Phát triển kinh tế là sự tăng trưởng kinh tế gắn liền với sự hoàn thiện cơ cấu, thể chế kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống và bảo đảm công bằng xã hội. Là sự biến đổi kinh tế theo chiều hướng tích cực dựa trên sự biến đổi cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu của các yếu tố cấu thành của nền kinh tế.
23 trang |
Chia sẻ: superlens | Lượt xem: 3087 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tình hình phát triển kinh tế ảnh hưởng đến hoạt động quản lý nguồn nhân lực, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
QUẢN LÝ NGUỒN NHÂN LỰCChủ đề: Tình hình phát triển kinh tế ảnh hưởng đến hoạt động quản lý nguồn nhân lựcLớp 02 – Nhóm 01Nguyễn Đỗ QuyênLâm Thu HuyềnPhạm Thị TậpHà Hoàng Thái SơnNông Văn TuấnNỘI DUNG CHÍNHPHẦN I: CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢNPHẦN II: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ NGUỒN NHÂN LỰC Ở NAM HIỆN NAYPHẦN III: ẢNH HƯỞNG CỦA PHÁT TRIỂN KINH TẾ TỚI HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ NGUỒN NHÂN LỰCPHẦN IV: VÍ DỤ THỰC TIỄN CHỨNG MINHPHẦN I: CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢNPhát triển kinh tếNguồn nhân lực Quản lý nguồn nhân lựcI. Phát triển kinh tếPhát triển kinh tế là sự tăng trưởng kinh tế gắn liền với sự hoàn thiện cơ cấu, thể chế kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống và bảo đảm công bằng xã hội. Là sự biến đổi kinh tế theo chiều hướng tích cực dựa trên sự biến đổi cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu của các yếu tố cấu thành của nền kinh tế.II. Nguồn nhân lựcNguồn nhân lực hay nguồn lực con người bao gồm lực lượng lao động và lao động dự trữ. Trong đó lực lượng lao động được xác định là người lao động đang làm việc và người trong độ tuổi lao động có nhu cầu nhưng không có việc làm (người thất nghiệp). Lao động dự trữ bao gồm học sinh trong độ tuổi lao động, người trong độ tuổi lao động nhưng không có nhu cầu lao động.III. Quản lý nguồn nhân lựcQuản lý nguồn nhân lực được hiểu là các hoạt động của chủ thể quản lý tác động lên nguồn nhân lựcthông qua một hệ thống các nguyên tắc, quy tắc, phương pháp, công cụ, nhất định nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực để đạt được những mục tiêu nhất định.Nói cách khác, quản lý nguồn nhân lực là những hoạt động có tính hệ thống nhằm định hướng, phát triển và sử dụng nguồn nhân lực một cách hợp lý nhằm đáp ứng các yêu cầu, mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.Vậy, thực chất quản lý nguồn nhân lực là các hoạt động nhằm kế hoạch, tổ chức, phối hợp chỉ huy và giám sát việc sử dụng nguồn nhân lực sao cho đạt được hiệu quả cao nhất.PHẦN II: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ NGUỒN NHÂN LỰC Ở NAM HIỆN NAY Thực trạng phát triển kinh tế Việt Nam hiện nay Thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam hiện nayI. Thực trạng phát triển kinh tế Việt Nam hiện nayII. Thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam hiện nayTheo kết quả điều tra dân số đến tháng 12/2010, Việt Nam có gần 87 triệu người. Nguồn nhân lực Việt Nam được cấu thành chủ yếu là nông dân, công nhân, trí thức, doanh nhân, dịch vụ và nhân lực của các ngành, nghề. Trong đó, nguồn nhân lực nông dân có gần 62 triệu người, chiếm hơn 70% dân số; nguồn nhân lực công nhân là 9,5 triệu người (gần 10% dân số); nguồn nhân lực trí thức, tốt nghiệp từ đại học, cao đẳng trở lên là hơn 2,5 triệu người, chiếm khoảng 2,15% dân số; nguồn nhân lực từ các doanh nghiệp khoảng 2 triệu người, trong đó, khối doanh nghiệp trung ương gần 1 triệu người. Hiện nay ở Việt Nam đang hình thành 2 loại hình nhân lực: nhân lực phổ thông và nhân lực chất lượng cao. Nhân lực phổ thông hiện tại