Tình hình ứng dụng cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp đồng bằng sông Cửu Long

Đến nay, ở Việt Nam, việc thực hiện công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn còn yếu và thiếu đồng bộ, còn tùy thuộc rất lớn vào trình độ và nguồn vốn của nông hộ. Cơ sở sản xuất công nghiệp phục vụ nông nghiệp còn rất yếu, trong khi máy móc nhập từ nước ngoài thường không phù hợp trong sản xuất, hoặc quá cồng kềnh hoặc quá đắc tiền so với qui mô sản xuất và khả năng của người nông dân trong vùng. Lực lượng lao động qua đào tạo nghề ở nông thôn còn thấp. cũng là một trong những trở ngại trong việc ứng dụng cơ giới hoá trong sản xuất nông nghiệp, phát triển nông thôn. Vì vậy, việc áp dụng cơ giới hóa trong sản xuất còn hạn chế, năng xuất lao động thấp, chi phí đầu tư cao, các dịch vụ cơ khí đi theo hoạt động này kém phát triển, đời sống của bà con nông dân ở nông thôn còn nhiều khó khăn. Trong sản xuất nông nghiệp, ngoài việc sử dụng các loại giống mới, quản lý nước, phân bón, tín dụng và các chính sách giá cả lương thực của chính phủ; mô hình cơ giới hoá phù hợp giữ vai trò quan trọng trong việc gia tăng sản lượng lương thực -thực phẩm và tiêu chuẩn sống ở vùng nông thôn. Ngoài việc ứng dụng cơ giới trong sản xuất, cần thiết quan tâm đến phát triển cơ sở chế biến (sơ chế) và dịch vụ cơ khí (xưởng sửa chữa, cung cấp vật tư, phụ tùng) ở nông thôn

pdf10 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3138 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tình hình ứng dụng cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp đồng bằng sông Cửu Long, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1/10 TÌNH HÌNH ỨNG DỤNG CƠ GIỚI HÓA TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP ĐBSCL TS. Lê Văn Bảnh Viện trưởng Viện lúa ĐBSCL I. Mở đầu Đến nay, ở Việt Nam, việc thực hiện công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn còn yếu và thiếu đồng bộ, còn tùy thuộc rất lớn vào trình độ và nguồn vốn của nông hộ. Cơ sở sản xuất công nghiệp phục vụ nông nghiệp còn rất yếu, trong khi máy móc nhập từ nước ngoài thường không phù hợp trong sản xuất, hoặc quá cồng kềnh hoặc quá đắc tiền so với qui mô sản xuất và khả năng của người nông dân trong vùng. Lực lượng lao động qua đào tạo nghề ở nông thôn còn thấp... cũng là một trong những trở ngại trong việc ứng dụng cơ giới hoá trong sản xuất nông nghiệp, phát triển nông thôn. Vì vậy, việc áp dụng cơ giới hóa trong sản xuất còn hạn chế, năng xuất lao động thấp, chi phí đầu tư cao, các dịch vụ cơ khí đi theo hoạt động này kém phát triển, đời sống của bà con nông dân ở nông thôn còn nhiều khó khăn. Trong sản xuất nông nghiệp, ngoài việc sử dụng các loại giống mới, quản lý nước, phân bón, tín dụng và các chính sách giá cả lương thực của chính phủ; mô hình cơ giới hoá phù hợp giữ vai trò quan trọng trong việc gia tăng sản lượng lương thực - thực phẩm và tiêu chuẩn sống ở vùng nông thôn. Ngoài việc ứng dụng cơ giới trong sản xuất, cần thiết quan tâm đến phát triển cơ sở chế biến (sơ chế) và dịch vụ cơ khí (xưởng sửa chữa, cung cấp vật tư, phụ tùng) ở nông thôn Ở những vùng canh tác được trên 2 vụ mỗi năm cần phải có cơ giới hoá nông nghiệp để giải quyết kịp thời vụ, tránh được ảnh hưởng của thời tiết. Chẳng hạn, ở đồng bằng sông Cửu long nhờ sử dụng máy móc như máy bơm nước để tưới tiêu, máy gặt đập liên hợp (GĐLH), v.v. mà nông dân có thể gieo sạ sớm trước khi nước rút ở đầu vụ Đông - Xuân (bơm nước ra) và do đó thu hoạch sớm để tiếp tục vụ Hè - Thu, nhờ vậy, vụ Hè - Thu cũng thu hoạch sớm tránh được mưa lũ vào tháng 8 – 9 dương lịch. Tóm lại, áp dụng cơ giới hoá nông nghiệp sẽ: a) Nâng cao hiệu quả kỹ thuật; b) Nâng cao hiệu quả kinh tế; c) Giải phóng bớt lực lượng lao động trong nông nghiệp; e) Giảm cường độ lao động nặng nhọc cho nông dân. Cụ thể là: ● Tăng được hiệu quả sử dụng đất đai và lao động; ● Mở rộng được diện tích canh tác, đáp ứng yêu cầu sản xuất lớn; ● Tiết kiệm các nguồn: giống, phân bón, nước, năng lượng, lao động, ... 2/10 ● Cải thiện được chất lượng nông sản, sản phẩm; ● Bảo vệ môi trường; ● Tăng cường khả năng bền vững của sản xuất nông nghiệp; ● Giảm bớt cường độ lao động nặng nhọc và vất vả cho người lao động; ● Tăng lợi tức trong sản xuất nông nghiệp; ● Tạo ra các ngành nghề hấp dẫn lao động nông thôn; ● Đáp ứng kịp thời vụ, tăng mùa vụ, hạn chế ảnh hưởng của thời tiết, khí hậu. Trong canh tác lúa, việc cơ giới hóa được áp dụng vào các khâu chính như sau: 1. Cơ giới hóa làm đất (cày, bừa, xới, trục, trang…) ; 2. Cơ giới hóa khâu tưới, tiêu; 3. Cơ giới hóa khâu gieo-cấy; 4. Cơ giới hóa khâu chăm sóc, bón phân, bảo vệ thực vật; 5. Cơ giới hóa khâu thu hoạch: gặt, tuốt đập; 6. Cơ giới hóa sau thu hoạch: phơi sấy, bảo quản tồn trữ, xay xát…; và 7. Cơ giới hóa trong khâu vận chuyển. Việc ứng dụng cơ giới trong sản xuất lúa đã được nông dân và chính quyền địa phương quan tâm từ nhiều năm nay, nhưng việc triển khai còn gặp nhiều khó khăn. Cơ giới hoá đồng bộ là yếu tố cơ bản để tiến tới phát triển nền nông nghiệp công nghệ cao, đặc biệt là trong sản xuất lúa. Để đảm bảo cho việc cơ giới hoá đồng bộ trong sản xuất lúa được thuận lợi, cần giải quyết các vấn đề như sau: - Diện tích lô thửa cần đủ rộng để máy xoay trở thuận lợi lúc vận hành; - Giao thông nông thôn thuỷ, bộ cần được thuận lợi cho máy móc đi lại; - Quản lý nước trên động ruộng, chủ động rút khô ruộng trước lúc thu hoạch; - Cần có cày ải hàng năm để tạo tầng đế cày, tránh bị lầy lún; - Cần san ủi để có mặt ruộng tương đối bằng phẳng; - Cần có qui trình canh tác tốt tránh lúa bị đổ ngả lúc thu hoạch; - Chọn máy thu hoạch thích hợp: gặt rải hàng, gặt đập liên hợp. II. Cơ giới hóa trong sản xuất lúa 2.1 Phát triển giao thông nông thôn: để thực hiện tốt CGH trong sản xuất, nhất thiết cần có đường giao thông thuỷ bộ thuận tiện cho máy móc đi lại, đi từ đồng này sang đồng kia, từ lô ruộng này sang lô ruộng khác. Ở vùng ĐBSCL có đặc điểm là kênh rạch chằng chịch, đường giao thông nông thôn lại rất hạn chế, nhỏ hẹp, do vậy máy móc đi lại rất khó khăn, đặc biệt máy GĐLH thường cồng kềnh đi lại càng