, cùng với sự nỗ lực của nhân dân, của các lực lượng và cơ quan chức năng, chúng ta đã khống chế, ngăn chặn được sự bùng phát, lan rộng của dịch cúm gia cầm, bệnh lở mồm long móng gia súc; đặc biệt đã hạn chế được tối đa sự tổn thất về người và tài sản trong cơn bão số 6, cơn bão mạnh nhất trong nhiều năm qua. Trong thiên tai bão lũ đã có nhiều hành động, nhiều tấm gương tiêu biểu trong phòng chống và cứu trợ, đùm bọc lẫn nhau, cùng nhau vượt qua hoạn nạn, khó khăn.
- Mức lương tối thiểu chung và lương hưu, trợ cấp xã hội đã được điều chỉnh tăng lên từ ngày 01 tháng 10 năm 2006, sớm hơn so với lộ trình cải cách tiền lương, đồng thời với việc thực hiện các biện pháp để kiểm soát và bình ổn giá cả.
- Qua tổng kết giai đoạn I (2001 - 2005) thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính 2001 - 2010 cho thấy, tuy còn không ít bất cập, yếu kém của cán bộ, công chức và cơ quan công quyền, nhưng sau 5 năm thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính, hệ thống thể chế tiếp tục được hoàn thiện, bộ máy hành chính các cấp đã có bước chuyển biến, chất lượng và hiệu quả hoạt động được nâng lên. Việc đơn giản hoá, công khai hoá các quy trình, thủ tục hành chính đã tạo thuận lợi nhiều hơn cho người dân và doanh nghiệp.
- Công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí được đẩy mạnh. Đã tích cực chỉ đạo triển khai thực hiện Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và Luật Phòng chống tham nhũng; ban hành và tổ chức thực hiện Chương trình hành động của Chính phủ về phòng chống tham nhũng, lãng phí theo tinh thần Nghị quyết Trung ương III của Đảng.
- Quốc phòng, an ninh được củng cố, tăng cường. Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo được chỉ đạo tích cực hơn; tệ nạn xã hội và tội phạm hình sự tiếp tục được kiềm chế; kịp thời phát hiện và làm thất bại nhiều âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; chính trị xã hội ổn định, tạo môi trường thuận lợi hơn cho các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội.
- Công tác đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế đạt nhiều kết quả. Một số hoạt động đối ngoại quan trọng của Đảng, Nhà nước được triển khai và đã nâng thêm vai trò, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Sau 11 năm kiên trì đàm phán, chúng ta đã kết thúc đàm phán cả song phương và đa phương để gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) theo phương án đề ra. Đến nay đã hoàn thành cơ bản công tác chuẩn bị và thực hiện thành công nhiều hoạt động quan trọng để tiến đến tuần lễ Hội nghị cấp cao APEC, lần đầu tiên được tổ chức tại Việt Nam.
→Những thành tựu đạt được trong năm 2006 bắt nguồn từ thế và lực của đất nước, được tạo ra qua những năm đổi mới, nhất là kết quả của 5 năm 2001 - 2005; sự nỗ lực và hoạt động có hiệu quả của cả hệ thống chính trị và những cố gắng phấn đấu vượt bậc để vượt qua thách thức khó khăn của các tầng lớp nhân dân, của cộng đồng các doanh nghiệp, đã tạo nên sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước.
Yếu kém:
- Bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta cũng nghiêm túc nhìn nhận rằng, tình hình kinh tế - xã hội vẫn còn nhiều yếu kém, bất cập. Tốc độ tăng GDP tuy vượt kế hoạch đề ra nhưng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng. Chất lượng của sự tăng trưởng, nhất là sức cạnh tranh của nền kinh tế tuy có được cải thiện nhưng vẫn còn nhiều yếu kém. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm. Việc phân bổ, quản lý và sử dụng các nguồn lực của nhà nước và xã hội còn kém hiệu quả. Các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, sự phát triển của khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, bảo vệ - cải thiện môi trường, chăm sóc sức khoẻ nhân dân vẫn chưa đáp ứng kịp yêu cầu. Hội nhập kinh tế quốc tế và hoạt động kinh tế đối ngoại còn nhiều trở ngại. Đời sống nhân dân nhiều nơi ở nông thôn, nhất là miền núi, vùng bị thiên tai còn nhiều khó khăn. Cải cách hành chính vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí tuy có được những kết quả, nhưng tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng. Tai nạn giao thông vẫn ở mức cao.
- Lạm phát cao là một trong những rủi ro cho sự phát triển kinh tế. Lạm phát gia tăng sẽ kéo theo lãi xuất và và chi phí sản xuất. Hậu qủa là sự gia tăng đầu tư sẽ bớt vì tiền lời cao và giảm bới khả năng cạnh tranh của hàng xuất cảng. Giới nghèo với đồng lương cố định sẽ chịu nhiều thiệt thòi hơn cả. Nhiều cuộc nghiên cứu đã chứng minh rằng lạm phát ở mức độ thấp không có ảnh hưởng hoặc còn kinh tế phát triển. Trái lại, khi lên cao tới một mức nào đó (trên 1/3 mức phát triển) lạm phát sẽ gây ra ảnh hưởng tiêu cực, nhất là đối với những nước đang phát triển.
→Kinh tế Việt-Nam phát triển khả quan nhờ những yếu tố bên ngoài thuận lợi và chính sách vĩ mô thận trọng. Trong khi đó những trở ngại bên trong đã và đang làm giảm bớt tốc độ phát triển. Một nguy cơ Việt-Nam đang phải đối phó là sự phát triển thiếu quân bình giữa các vùng và giữa hai giới giầu nghèo. Việc gia nhập WTO sẽ giúp kinh tế phát triển thêm nhưng đồng thời sẽ làm cho sự phân hoá xã hội ngày càng trầm trọng nếu Việt-Nam không sẵn sàng đáp ứng với những xáo trộn do sự hội nhập kinh tế toàn cầu tạo ra. Việc gia nhập WTO đánh dấu một giai đoạn đổi mới thực sự. Nó đòi hỏi Việt-Nam thực hiện những cải tổ kinh tế sâu rộng và khó khăn hơn những gì đã làm trong hai thập niên vừa qua. Việt-Nam cần phải chú trọng hơn về sự phát triển hạ tầng cơ sở và chất lượng củ