Tổ chức doanh nghiệp - Đầu tư mạo hiểm

Giai đoạn khởi đầu của chu kỳ kinh doanh tiêu biểu rõ ràng mức độ cao nhất của rủi ro kinh doanh. Mức độ rủi ro kinh doanh cao có nghĩa là rủi ro tài chính đi kèm nên được giữ càng thấp càng tốt trong suốt giai đoạn này. Do đó, khi xét ở góc độ tài chính, cấu trúc vốn của công ty loại này thường có xu hướng không tài trợ bằng nợ bởi lẽ rủi ro kinh doanh được xác định là khá cao nên đã không cho phép công ty gia tăng thêm rủi ro tài chính nếu muốn giữ mức độ rủi ro của công ty ở một mức độ hợp lý. Vì vậy, tài trợ bằng vốn cổ phần là thích hợp nhất nhưng phát hành chứng khoán thì không thể thực hiện được do các nhà đầu tư thông thường sẽ không chấp nhận đầu tư vào cổ phần của các công ty này. Như vậy, công ty sẽ nhận được nguồn vốn từ đâu cho hoạt động kinh doanh của mình? Và vốn đầu tư mạo hiểm chính là lời giải cho bài toán nhu cầu tài chính của cácdoanh nghiệp, chỉ có các nhà đầu tư vốn mạo hiểm mới dám chấp nhận đầu tư vào mà thôi.

doc32 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2011 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tổ chức doanh nghiệp - Đầu tư mạo hiểm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Giai đoạn khởi đầu của chu kỳ kinh doanh tiêu biểu rõ ràng mức độ cao nhất của rủi ro kinh doanh. Mức độ rủi ro kinh doanh cao có nghĩa là rủi ro tài chính đi kèm nên được giữ càng thấp càng tốt trong suốt giai đoạn này. Do đó, khi xét ở góc độ tài chính, cấu trúc vốn của công ty loại này thường có xu hướng không tài trợ bằng nợ bởi lẽ rủi ro kinh doanh được xác định là khá cao nên đã không cho phép công ty gia tăng thêm rủi ro tài chính nếu muốn giữ mức độ rủi ro của công ty ở một mức độ hợp lý. Vì vậy, tài trợ bằng vốn cổ phần là thích hợp nhất nhưng phát hành chứng khoán thì không thể thực hiện được do các nhà đầu tư thông thường sẽ không chấp nhận đầu tư vào cổ phần của các công ty này. Như vậy, công ty sẽ nhận được nguồn vốn từ đâu cho hoạt động kinh doanh của mình? Và vốn đầu tư mạo hiểm chính là lời giải cho bài toán nhu cầu tài chính của cácdoanh nghiệp, chỉ có các nhà đầu tư vốn mạo hiểm mới dám chấp nhận đầu tư vào mà thôi. CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ VỐN MẠO HIỂM Từ trước đến nay các doanh nghiệp vẫn huy động các nguồn tài chính cần thiết cho hoạt động kinh doanh thông qua việc phát hành cổ phiếu, vay vốn ngân hàng… Những hình thức huy động vốn truyền thống đó cũng đã phát huy vai trò nhất định. Tuy nhiên, trong nền kinh tế phát triển mạnh mẽ như hiện nay, hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp cũng năng động và đa dạng hơn. Do vậy, các doanh nghiệp cần những phương thức huy động vốn mới nhanh chóng và hiệu quả hơn. Và vốn mạo hiểm ra đời từ đó. Mô hình đầu tư mạo hiểm bắt đầu từ giữa thập kỷ 80 tại Mỹ dành cho các doanh nghiệp công nghệ cao của tư nhân. Người Mỹ đã phát triển mạnh mẽ hình thức vốn mạo hiểm, đáp ứng một cách nhanh chóng và hiệu quả cho các dự án công nghệ cao của mình. Hiện nay, tại Mỹ đã hình thành một thị trường vốn mạo hiểm khổng lồ, với hàng chục nghìn nhà đầu tư mạo hiểm thường góp vốn vào các công ty hay quỹ đầu tư mạo hiểm, có khả năng tài trợ cho nhiều dự án, đặc biệt là những dự án nghiên cứu và phát triển công nghệ cao. Quỹ đầu tư mạo hiểm đã tạo được dấu ấn của mình trên nền kinh tế Mỹ và thế giới. Sau đó, mô hình đầu tư mạo hiểm đã lan dần ra châu Á và Việt Nam. Từ năm 1991, có một số quỹ đầu tư mạo hiểm hoạt động ở nước ta nhưng chỉ đến khi