khó khăn hơn, nhất là trong mùa mưa, lũ. 2.2 San ủi đồng ruộng 3/10 Trong canh tác lúa, nếu đồng ruộng được san phẳng sẽ rất thuận lợi cho việc dùng cơ giới: chủ động cung cấp nước cũng như thoát nước đồng đều trên đồng ruộng, khống chế cỏ dại dễ dàng; quản lý được ốc bưu vàng vì chúng thường ở những vùng nước trũng. Mặt đồng có độ bằng phẳng tốt rất thuận lợi khi dùng máy gieo hàng hoặc máy cấy, khi dùng máy thu hoạch cũng rất thuận lợi. Mặt khác, theo nghiên cứu của các nhà nông học cho thấy rằng khi mặt đồng ruộng được cải tạo san phẳng, dễ dàng trong quản lý nước, tiết kiệm nước, quản lý được cỏ dại và tiết kiệm bón phân... lúa sẽ cho năng suất cao hơn đồng ruộng còn gò, trũng từ 5 – 10%. Do vậy, việc san ủi tạo độ bằng phẳng mặt ruộng là rất cần thiết, từ lâu nông dân cũng đã có trang phẳng mặt ruộng bằng các thiết bị thông thường nhờ can mực nước nhưng độ đồng đều không cao. Ở các nước tiên tiến, người ta thường rất quan tâm đến độ bằng phẳng của mặt ruộng, họ dùng máy san điều khiển bằng tia laser, việc làm này tuy có đầu tư nhiều hơn san ủi bình thường nhưng rất thuận lợi, độ chênh lệch cao trình có thể đạt đến < 2cm. Những năm gần đây, Viện nghiên cứu lúa Quốc tế IRRI đã có chuyển giao qua VN công nghệ này, ĐBSCL có một số nơi áp dụng rất hiệu quả. Cơ giới hóa nông nghiệp ngoài mục đích tăng năng suất lao động, còn nhắm tăng năng suất cây trồng nhờ làm kịp thời vụ, giảm chi phí đầu vào như phân bón, thuốc sâu bệnh, nước tưới... góp phần nâng cao lợi tức của người nông dân. San phẳng ruộng lúa điều khiển bằng tia laser (gọi tắt là san phẳng laser, laser leveling) là một kỹ thuật tạo điều kiện cho các mục đích này. San phẳng laser được dùng nhiều trong nông nghiệp Mỹ, Nhật, Úc, và bước đầu được áp dụng ở các nước đang phát triển. Theo TS. Phan Hiếu Hiền, giảng viên trường Đại học Nông lâm TP. HCM, kết quả thực nghiệm của Viện Nghiên cứu Lúa Quốc tế (IRRI) tại Philippines, Ấn độ và Campuchia cho thấy các lợi điểm của mặt ruộng bằng phẳng: a/ Tăng năng suất lúa khoảng 0,5 tấn/ha; b/ Dễ kiểm soát cỏ dại, do khống chế mức nước, giảm 70% công lao động làm cỏ; c/ Tăng diện tích đất hữu hiệu thêm khoảng 5- 7% vì không cần bờ ruộng; d/ Vận hành máy hiệu quả hơn, do giảm được 10- 15% thời gian quay vòng; e/ Thuận tiện cho sử dụng máy sạ hàng; f/ Tiết kiệm nước, ví dụ một cánh đồng chênh nhau 160 mm sẽ đòi hỏi 100mm nước nhiều hơn, tức là hơn gấp đôi nhu cầu nước cho cây lúa. Qui tất cả thành tiền, hiệu quả kinh tế khá rõ rệt. So với máy san phẳng thông thường, san phẳng laser đòi hỏi đầu tư thiết bị laser khá cao, cần người vận hành thành thạo, bù lại có thể kiểm soát độ chênh lệch mặt ruộng ở mức ≈ 20 mm. 2.3 Làm đất: Cày, bừa, trục, phay 4/10 Làm đất là một khâu quan trọng không thể thiếu được trong canh tác cây trồng, nhằm mục đích duy trì và nâng cao độ phì của đất, tạo điều kiện cho sự sinh trưởng và phát triển của hạt giống và cây trồng. Theo kết quả nghiên cứu được công bố bởi bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA), nếu lấy giá trị toàn bộ phần tăng