Tình hình thu hút FDI tại Việt Nam

Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về khái niệm FDI: - Theo Tổ Chức Thương Mại Thế giới ( WTO) thì: Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI- Foreign Direct Investment) xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh. Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư thường hay đựoc gọi là "công ty mẹ" và các tài sản được gọi là "công ty con" hay "chi nhánh công ty". - Theo Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế ( IMF, international monetary fund) lại có một định nghĩa khác về FDI: Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI (foreign direct investment) là một công cuộc đầu tư ra khỏi biên giới quốc gia, trong đó người đầu tư trực tiếp ( direct investor) đạt được một phần hay toàn bộ quyền sỡ hữu lâu dài một doanh nghiệp đầu tư trực tiếp ( direct investment enterprise) trong một quốc gia khác. Quyền sở hữu này tối thiểu phải là 10% tổng số cổ phiếu mới được công nhận là FDI.

doc18 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3193 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tình hình thu hút FDI tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ FDI 1.Định nghĩa về FDI: Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về khái niệm FDI: - Theo Tổ Chức Thương Mại Thế giới ( WTO) thì: Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI- Foreign Direct Investment) xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh. Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư thường hay đựoc gọi là "công ty mẹ" và các tài sản được gọi là "công ty con" hay "chi nhánh công ty". - Theo Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế ( IMF, international monetary fund) lại có một định nghĩa khác về FDI: Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI (foreign direct investment) là một công cuộc đầu tư ra khỏi biên giới quốc gia, trong đó người đầu tư trực tiếp ( direct investor) đạt được một phần hay toàn bộ quyền sỡ hữu lâu dài một doanh nghiệp đầu tư trực tiếp ( direct investment enterprise) trong một quốc gia khác. Quyền sở hữu này tối thiểu phải là 10% tổng số cổ phiếu mới được công nhận là FDI. 2. Vai trò của vốn đầu tư trực tiếp (FDI) ở Việt Nam Cho đến nay, Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã được nhìn nhận như là một trong những “trụ cột” tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Vai trò của FDI được thể hiện rất rõ qua việc đóng góp vào các yếu tố quan trọng của tăng trưởng như bổ sung nguồn vốn đầu tư, đẩy mạnh xuất khẩu, chuyển giao công nghệ, phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm,…Ngoài ra, FDI cũng đóng góp tích cực vào tạo nguồn thu ngân sách và thúc đẩy Việt Nam hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Nhờ có sự đóng góp quan trọng của FDI mà Việt Nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong nhiều năm qua và được biết đến là quốc gia phát triển năng động, đổi mới, thu hút được sự quan tâm của cộng đồng quốc tế. a. Nguồn vốn hỗ trợ cho phát triển kinh tế Trong các lý luận về tăng trưởng kinh tế, nhân tố vốn luôn được đề cập. Khi một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh hơn, nó cần nhiều vốn hơn nữa. Nếu vốn trong nước không đủ, nền kinh tế này sẽ muốn có cả vốn từ nước ngoài, trong đó có vốn FDI. Tỷ lệ tích lũy vốn của nước ta còn thấp là một trở ngại lớn cho nền kinh tế xã hội. Với mục tiêu “xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp, ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa”. Với lượng tích lũy này Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn, trở