tập đoàn IDG chính thức vào cuộc 2004, thị trường này mới trở nên sôi động. Khái niệm: Vốn mạo hiểm: là khoản đầu tư do những tổ chức chuyên môn hoá rót vốn vào những doanh nghiệp mới thành lập, chưa niêm yết trên thị trường chứng khoán, có tốc độ tăng trưởng cao, rủi ro cao và thường sử dụng các công nghệ mới, hiện đại… đang cần vốn cổ phần để tài trợ cho phát triển sản phẩm hoặc tăng trưởng. Vốn mạo hiểm được cung cấp dưới nhiều hình thức khác nhau, trong đó điển hình nổi bật là việc tài trợ vốn thông qua các quỹ đầu tư mạo hiểm. Về bản chất, đó là một quỹ đầu tư nhưng mục tiêu hoạt động của họ là nhắm vào những dự án có độ rủi ro cao nhằm tìm kiếm những khoản lợi nhuận cao hơn mức thông thường. Tham gia vào quá trình này có 3 đối tượng chủ yếu: Nhà đầu tư: người bỏ vốn nhưng không trực tiếp quyết định đầu tư. Nhà tư bản mạo hiểm- người đứng ra huy động vốn, quản lý nó và trực tiếp quyết định nên đầu tư vào đâu nhằm mục đích sinh lợi tối đa. Các đối tượng nhận đầu tư: những công ty trẻ, những dự án về sản phẩm dịch vụ công nghệ mới đầy tiềm năng … Đặc điểm: Vốn đầu tư mạo hiểm là một trong 4 loại vốn đầu tư trực tiếp được dùng để đầu tư vào các công ty có sản phẩm hoặc nguồn thu nhập tiềm năng, nhưng chưa hoặc đang triển khai và thường các công ty này là những DN vừa và nhỏ. Thông thường, một nhà tư bản mạo hiểm không gắn bó với các đối tượng nhận đầu tư lâu dài, thường từ 3 đến 5 năm. Việc thu hồi vốn đầu tư của hoạt động này cũng có những đặc trưng như là thoát vốn bằng phương thức phát hành cổ phiếu ra công chúng (IPO), bán thương mại hoặc trong trường hợp không khả quan thì phương án mua lại được áp dụng. Qua đó, có thể thấy rằng môi trường hoạt động của vốn mạo hiểm không thể không có mặt của thị trường chứng khoán. Do đó, thị trường chứng khoán luôn có ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của vốn đầu tư mạo hiểm Các quỹ đầu tư tham gia vào việc kiểm soát và điều hành công ty. Họ tư vấn ở cấp chiến lược, hướng dẫn, hỗ trợ các công ty trong quản lý, xây dựng thương hiệu, phát triển thị trường... Vì vậy họ có thể gặp rủi ro, bị mất khoản đầu tư nếu công ty bị phá sản. Tuy nhiên, điều này ít xảy ra và họ thường đạt tỷ suất lợi nhuận từ 35- 50%. Do tính chất "mạo hiểm" trong hoạt động đầu tư, các chuyên gia quản lý quỹ đầu tư mạo hiểm thường tiến hành rất kỹ các việc sàng lọc hay thẩm định đầu tư nhằm tìm ra các công ty tiềm năng để đầu tư. Việc thẩm định đầu tư này được tiến hành trên tất cả các mảng của hoạt động kinh doanh, từ việc xem xét đội ngũ lãnh đạo, công nghệ cho đến mô hình kinh doanh. Các giai đoạn thực hiện đầu tư mạo hiểm: Bước 1: Xem xét và thẩm định các dự án đầu tư. Các quỹ đầu tư sẽ tiến hành nhiệm vụ xem xét và thẩm định dự án đầu tư rất kỹ trước khi quyết định đầu tư vào doanh nghiệp. Đó là thẩm định tỉ lệ rủi ro, vốn rút để tái đầu tư, mức độ lợi nhuận… Trên thực tế ở Việt Nam, các quỹ đầu tư mạo hiểm chấp nhận tỉ lệ rủi ro thấp nên thường tìm đến với các doanh nghiệp đã có tên tuổi và uy tín trên thị trường. Bước 2: Thực hiện đầu tư, rót vốn. Sau khi ký hợp đồng hợp tác, các quỹ đầu tư mạo hiểm tiến hành đầu tư, rót vốn vào doanh nghiệp. Quá trình rót vốn chia làm 5 giai đoạn, 3 giai đoạn đầu có mức độ rủi ro cao hơn 2 giai đoạn sau. Không chỉ rót vốn, quỹ còn hỗ trợ, tư vấn cho doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh như xây dựng năng lực, mở thị trường, tạo thương hiệu… 5 giai đoạn rót vốn: Tài trợ vốn mồi/ươm tạo: giúp doanh nghiệp để phát