lên về năng suất cây trồng do tác động của tất cả các khâu canh tác là 100% thì trong đó do khâu làm đất chiếm 25%. Do vậy, khâu làm đất đạt tiêu chuẩn là hết sức quan trọng. Trong canh tác lúa, khâu làm đất rất quan trọng, trong nhiều năm qua ở vùng ĐBSCL, bà con nông dân thường làm đất tối thiểu, vụ Hè Thu (HT) chỉ dùng máy phay đất sau đó cho nước vào, trục đất và gieo sạ. Vụ Đông Xuân (ĐX), sau khi nước lũ rút đi người ta dùng máy kéo mang bánh lồng trục trước khi gieo sạ, thậm chí có nơi người nông dân còn sạ chai (không cần làm đất). Cách làm đất này nếu kéo dài nhiều năm sẽ làm mất đi tầng đế cày, tầng canh tác không rõ ràng, mặt ruộng rất dễ bị lầy lún khi dùng máy cơ giới có tải trọng lớn như máy gặt đập liên hợp. Do vậy, hàng năm bà con nông dân nên có một lần cày ải phơi đất ít nhất 3 tuần để ngoài việc tiêu diệt cỏ dại, vệ sinh đồng ruộng tránh sâu rầy và bệnh lưu trú truyền từ vụ trước sang vụ sau, tạo tầng canh tác đảm bảo cây lúa phát triển bộ rễ tốt tránh đổ ngả, thuận lợi lúc thu hoạch, tạo tầng đế cày có nền đất vững chắc để dễ sử dụng cơ giới trong canh tác lúa. 2.4 Cơ giới trong gieo cấy lúa 2.4.1 Công cụ và máy gieo lúa theo hàng: Ở nước ta, đặc biệt là Đồng Bằng sông Cửu long, do nông dân ở đây có diện tích gieo trồng lúa lớn, công làm đất cho kỹ đủ tiêu chuẩn để cấy rất tốn kém. Do đó nông dân ở đây có tập quán sạ lan, sạ lan có ưu điểm là không cần phải làm đất kỹ, năng suất sạ tay rất cao, một người sạ lúa giỏi có thể sạ được vài hecta trong một ngày. Nhưng nó có nhược điểm là tốn rất nhiều hạt giống (từ 200 đến 250 kg /ha). Mặt khác, mật độ sạ quá dày như vậy dễ gây ra nhiều sâu bệnh cho cây lúa, khó thực hiện việc cơ giới hoá trong khâu làm cỏ, bón phân. đặc biệt là không thể sản xuất lúa giống tốt được vì chúng lẫn nhiều lúa nền, lúa cỏ.v.v.. rất khó khử lẫn. Diện tích lúa sạ lan ở miền Nam hiện nay còn rất lớn, khoảng gần 80% diện tích. Để khắc phục các nhược điểm trên của tập quán sạ lan, Viện lúa ĐBSCL qua nhiều năm nghiên cứu, sau khi nghiên cứu thành công đã có khuyến cáo bà con nông dân dùng công cụ, thiết bị gieo, đặc biệt là các đơn vị sản xuất lúa giống nên dùng máy gieo sạ lúa theo hàng thay tập quán sạ lan. Giải pháp nông học này rất có hiệu quả: giảm chi phí sản xuất, tăng năng suất, tăng chất lượng hạt giống và cả chất lượng hạt gạo. Thí nghiệm của Viện lúa Đồng bằng sông Cửu Long so sánh giữa lúa gieo hàng và lúa sạ lan đã khẳng định tính ưu việt hơn hẳn của lúa gieo hàng, mật độ hạt gieo phân bổ đều, không khí thông thoáng, tiếp thu ánh sáng tốt làm cho cây lúa phát triển tốt nên: giảm sâu bệnh, tiết kiệm giống (40 - 50%), thuận tiện trong cơ giới 5/10 hóa bón phân, diệt cỏ dễ hơn, giảm chi phí trong sản xuất, năng suất lúa tăng (15 - 20%). So với tập quán sạ lan (gieo vãi) thì gieo thành hàng bằng công cụ này đã đem lại lợi ích rất lớn (năng suất lúa tăng, tiết kiệm giống, làm cỏ dễ), là nhân tố chủ lực của chương trình 3 giảm 3 tăng trong thâm canh tổng hợp lúa ở ĐBSCL. Do đó, công cụ gieo lúa kiểu trống này được nông dân hoan