ngại. Thu hut FDI là một hình thức huy động vốn để hỗ trợ cho nhu cầu đầu tư của nền kinh tế. Trong khi đó liên doanh với nước ngoài, việc bỏ vốn đầu tư của các doanh nghiệp trong nước có thể giảm được rủi ro về tài chính. Bởi vì: thứ nhất là, họ có nhiều kinh nghiệm nên hạn chế và ngăn ngừa được rủi ro, hai là, trong tình huống xí nghiệp liên doanh giữa họ với chúng ta, có nguy cơ rủi ro thì các công ty mẹ sẽ có biện pháp hỗ trợ sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, trợ giúp tài chính. Trong tình huống xấu nhất thì họ cũng là người cùng chia sẻ rủi ro với các công ty của các nước sở tại. FDI vào Việt Nam sẽ tạo ra các tác động tích cực đối với việc huy động các nguồn vốn khác như ODA, NGO. Nó tạo ra hình ảnh đẹp, đáng tin cậy về Việt Nam trong các tổ chức và cá nhân nước ngoài. Mặt khác, ngay trong quan hệ đối nội FDI còn có tác dụng kích thích đối với việc thu hut vốn đầu tư trong nước. Tích lũy vốn ban đầu cho công nghiệp hóa bằng cách khai thác tối đa nguồn vốn trong nước và tranh thủ nguồn vốn từ bên ngoài là phù hợp với thời đại hiện nay, thời đại hợp tác và liên kết quốc tế. Ưu điểm vượt trội của nguồn vốn này so với các nguồn vốn đầu tư khác là đi kèm theo chuyển giao công nghệ, thúc đẩy xuất khẩu, tiếp nhận kiến thức quản lý hiện đại. Mặt khác, so với các nguồn vốn nước ngoài khác, vốn FDI “ít bị nhạy cảm” trước những biến động của thị trường tài chính toàn cầu. Thực tế ở các nước Đông Nam Á bị khủng hoảng tài chính năm 1997 đã chứng minh rất rõ đặc điểm này. b. Chuyển giao công nghệ mới và bí quyết quản lý. Trong một số trường hợp, vốn cho tăng trưởng dù thiếu vẫn có thể huy động được phần nào bằng "chính sách thắt lưng buộc bụng". Tuy nhiên, công nghệ và bí quyết quản lý thì không thể có được bằng chính sách đó. Thu hút FDI từ các công ty đa quốc gia sẽ giúp một nước có cơ hội tiếp thu công nghệ và bí quyết quản lý kinh doanh mà các công ty này đã tích lũy và phát triển qua nhiều năm và bằng những khoản chi phí lớn. Tuy nhiên, việc phổ biến các công nghệ và bí quyết quản lý đó ra cả nước thu hút đầu tư còn phụ thuộc rất nhiều vào năng lực tiếp thu của đất nước. Với chiến lược xây dựng Việt Nam thành nước công nghiệp, theo đuổi con đường công nghiêp hóa, hiện đại hóa theo định hướng chủ nghĩa xã hội, tuy nhiên khoảng cách về phát triển khoa hoc kỹ thuật giữa các nước phát triển, nhất là Việt Nam, với các nước công nghiệp phát triển. Vì thế một trở ngại rất lớn trên con đường phát triển kinh tế là trình độ kỹ thuật – công nghệ lạc hậu. Tùy vào hoàn cảnh của mỗi đất nước mà có cách đi riêng để giải quyết vấn đề này. Viêc mà các nước đang phát triển tự nghiên cứu để phát triển khoa học kỹ thuật cho kịp với trình độ của các nước phát triển là việc khó khăn và tốn kém. Con đường nhanh nhất để phát triển kỹ thuật – công nghệ và trình độ sản xuất của các nước đang phát triển trong điều kiện hiện nay là phải biết tận dụng được những trình độ kỹ thuật – công nghệ hiện đại trên thế giới, tuy nhiên mức độ hiện đại đến đâu còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố. Trong điều kiện hiện nay, trên thế giới có nhiều công ty của nhiều quốc gia khác nhau có nhu cầu đầu tư ra nước ngoài và thực hiện chuyển giao công nghệ cho các nước tiếp nhận đầu tư. Nhưng không phải các nước đang phát triển được “đi xe miễn phí” mà họ cũng phải trả một khoản “học phí” không nhỏ cho việc tiếp nhận chuyển giao công nghệ này. Chuyển giao công nghệ cũng là yêu cầu tất yếu của sự phát triển khoa học kỹ thuật. Bất kỳ tổ chức nào muốn thay thế kỹ thuật – công nghệ mới thì phải tìm được “nơi thải” những kỷ thuật công nghệ cũ. Việc “thải” những công nghệ cũ dễ dàng được nhiều nơi chấp nhận. Tuy nhiên các nước phát triển xem các nước phát triển như “bãi rác”, là nơi thỉa các máy móc lạc hậu… vì vậy việc tiếp nhận công nghệ thông qua kênh FDI còn có vài vấn đề cần giải quyết. Thứ ba, năng lực tiếp nhận của chúng ta còn yếu, việc lựa chọn kỹ thuật còn nhiều lúng túng, chưa có kế hoạch, quy hoạch tổng thể, đôi khi còn tùy tiện hoặc là thiếu hiểu biết. FDI mang lại cho nước tiếp nhận đầu tư, những kỷ thuật công nghệ tiên tiến, yếu tố quan trọng để phát triển lực lượng sản xuất. Chuyển giao công nghệ qua các dự án FDI luôn đi kèm với đào tạo nhân lực vận hành, quản lý và nhờ học qua làm (learning by doing), nhờ đó đã hình thành được đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật có trình độ, tay nghề khá cao. Đối với một số khâu chủ yếu của dây chuyền công nghệ tiên tiến hoặc đặc thù, lao động sau khi tuyển dụng được đưa đi bồi dưỡng ở các doanh nghiệp mẹ ở nước ngoài. Đến nay, hầu hết các công nghệ có trình độ tiên tiến và đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật cao ở Việt Nam được tập trung trong khu vực có vốn FDI. c. Thúc đẩy quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế Để hội nhập vào nền kinh tế thế giới và tham gia tích cực vào quá trình liên kết giữa các nước trên thế giới, đòi hỏi từng quốc gia phải thay đổi cơ cấu kinh tế trong nước cho phù hợp với phân công lao động quốc tế. Bởi lẻ, đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần thúc đẩy nhanh chóng quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Bởi vì: 1) Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài đã làm xuất hiện nhiều lĩnh vực và ngành kinh tế mới ở các nước nhận đầu tư. 2) Giúp vào sự phát triển nhanh chong trình độ kỹ thuật công nghệ ở nhiều ngành kinh tế, góp phần thúc đẩy năng suất lao động của các ngành này và làm tăng tỷ trọng của nó trong nền kinh tế. 3) Một số ngành được kích thích phát triển bởi đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhưng cũng sẽ có nhiều ngành bị mai một đi rồi đi đến chổ bị xóa bỏ. FDI thực sự đã có vai trò to lớn với sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế thông qua việc đầu tư nhiều hơn vào ngành công nghiệp. Vì ngành công nghiệp có năng suất lao động cao nhất và tỷ trọng lớn nhất trong nền kinh tế, nên FDI đã góp phần to lớn vào tăng tốc độ phát triển quốc dân. Để trở thành quốc gia công nghiệp hóa vào năm 2020 và để nền kinh tế Việt Nam có thể hội nhập với khu vực và thế giới, một đòi hỏi búc xúc là đẩy nhanh hơn nữa quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế. Thúc đẩy quá trình mở cửa và hội nhập của nền kinh tế Việt Nam với thế giới. Hoạt động của đầu tư đã giúp Việt Nam mở rộng hơn thị phần nước ngoài. Góp phần chuyển biến nền kinh tế Việt Nam theo hướng của một nền kinh tế hàng hóa. Đối với Việt Nam, vốn FDI đóng vai trò như lực khởi động, như một trong những điều kiện đảm bảo cho sự phát triển của công nghiêp hóa – hiện đại hóa. Một số dự án FDI góp phần làm vực dậy một số doanh nghiệp Việt Nam đang trong điều kiện khó khăn, sản xuất đình đốn, nguy cơ phá sản. d. Tham gia sản xuất mạng lưới sản xuất toàn cầu. Khi thu hút FDI từ các công ty đa quốc gia, không chỉ xí nghiệp có vốn đầu tư của công ty đa quốc gia, mà ngay cả các xí nghiệp khác trong nước có quan hệ làm ăn với xí nghiệp đó cũng sẽ tham gia quá trình phân công lao động khu vực. Chính vì vậy, nước thu hút đầu tư sẽ có cơ hội tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu thuận lợi cho đẩy mạnh xuất khẩu. Đẩy mạnh xuất khẩu cũng là đóng góp nổi bật, thể hiện rõ nét vai trò của FDI trong suốt 20 cải cách kinh tế vừa qua. Ngay cả trong những năm xuất khẩu của các ngành kinh tế khác tăng chậm hoặc giảm thì xuất khẩu của khu vực FDI vẫn tăng cao, nhờ đó duy trì được tốc độ tăng xuất khẩu của cả nước khá cao trong nhiều năm. Cũng cần lưu ý rằng khu vực FDI có mức thặng dư thương mại khá cao. Điều đó góp phần làm giảm mức thâm hụt thương mại chung cho cả nền kinh tế. e. Tăng số lượng việc làm và đào tạo nhân công Tạo việc làm là những đóng góp quan trọng, không thể phủ nhận của khu vực FDI. Mặc dù so với các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì số việc làm được tạo ra còn hạn chế, nhưng “chất lượng” của lực lượng lao động trong khu vực FDI tốt hơn rõ rệt. Nhiều cán bộ, công nhân trong khu vực FDI đã và đang là những “hạt nhân” để phát triển lực lượng lao động trình độ, tay nghề cao của Việt Nam. Thêm vào đó, số việc làm tạo ra nhờ hiệu ứng lan tỏa của khu vực FDI cũng có thể là một con số đáng kể. f. Nguồn thu ngân sách lớn Đối với nhiều nước đang phát triển, hoặc đối với nhiều địa phương, thuế do các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nộp là nguồn thu ngân sách quan trọng. g. Vai trò như những trụ cột đối với thành công của chính sách đổi mới nền kinh tế. Việt Nam thực hiện Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài (12/1987) trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội còn rất thấp. Hạ tầng cơ sở nghèo nàn, khoa học công nghệ lạc hậu, nguồn nhân lực phần lớn chưa qua đào tạo,…Trong khi đó, nhu cầu phát triển luôn phải đối mặt với sức ép cần vồn đầu tư, công nghệ tiên tiến, đẩy mạnh xuất khẩu,… để khai thác lợi thế so sánh nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng cao, giải quyết công ăn việc làm và ổn định đời sống xã hội. Mặt khác, từ những năm cuối thập kỷ 80 đến hết thập kỷ 90 của thế kỷ trước, xu hướng đầu tư quốc tế vào các nước đang phát triển chủ yếu tập trung vào các ngành khai thác, công nghiệp chế tạo và những ngành cần nhiều lao động. Trong bối cảnh phát triển đó, Việt Nam rất khó thu hút FDI vào các ngành công nghệ cao, sản xuất những sản phẩm có giá trị gia tăng lớn hoặc vào những ngành phải đáp ứng được các tiêu chuẩn khắt khe của bảo vệ môi trường. Vì vậy, việc định hướng thu hút FDI vào những ngành mà Việt Nam có lợi thế tự nhiên, phù hợp với trình độ phát triển và đón bắt được xu hướng đầu tư quốc tế là khá phù hợp. Do đó, mặc dù còn những hạn chế nhất định, nhưng FDI đã đóng góp rất tích cực. Bằng các đóng góp rất cụ thể vào tăng trưởng, tạo nguồn thu ngân sách, tạo việc làm và thúc đẩy hội nhập quốc tế, đã minh chứng rõ ràng vai trò quan trọng của FDI đối với sự thành công của chính sách đổi mới của Việt Nam. Trong bối cảnh phát triển mới của Việt Nam, FDI vẫn đóng vai trò quan trọng với công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế. Tuy nhiên, vai trò của FDI chỉ thực sự quan trọng nếu được sử dụng có hiệu quả cao và tạo được sự phát triển bền vững. Do đó, Chính phủ nên thu hút, sử dụng FDI một cách có lựa chọn, khuyến khích đầu tư vào những ngành nền kinh tế thực sự cần và phát triển đảm bảo tính bền vững về dài hạn. 3. Một số yêu cầu và những vấn đề đặt ra của tiến trình CNH, HĐH ở Việt Nam đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài. + Những yêu cầu: - Thu hút vốn nước ngoài, một mặt góp phần giải quyết một trong những tiền đề cơ bản, mang tính chất quyết định sự khởi động cho sự nghiệp CNH, HĐH. Mặt khác, làm điều kiện kết hợp các yếu tố nội lực để khai thác tốt các tiềm năng trong nước nhằm thúc đẩy tăng trưởng và chuyển biến nền