vẫn chiếm số đông, trong khi đó, nhân lực chất lượng cao lại chiếm tỷ lệ rất thấp. Theo số liệu thống kê năm 2010, trong số 20,1 triệu lao động đã qua đào tạo trên tổng số 48,8 triệu lao động đang làm việc, thì chỉ có 8,4 triệu người có bằng cấp, chứng chỉ do các cơ sở đào tạo trong và ngoài nước. Số người từ 15 tuổi trở lên được đào tạo nghề và chuyên môn kỹ thuật rất thấp, chiếm khoảng 40%. Cơ cấu đào tạo hiện còn bất hợp lý được thể hiện qua các tỷ lệ: Đại học và trên Đại học là 1, trung học chuyên nghiệp là 1,3 và công nhân kỹ thuật là 0,92; trong khi trên thế giới, tỷ lệ này là 1 - 4 - 10.Cơ cấu phân bổ lao động theo ngành nghề cũng mất cân đối. Các ngành kỹ thuật - công nghệ, nông - lâm - ngư nghiệp ít và chiếm tỉ trọng thấp, trong khi đó các ngành xã hội luật, kinh tế, ngoại ngữ, ... lại quá cao. Nhiều ngành nghề, lĩnh vực có tình trạng vừa thừa vừa thiếu nhân lực.PHẦN III: ẢNH HƯỞNG CỦA PHÁT TRIỂN KINH TẾ TỚI HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ NGUỒN NHÂN LỰCẢnh hưởng của chuyển dịch cơ cấu kinh tế tới hoạt động quản lý nguồn nhân lực Ảnh hưởng của trình độ trang thiết bị kỹ thuật trong sản xuất kinh doanh tới hoạt động phát quản lý nguồn nhân lực Ảnh hưởng của hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa tới hoạt động quản lý nguồn nhân lựcI. Ảnh hưởng của chuyển dịch cơ cấu kinh tế tới hoạt động quản lý nguồn nhân lựcChuyển dịch cơ cấu kinh tế và quản lý nguồn nhân lực có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, thực hiện quy hoạch phát triển trên các vùng lãnh thổ sẽ tạo ra nhu cầu lớn, thu hút nhiều lao động, đòi hỏi phải chuyển dịch cơ cấu lao động và tổ chức điều chỉnh phân bố lao động.Việc xây dựng những công trình kinh tế lớn của quốc gia, mở mang và nâng cấp hệ thống hạ tầng cơ sở vật chất, xây dựng và phát triển các khu kinh tế với những mô hình thích hợp ở các vùng chậm phát triển, tăng cường các hoạt động đầu tư nước ngoài và liên doanh liên kết rộng với các cơ sở kinh tế địa phương, đều tạo khả năng thu hút nguồn lao động lớn và đặt ra yêu cầu lớn về quản lý nguồn nhân lực.Nhu cầu chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ sang công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ kéo theo sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng giảm tỷ trọng lao động nông và nâng tỷ trọng lao động trong các ngành công nghiệp, dịch vụ. Nhưng trong đó đòi hỏi phải có sự thay đổi về cơ cấu lao động được đào tạo theo ngành và trình độ phù hợp với định hướng phát triển kinh tế. II. Ảnh hưởng của trình độ trang thiết bị kỹ thuật trong sản xuất kinh doanh tới hoạt động phát quản lý nguồn nhân lựcCùng với chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, các trang thiết bị kỹ thuật trong sản xuất và kinh doanh cũng ngày càng thay đổi theo hướng hiện đại, do đó đòi hỏi phải có nguồn nhân lực phù hợp để có thể sử dụng hiệu quả các trang thiết bị hiện đại, nâng cao hiệu quả đầu tư; sau đó tiếp tục nghiên cứu và ứng dụng một cách sáng tạo các thiết bị công nghệ mới.Thực tế cho thấy, đầu tư xây dựng cơ bản dù tăng nhưng thiếu người lao động và thiếu sự đồng bộ giữa trình độ công cụ lao động với trình độ chuyên môn của người lao động thì hiệu quả lao động không cao, gây lãng phí vốn đầu tư trong xã hội. Tính đồng bộ giữa trình độ công nghệ cao với trình độ kỹ thuật và công nhân lành nghề đòi hỏi hoạt động quản lý phải đáp ứng đủ và đúng chuyên môn, ngành nghề để có thể làm chủ các công nghệ mới.Trong xu thế hội nhập hiện nay, muốn nhập khẩu công nghệ cao hơn phải tổ chức đào tạo nguồn nhân lực tốt hơnNếu thiếu các chuyên gia giỏi về khoa học công nghệ và quản lý, thiếu đội ngũ kỹ thuật viên và công nhân lành nghề thì không thể ứng dụng được công nghệ mới, do đó phải đào tạo nguồn nhân lực.Việc đào tạo nguồn nhân lực không chỉ đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng mà còn phải có sự cân nhắc kỹ lưỡng sao cho việc sắp xếp, phân công đó phải đảm bảo sự hợp lý, đúng người đúng việc.III. Ảnh hưởng của hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa tới hoạt động quản lý nguồn nhân lựcPHẦN IV: VÍ DỤ THỰC TIỄN CHỨNG MINHI. Ảnh hưởng của phát triển kinh tế đến hoạt động quản lý nguồn nhân lực trong nướcII. Ảnh hưởng của phát triển kinh tế đến hoạt động quản lý nguồn nhân lực thành phố Đà NẵngI. Ảnh hưởng của phát triển kinh tế đến hoạt động quản lý nguồn nhân lực trong nướcKinh tế tăng trưởng và phát triển liên tục. Năm 2007 – năm đầu tiên là thành viên của WTO, chỉ số tăng trưởng GDP là 8,5%, của xuất khẩu 20,5%, thu hút FDI tăng 17%, xếp hạng môi trường kinh doanh được nâng cấp lên 13 bậc, GDP tính theo đầu người tăng gấp 4 lần so với trước đổi mới, đời sống của nhân dân nhìn chung được nâng cao rõ rệt. Ngày 16/10/2007, Việt Nam được bầu làm thành viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc khóa 2008 – 2009, cho thấy vị thế Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Để đáp ứng yêu cầu về nhân lực ngày càng cao của nền kinh tế, Việt Nam chi cho giáo dục trung bình khoảng 8% GDP/năm nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, ở Mỹ mới chỉ là 6%, Trung Quốc là 2,7%. Chi ngân sách nhà nước cho giáo dục và đào tạo năm 2000 là 11,5%, năm 2005 là 13%, năm 2007 là 20%.Do đó, giáo dục, đào tạo, và khoa học được đầu tư, phát triển ngày càng mạnh mẽ. Nhìn chung chất lượng nguồn nhân lực được nâng cao hơn trước, thể hiện rõ nét nhất ở năng suất lao động của toàn xã hội đã thay đổi hẳn, trình độ giáo dục phổ cập và số lượng học sinh, lực lượng lao động có đào tạo, số người tốt nghiệp các bậc học tăng nhanh so với nhiều nước, đặc biệt trong vòng 10 năm 1993 - 2002 tỷ lệ đói nghèo giảm còn một nửa (từ 57% xuống còn 28%).II. Ảnh hưởng của phát triển kinh tế đến hoạt động quản lý nguồn nhân lực thành phố Đà NẵngQuản lý nguồn nhân lực theo ngành nghề:Trong những năm vừa qua cơ cấu nguồn nhân lực theo ngành nghề trên địa bàn thành phố Đà Nẵng đã có sự thay đổi theo hướng tăng nhanh tỷ trọng trong các ngành công nghiệp xây dựng, dịch vụ, giảm đáng kể tỷ trọng các ngành nông lâm thuỷ sản.Cụ thể năm 2004 tỷ trọng nhân lực trong ngành công nghiệp xây dựng là130.240 người tăng 24.418 người về mặt quy mô so với năm 2001. Ngành dịch vụ năm 2004 có 42,61% tăng 3,16% tỷ trọng so với năm 2001. Trong khi đó tỷ trọng ngành nông lâm thuỷ sản từ 25,71% giảm xuống còn 20,22% năm 2004 tức giảm tương đối là 5,49%.Quản lý nguồn nhân lực theo trình độ chuyên môn kỹ thuật:Nguồn lao động qua đào tạo ngày càng hợp lý hơn. Năm 2001 tỷ lệ ĐH - CĐ : THCN : CNKT là 1 : 0,48 : 1,37; đến năm 2004 là 1 : 0,59 : 1,62. Mặt khác tỷ lệ lao động không có trình độ chuyên môn kỹ thuật có xu hướng giảm dần theo thời gian. Năm 2001 lao động không có chuyên môn kỹ thuật 68,69% sang năm 2004 giảm xuống còn 60,69%. Số lao động có trình độ đại học cao đẳng cũng tăng lên đáng kể. Những con số trên đã biểu rõ được những cố gắng của thành phố trong việc nâng cao chất lượng và trình độ tay nghề cho nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế.Quản lý nguồn nhân lực theo thành thị, nông thôn.Cùng với tiến trình phát triển kinh tế xã hội, trong những năm qua tỷ lệ nhân lực ở khu vực nông thôn có xu hướng giảm từ 23,95% năm 2001 xuống còn 23,45% năm 2004, đồng thời tỷ lệ nhân lực khu vực thành thị tăng từ 76.05% năm 2001 lên 76,55% năm 2004. Việc chuyển dịch cơ cấu này là hoàn toàn phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội của thành phố.THANKS FOR WATCHING!