nghênh, đang phát triển mạnh ở Đồng bằng sông Cửu Long và đã được công ty TNHH Hoàng Thắng sản xuất hàng loạt bằng vật liệu nhựa với hai loại GL -01/L6 và GL -01/L8, do dùng vật liệu nhựa nên công cụ vừa nhẹ hơn vừa rẻ tiền. Công cụ sạ hàng này được sử dụng rộng rãi ở ĐBSCL và nay đã triển khai ra đồng bằng sông Hồng rất có hiệu quả. Để tăng công suất gieo sạ hàng, các nhà khoa học của Viện lúa ĐBSCL đã nghiên cứu chế tạo máy sạ hàng liên hợp với máy kéo 4 bánh dùng cho những thửa ruộng lớn với công suất gieo từ 3-5ha/ngày. 2.4.2 Máy cấy lúa Hiện nay, việc dùng máy cấy để cấy mạ được ứng dụng rộng rãi ở các nước trồng lúa nước có trình độ cơ giới hoá cao như: Nhật bản, Hàn quốc, Đài loan, và gần đây là Trung quốc, v.v… Việc dùng máy cấy đòi hỏi phải có đòi hỏi nhất định: kỹ thuật làm mạ, mặt đồng ruộng có độ bằng phẳng tương đối tốt, kỹ thuật vận hành của công nhân, v.v… nhưng có nhiều cái lợi: tiết kiệm hạt giống (chỉ 30 – 40kg/ha); tránh được ốc bưu vàng (chỉ ăn mầm và thân mạ non) làm giảm được lượng thuốc sát trùng đáng kể (lợi về kinh tế và môi trường); giảm thời gian lúa đứng trên đồng (15-20 ngày) phù hợp cho vùng lũ rút chậm, giảm việc sạ ngầm phải dùng quá nhiều hoá chất độc làm ô nhiễm môi trường hoặc tránh được ngập mặn cuối vụ ở vùng nhiễm mặn ven biển; lúa được cấy (sâu 3-5cm) ít đổ ngả, dễ cơ giới trong khâu chăm sóc và thu hoạch bằng cơ giới. Tuy hiện nay máy cấy chưa được ứng dụng tại vùng ĐBSCL, nhưng cũng cần nghiên cứu áp dụng thử trong thời gian tới vì những lợi ích thiết thực của nó. 2.5 Cơ giới hóa tưới tiêu – chăm sóc 2.5.1 Tưới tiêu Ở vùng đồng bằng sông Cửu long, việc tưới tiêu trong sản xuất lúa có nhiều thuận lợi, đa số nông dân tận dụng vào thủy triều và nước trời, như vụ Hè Thu thường vào mùa mưa nên nông dân thường giảm chi phí bơm tưới, chỉ có vụ 3 cần chủ động bơm nước, vụ Đông Xuân ở khu vực đầu nguồn nông dân muốn gieo sạ sớm phải bơm rút nước ra. Do mực thủy cấp thấp nên máy bơm thường là loại bơm hướng trục, bơm lùa có áp lực thấp nhưng lưu lượng lớn, rất ít khi dùng bơm áp lực cao vừa tốn kém lại ít hiệu quả. Trong những thập niên qua, nhà nước đã đầu tư rất mạnh về công tác thủy lợi, các kênh chính đã được qui hoạch và một phần đê bao chống lũ đều đã được thi công khá hoàn thiện, nông dân chỉ lo các kênh nhánh, kênh nội đồng. 6/10 Từ đó, các nông hộ dùng máy bơm gia đình, đa số là loại bơm hướng trục, động cơ vận hành dùng máy nổ là chính, chỉ các nông trường, trạm, trại hoặc tổ hợp tác sản xuất mới dùng bơm điện thuận lợi và có hiệu quả kinh tế hơn. Đa số nông hộ dùng máy nổ làm động cơ bơm nước, vì máy nổ rất cơ động, lại có thể liên hoàn làm nhiều việc khác ngòai bơm nước như: vận chuyển (tàu thuyền, kéo rơmóoc…), gắn lên máy đập lúa, chạy quạt cho máy sấy, kéo đinamô phát điện, vận hành máy xay xát nhỏ, v.v… 2.5.2 Máy phun thuốc - Máy bón phân Khoảng giữa khâu gieo cấy và thu hoạch, khâu chăm sóc lúa cũng rất quan trọng, nhưng ở Cần thơ do đa số là nông hộ nhỏ và vừa nên đến nay đại đa số dùng thủ công như: bón phân, làm cỏ, phun xịt