kinh tế theo cơ cấu của một nền kinh tế công nghiệp. - Góp phần đổi mới công nghệ, trang bị kỹ thuật hiện đại cho nền kinh tế quốc dân, nâng cao năng lực cho người lao động và tiếp thu kinh nghiệm quản lý tiên tiến. - Tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động. - Hình thành một thị trường đồng bộ, mở rộng và góp phần làm tăng khả năng thanh toán của thị trường tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ… Mở rộng giao lưu quốc tế, thúc đẩy hợp tác và hội nhập quốc tế, tăng xuất khẩu. - Góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, tạo nguồn thu cho ngân sách. +Những vấn đề đặt ra: - Thứ nhất: Mối quan hệ về lợi ích giữa các nhà đầu tư với nước chủ nhà. Một dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài chỉ có thể thành khả thi khi lợi ích được phân phối hợp lý. - Thứ hai: Quan hệ giữa quản lý và lao động - có thể đó là quan hệ giữa chủ sở hữu với lao động làm thuê. - Thứ ba: Mối quan hệ giữa tiếp thu, ứng dụng công nghệ tiên tiến, thực hiện chiến lược "đi tắt, đón đầu" nhằm đẩy nhanh CNH, HĐH với vấn đề tạo việc làm cho người lao động. - Thứ tư: Mối quan hệ giữa các doanh nghiệp có vấn đề đầu tư nước ngoài với các doanh nghiệp trong nước. II. THỰC TRẠNG CỦA ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM SAU KHI MỞ CỬA 1. Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài thời gian qua Kể từ năm 1988 đến nay, Việt Nam đã thu hút khoảng 98 tỉ USD với 9500 dự án đầu tư nước ngoài. Trong số đó, 2.220 dự án phân bố ở miền Bắc, 818 ở miền Trung và 5.452 dự án ở miền Nam. Hiện nay có 82 nước và vùng lãnh thổ đã đầu tư vào Việt Nam, trong đó các nước châu Á chiếm 69,8%, Châu Âu chiếm 16,7 % và Châu Mỹ chiếm 6% tổng vốn FDI, các khu vực khác chiếm 7,5%. Năm nước và vùng lãnh thổ hàng đầu chiếm 58,3% các dự án được cấp phép với tổng vốn đầu tư chiếm 60,6% tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Năm nước và vùng lãnh thổ đứng kế tiếp là quần đảo Virginia thuộc Anh, Pháp, Hà Lan, Malaysia và Mỹ. Mười nước và vùng lãnh thổ đứng đầu này chiếm đến hơn ¾ tổng số dự án được cấp phép và vốn đầu tư đăng kí tại Việt Nam. Việt Nam đã thu hút dược 20,3 tỉ USD vốn đầu tư nước ngoài trong năm 2007, tăng 70% so với 2006 và tương đương với tổng vốn đầu tư nước ngoài trong năm năm từ 2001 đến 2005. Từ 1996 đến nay, đầu tư có xu hướng tập trung vào xây dựng cơ sở hạ tầng, các ngành đòi hỏi nhiều lao động, sản xuất hàng hóa xuất khẩu và sản xuất hàng hóa thay thế nhập khẩu. Hiện tại có hơn 4.566 dự án thuộc ngành sản xuất và xây dựng với tổng vốn khoảng 35,4 tỉ USD, chiếm 61,89% tổng số vốn đăng kí. Mặc dù các dự án đầu tư nước ngoài có mặt tại hầu khắp các tỉnh và thành phố của Việt Nam, tỉ lệ đầu tư lớn nhất vẫn dành cho các vùng kinh tế trọng điểm ở phía Nam bao gồm thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa-Vũng Tàu; và ở phía Bắc gồm Hà Nội, Hải Dương, Hải Phòng và Quảng Ninh. Tập trung nhiều nhất vẫn là ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh bởi hai thành phố này có cơ sở hạ tầng phát triển hơn, sức mua cao hơn và lực lượng lao động lành nghề hơn. Trong những năm gần đây, số lượng dự án 100% vốn nước ngoài cũng bắt đầu tăng lên. Những dự án này hiện nay chiếm 76% tổng số dự án được cấp giấy phép và 55% vốn đăng ký, trong khi các doanh nghiệp liên doanh chỉ chiếm phần còn lại. Đồng thời, có sáu dự án đầu tư nước ngoài được cấp phép ở Việt Nam theo hình thức BOT (cung cấp nước và nhà máy điện), với tổng vốn đăng ký là 1,37 tỉ USD. Khu vực đầu tư nước ngoài đã có sự phát triển vượt bậc, dần dần khẳng định vị thế của mình là một bộ phận năng