triển ý tưởng sáng tạo. Tài trợ khởi động: giúp phát triển sản phẩm và hoạt động tiếp thị khởi đầu. Tài trợ giai đoạn đầu: giúp doanh nghiệp sản xuất hàng hoá và tung ra thị trường. Tài trợ mở rộng sản xuất: giúp doanh nghiệp mở rộng sản xuất, thị trường, nâng cấp sản phẩm, xây dựng cơ cấu sở hữu hợp lý… Tài trợ tăng tốc: giúp doanh nghiệp thâm nhập sâu vào thị trường, tăng tốc hoạt động kinh doanh, tạo sản phẩm mới… Bước 3: Kết thúc đầu tư, hay thu hồi vốn. Các khoản đầu tư được thu hồi qua 4 kênh chính là: Chứng khoán bán cho công chúng lần đầu, bán cổ phần cho nhà đầu tư khác, bán lại cổ phần cho doanh nghiệp và bán doanh nghiệp cho doanh nghiệp khác. Quy trình hoạt động:  Entrepreneur thường được hiểu là doanh nhân, là ông chủ của một công ty hoặc cũng có thể được hiểu là một người đứng đầu một dự án nào đó trong một tập đoàn. Venture Capitalists có nhiều quyền lực, quan hệ và có nhiều kiến thức chuyên môn, có vai trò là cầu nối giữa các nhân vật Entrepreneur, Investor và Bank lại với nhau. Venture Capitalists lấy ý tưởng từ Entrepreneur, mượn tiền từ nhà băng và thu hút thêm vốn đầu tư của các investor khác sau đó cung cấp tiền đố lại cho Entrepreneur. Các điều kiện để nhận được tài trợ từ vốn đầu tư mạo hiểm: Thông thường các chuyên gia quản lý quỹ đầu tư mạo hiểm thường xét những quy tắc cơ bản để đánh giá mức độ hấp dẫn của một dự án đầu tư. Khi đánh giá công ty và xét duyệt bản kế hoạch kinh doanh, những khía cạnh cơ bản sau đây sẽ được các chuyên gia quản lý quỹ đầu tư mạo hiểm tập trung xem xét: Stt  Tiêu chí  Yêu cầu   1  Đội ngũ lãnh đạo  Là những người nắm tỷ lệ sở hữu lớn, có tâm huyết với sự phát triển của công ty. Họ phải là những người có năng lực , kinh nghiệm, được chứng minh thông qua những thành tích trong việc điều hành công việc kinh doanh của công ty.   2  Sản phẩm dịch vụ  Độc đáo, mang lại lợi ích cho khách hàng, có sự khác biệt so với sản phẩm cùng loại, có triển vọng phát triển lâu dài trong tương lai… Đặc biệt, sản phẩm dịch vụ phải được công nhận bản quyền, bằng phát minh sáng chế…   3  Mô hình kinh doanh  Mô hình hiệu quả, tính toán rõ ràng được mức lợi nhuận và hoạch định các chiến lược cho dịch vụ, sản phẩm của mình trong các giai đoạn…   4  Thị trường  Có kế hoạch thăm dò thị trường, xác định nhu cầu, mức tiêu thụ, khách hàng tiềm năng và đối thủ cạnh tranh … Từ đó xác định thị trường mục tiêu, đề ra chiến lược vượt trội đối thủ, có phương hướng mở rộng thị trường trong tương lai.   5  Quản lý tài chính  Báo cáo tài chính minh bạch, các tính toán về lợi nhuận, kế hoạch quản lý, sử dụng nguồn tài chính hiệu quả…   6  Pháp lý  Chuẩn bị chu đáo về các điều khoản đầu tư giữa hai bên, tránh những tranh chấp xảy ra như sự tham gia của chuyên gia quản lý quỹ đầu tư trong hội đồng quản trị, tỷ lệ lợi nhuận…   Tất cả các yếu tố trên đều quan trọng, nhưng đối với các chuyên gia quản lý quỹ đầu tư mạo hiểm thì yếu tố đội ngũ lãnh đạo và nguồn nhân lực trong công ty vẫn là yếu tố quan trọng nhất. Những ưu thế của vốn mạo hiểm so với các nguồn vốn khác: Các doanh nghiệp trong giai đoạn khởi sự chỉ mới có ý tưởng là “tài sản” chính yếu cũng có thể nhận được tài trợ vốn mạo hiểm mà không phải đáp ứng các yêu cầu về tài sản đảm bảo cũng như các quy định trong thẩm định khác. Các công ty được đầu tư không cần một khoản đặt cọc hay ký quỹ nào. Việc rót vốn của các quỹ đầu tư mạo hiểm dựa vào sự tin tưởng vào việc tạo dựng thành công doanh nghiệp của người sáng lập và đội ngũ giám đốc