thuốc bảo vệ thực vật hoặc diệt cỏ bằng thuốc hóa học thông thường bằng dụng cụ bơm xịt tay, chỉ có những nông trường lớn mới có máy phun xịt bằng động cơ. Đến nay, có nhiều loại máy bón phân được sử dụng trong sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là trong sản xuất lúa. Có loại dùng bón lót khi chưa gieo cấy lúc đang làm đất người ta dùng máy tung hoặc rải phân lân, phân hữu cơ trên mặt đồng khô rất thuận lợi. Nhưng khi bón phân đạm hoặc phân hỗn hợp NPK, DAP... cần bón đúng thời điểm theo chu kỳ sinh trưởng của cây lúa, bón trên đồng ruộng ngập nước nên phân bón thường bị bay hơi, cây lúa hấp thu không kịp bị xả trôi, v.v... theo tính toán của các nhà khoa học cho thấy mức độ hao hụt lên đến 30 – 40%. Do vậy, người ta dùng phân có bao hợp chất chậm tan hoặc nén phân này thành viên để có thể dùng máy dúi vào đất để cây lúa hấp thu dần, tránh hao hụt, tiết kiệm được lượng phân bón đáng kể. Công cụ này trước đây Viện nghiên cứu Lúa Quốc tế (IRRI) cũng đã nghiên cứu đưa vào sử dụng nhưng còn nhiều bất cập nên chưa được ứng dụng rộng rãi. 2.6 Cơ giới hóa trong thu hoạch lúa 2.6.1 Gặt xếp dải (rải hàng): Là loại máy thu hoạch có kết cấu tương đối gọn nhẹ do một người điều khiển. Máy có thể dùng bánh hơi trong trường hợp vận chuyển trên đường giao thông hoặc gặt trên nền đất khô (vụ Đông xuân) sẽ vận hành được dễ dàng hơn, trường hợp gặt lúa trên nền ruộng ướt, có sình lầy người ta thay bánh hơi bởi bánh lồng, tuy lái nặng hơn nhưng tránh được lầy lún. Máy gặt xếp dải chỉ thực hiện thao tác gặt và xếp thành dải (hàng), sau đó cần được thu gom, bốc vác, vận chuyển đến cho máy đập. Máy gặt xếp dải có ưu điểm: gọn, nhẹ, dễ chế tạo, dễ vận hành. Tỷ lệ làm rơi rụng lúa thấp, nông dân chấp nhận được. Vận hành dễ dàng trên các lô ruộng có diện tích nhỏ, giá máy thấp (khoảng 18- 20 triệu đồng) phù hợp với túi tiền nông dân. Năng suất thu hoạch mỗi ngày từ 1 – 1,5ha. Tuy vậy, máy cũng có một số nhược điểm như: bị hạn chế khi gặt sáng sớm rạ còn ẩm sương khó cắt rạ; gặp ruộng lúa đổ ngả quá máy khó gặt được. Hạn chế lớn nhất của máy gặt này là vấn đề điều chỉnh chiều cao cắt, nếu máy chỉ chiều cao cắt từ 20 – 25cm, gặp phải loại lúa thân cao sẽ cho mớ rơm quá dài, làm 7/10 khó khăn cho máy đập, đôi khi do dài quá máy đập bị rơm cuốn trống đập không đập được. Một nhược điểm khác là sau khi dùng máy này gặt, phải tốn công thu gom lúa mớ vận chuyển đến nơi máy đập khá vất vả trong khi hiện nay ở nông thôn đang thiếu công lao động. Để khắc phục nhược điểm này, hiện nay cơ sở Cơ khí ở Đồng tháp đã sản xuất ra máy gom đập lúa, có năng suất làm việc khoảng 3ha/ngày. Máy này phối hợp với 2 máy gặt xếp dải là tương đương với một máy GĐLH loại trung bình. Hiện nay, ở ĐBSCL có khoảng 3.400 máy gặt xếp dải. Do diện tích lô thửa ruộng lúa của nông hộ còn nhỏ hẹp, đường giao thông nông thôn còn nhiều hạn chế thì máy gặt xếp dải vẫn phát huy tác dụng tốt nếu giải quyết được một số nhược điểm như vừa được trình bày trên. Lúa sau khi gặt (gặt thủ công xếp thành mớ hoặc gặt máy xếp dải xếp