động của nền kinh tế, đóng góp quan trọng vào việc tăng cường năng lực và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Trong những năm gần đây, khu vực đầu tư nước ngoài chiếm ¼ tổng vốn đầu tư của cả nước, 43,6% sản lượng công nghiệp (2004), 57,2% tổng kim ngạch xuất khẩu (2005) và 15,9% GDP của Việt Nam. Tuy vậy, tỉ lệ giải ngân vốn của các dự án đầu tư nước ngoài vẫn còn chậm và chưa ổn định từ mức 7,1 tỉ USD trong giai đoạn 1991-1995 lên mức 13,5 tỉ USD giai đoạn 1996-2000 và 14,3 tỉ USD từ 2001 đến 2005 nhưng trong năm 2006 và 2007, vốn được giải ngân giảm còn 8,7 tỉ USD. Đóng góp của FDI vào GDP    2001  2002  2003  2004  2005  2006  2007  2008   GDP  100.0  100.0  100.0  100.0  100.0  100.0  100.0  100.0   Khu vực nhà nước  39.0  39.0  38.4  39.1  39.2  38.4  50.1  43.3   Ngoài khu vực nhà nước  47.7  48.0  48.7  46.4  45.6  45.7  33.6  40.7   FDI  13.3  13.0  13.8  14.5  15.2  15.9  16.3  16   Nguồn: Tổng cục Thống kê 2. ĐTNN phân theo hình thức đầu tư: Tính đến hết năm 2009, chủ yếu các doanh nghiệp ĐTNN thực hiện theo hình thức 100% vốn nước ngoài, có 6.685 dự án ĐTNN với tổng vốn đăng ký 51,2 tỷ USD, chiếm 77,2% về số dự án và 61,6% tổng vốn đăng ký. Theo hình thức liên doanh có 1.619 dự án với tổng vốn đăng ký  23,8 tỷ USD, chiếm 18,8% về số dự án và 28,7% tổng vốn đăng ký. Theo hình thức Hợp đồng hợp tác kinh doanh có 221 dự án với tổng vốn đăng ký  4,5 tỷ USD chiếm 2,5% về số dự án và 5,5% tổng vốn đăng ký.  Số còn lại thuộc các hình thức khác như BOT, BT, BTO. Có thể so sánh tỷ trọng dự án hoạt động theo hình thức 100% vốn nước ngoài tính đến hết năm 2004 là 39,9%, theo hình thức  liên doanh là 40,6% và theo hình thức hợp doanh là 19,5% để thấy được hình thức 100% vốn nước ngoài được các nhà đầu tư lựa chọn hơn.   3. ĐTNN phân theo đối tác đầu tư: Thực hiện phương châm của Đảng và Chính phủ “đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ hợp tác.. Việt Nam muốn làm bạn với các nước trong khu vực và thế giới...” được cụ thể hóa qua hệ thống pháp luật ĐTNN, qua 20 năm đã có 81 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam với tổng vốn đăng ký trên 83 tỷ đô la Mỹ. Trong đó, các nước Châu Á chiếm 69%, trong đó khối ASEAN chiếm 19% tổng vốn đăng ký. Các nước châu Âu chiếm 24%, trong đó EU chiếm 10%. Các nước Châu Mỹ chiếm 5%, riêng Hoa Kỳ chiếm 3,6%. Tuy nhiên, nếu tính cả số vốn đầu tư từ các chi nhánh tại nước thứ 3 của các nhà đầu tư Hoa Kỳ thì vốn đầu tư của Hoa Kỳ tại Việt Nam sẽ đạt con số trên 3 tỷ USD, đứng vị trí thứ 5 trong tổng số 80 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam, ví dụ Tập đoàn Intel không đầu tư thẳng từ Mỹ vào Việt Nam mà thông qua chi nhánh tại Hồng Kông. Hai nước châu Úc (New Zealand và Australia) chỉ chiếm 1% tổng vốn đăng ký (xem biểu 4). Hiện đã có 15 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vốn đăng ký cam kết trên 1 tỷ USD tại Việt Nam (xem Phụ lục). Đứng đầu là Hàn Quốc vốn đăng ký 13,5 tỷ USD, thứ 2 là Singapore 10,7 tỷ USD, thứ 3 là Đài loan 10,5 tỷ USD (đồng thời cũng đứng thứ 3 trong giải ngân vốn đạt 3,07 tỷ USD), thứ 4 là Nhật Bản 9,03 tỷ USD. Nhưng nếu tính về vốn thực hiện thì Nhật Bản đứng đầu với vốn giải ngân đạt gần 5 tỷ USD, tiếp theo là Singapore đứng thứ 2 đạt 3,8 tỷ USD. Hàn Quốc đứng thứ 4 với vốn giải ngân đạt 2,7 tỷ USD. III. THỰC TRẠNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI) Ở VIỆT NAM 1. Từ năm 2000 đến đầu năm 2010 Cơ cấu kinh tế nuớc ta đang từng bước chuyển dịch theo hướng công nghiệ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docFDI.doc
  • pptxFDI.pptx
Luận văn liên quan