thành hàng), được vận chuyển gom lại nơi đặt máy đập để ra hạt. Lúa mớ được cho vào máy đập, trong quá trình vận hành trống đập sẽ tách rời hạt lúa với rơm. Rơm được phóng ra ngoài theo cửa ra, hỗn hợp lúa, tạp chất sẽ qua sàng phân loại làm sạch. Hạt lúa ở cửa ra bên dưới có tỷ lệ sạch khá cao (96 – 98%) được cho vào bao bán ngay hoặc đem đi phơi sấy. 2.6.2 Máy gặt đập liên hợp (GĐLH): Là loại máy đa năng vừa gặt, vận hành lúa mớ vừa gặt lên cho vào bộ phận đập, làm sạch và cho ra hạt vào bao. Do vậy cấu tạo của máy rất phức tạp: vừa di chuyển trên địa hình không được thuận lợi (như mặt ruộng thường khi sình lầy, mặt đồng ít khi được bằng phẳng, qua nhiều bờ lô, kênh rạch, v.v...), thao tác gặt lúa, vận chuyển lúa mớ lên cho vào bộ phận đập, phóng rơm ra, có sàng làm sạch sơ bộ hạt thóc, cho vào bao hoặc thùng chứa trên máy. Do trong cùng một lúc máy phải làm nhiều công đoạn phức tạp như vậy trên địa hình khó khăn (như mặt ruộng sình lầy, ẩm ướt...) nên chất lượng vật liệu và công nghệ chế tạo máy GĐLH có yêu cầu đạt tiêu chuẩn cao mới đảm bảo máy hoạt động tốt. Máy GĐLH có những ưu điểm là: thu hoạch 1 giai đoạn, rút ngắn 3 công đoạn: cắt, thu gom, đập, do vậy tăng năng suất, giảm được công lao động đang thiếu hụt trong mùa vụ, thu hoạch nhanh, đảm bảo thời vụ. Nhờ rút ngắn 3 công đoạn trên vào thu hoạch 1 lần ( 3 trong 1) nên có thể giảm được hao hụt lúa lúc thu hoạch. Tuy vậy, máy này cũng có một số nhược điểm: khó vận hành trên các lô thửa nhỏ, mặt đồng ẩm ướt lầy thụt, đường giao thông kênh rạch, bờ phân lô nhiều nhiều hạn chế việc di chuyển của máy, khi gặt ở cánh đồng có thân lúa cao (lúa nếp ở AG) cũng gặp trỡ ngại khâu đập như trường hợp máy gặt xếp dải. Giá máy GĐLH đạt tiêu chuẩn còn khá cao (hiện nay máy chế tạo trong nước khoảng 200 triệu đồng, máy Trung Quốc từ 220 – 250 triệu đồng, máy Nhật trên 500 triệu đồng). Do nhu cầu nhu cầu cấp thiết trong thu hoạch lúa ở ĐBSCL, nhiều doanh nghiệp và cơ sở cơ khí địa phương cũng đã thiết kế, chế tạo ra nhiều kiểu, mẫu máy GĐLH. Từ năm 2006 đến nay, hàng năm Bộ nông nghiệp và PTNT có tổ chức bình tuyển đánh giá những máy gặt hiện có được tổ chức tại nông trường Sông Hậu (2006), Kiên giang (2007), Đồng tháp (2008), An giang (2009), Sóc Trăng 8/10 (2010) và Bình Định (2011). Qua những kỳ hội thi này đã mang lại thành công lớn trong trong quá trình triển khai cơ giới hoá trong thu hoạch lúa. Trong mỗi kỳ hội thi, các cơ sở cơ khí trong và ngoài nước có điều kiện học tập lẫn nhau để hoàn thiện và nâng cao chất lượng máy GĐLH của mình. Nhờ vậy, đến nay máy GĐLH mà trước đây tưởng chừng như không thể hoạt động ở vùng ruộng sình lầy sông nước ĐBSCL, nay đã làm việc rất tốt: gặt được lúa đổ ngả, vận hành được trên đất ướt, trời mưa của vụ lúa Hè Thu, giảm thất thu trong thu hoạch từ 4- 6% nay còn < 2%, giải quyết được công thu hoạch là công nặng nhọc nhất trong sản xuất lúa, máy hoạt động tốt chỉ trong 2 năm là có thể hoàn vốn. Qua hội thi, bà con nông dân dễ dàng chọn lựa những máy thích hợp với nhu cầu của m
Luận văn liên quan