công ty. Công ty còn nhận được sự tư vấn ở cấp chiến lược hướng dẫn họ bước sang giai đoạn tăng trưởng kế tiếp. Đây là một lợi thế rất lớn bởi lẽ những công ty này vốn còn rất “trẻ” trong công tác quản lý điều hành. Các nhà đầu tư và các doanh nhân khởi nghiệp thống nhất với nhau về mục tiêu vì hình thức đầu tư mạo hiểm là nắm giữ cổ phần, tham gia chia sẻ thành công nếu công ty phát đạt, song cũng gánh chịu rủi ro nếu thất bại. CHƯƠNG II : VỐN ĐẦU TƯ MẠO HIỂM TẠI VIỆT NAM 1. Vài nét về các Công ty quản lý quỹ và các Quỹ đầu tư mạo hiểm nước ngoài chủ yếu tại Việt Nam : Theo thống kê của Công ty quản lý quỹ chứng khoán VN (VFM), hiện có gần 30 quỹ đầu tư nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam với tổng vốn rót vào nội địa khoảng 2 tỷ USD. Hiện nay, hàng loạt quỹ đầu tư nước ngoài đang đổ vốn vào thị trường chứng khoán Việt Nam. Nhiều công ty quản lý quỹ đầu tư tập chung chính vào thị trường Việt Nam như Vina Capital, Mekong Capital, Dragon Capital, IDG… ( Một số công ty Quản lý quỹ chủ yếu : ( Dragon Capital : Dragon Capital là điển hình về sự kiên trì “bám trụ” ở VN. Đây là công ty quản lý quỹ thành lập ở Anh năm 1994. Năm 1997-1998, khi cuộc khủng hoảng tài chính khu vực xảy ra, nhiều quỹ đầu tư đã ra đi. Nhưng Dragon Capital thì ở lại, và đã thành công. Dragon Capital lập Quỹ Vietnam Enterprise Investment Limited (VEIL) năm 1995. Đây là quỹ đầu tư nước ngoài lớn nhất tại Việt Nam với tổng tài sản hiện nay ước tính khoảng 1 tỷ USD. Năm 2003, Dragon Capital liên doanh với Sacombank để thành lập VietFund Mangagement (VFM), công ty quản lý quỹ đầu tiên tại Việt Nam. Hiện VFM đang quản lý Quỹ đầu tư chứng khoán Việt Nam (VF1).  Cuối năm 2004, Dragon Capital lại thành lập quỹ thứ hai tại Việt Nam là Vietnam Growth Fund Limited (VGF) hiện có tổng vốn 500 triệu USD. Sang năm 2005, Dragon lập thêm quỹ Vietnam Dragon Fund Limited (VDF) có tài sản hiện tại là 340 triệu USD. Quỹ đầu tư mới nhất của hãng này là Vietnam Resource Investment (Holdings) Limited (VRI), từ 2007. Đây là quỹ đầu tiên đầu tư vào các công ty kinh doanh về tài nguyên thiên nhiên. ( VinaCapital : Công ty Quản lý Quỹ VinaCapital bắt đầu hoạt động tại Việt Nam từ tháng 11/2003 với việc ra đời quỹ đầu tư tư nhân Vietnam Opportunity Fund (VOF). VOF là quỹ do một số tổ chức tài chính lớn thành lập để đầu tư vào Việt Nam. Từ giữa năm 2006, Công ty Quản lý quỹ VinaCapital khai trương Quỹ bất động sản VinaLand, nhưng số tiền mà các nhà đầu tư nước ngoài góp vào quỹ đã lên tới 65 triệu đô la Mỹ, vượt mức dự kiến 15 triệu đô la Mỹ. Ngoài VinaLand, VinaCapital đang nỗ lực giải ngân nốt số tiền còn lại chừng 50 triệu đô la Mỹ trong tổng số 171 triệu đô la Mỹ của Quỹ Vietnam Opportunities Fund (VOF) với hướng đầu tư chính của VOF tiếp tục là cổ phiếu trên thị trường OTC và địa ốc. Ngay từ đầu năm 2007, VinaCapital đã lên kế hoạch thành lập mới một quỹ đầu tư bất động sản với tổng vốn đầu tư lên tới 200 triệu USD. Ngày 5/7/2007, Vina Captial đã chính thức đưa Quỹ Cơ sở hạ tầng Việt Nam (Vietnam Infrastructure Limited–VIL) lên niêm yết trên sàn chứng khoán thứ cấp London (Alternative Investment Market – AIM). Đây là quỹ đầu tiên giao dịch trên thị trường AIM tập trung vào các lĩnh vực hạ tầng cơ sở then chốt của Việt Nam, bao gồm: năng lượng, vận tải, nước và viễn thông. Sự kiện này đã nâng số quỹ đầu tư mà Vina Capital mở tại Việt Nam lên thành bốn quỹ với tổng số vốn đầu tư gián tiếp đã thu hút vào Việt Nam lên tới 1,8 tỷ USD. VinaCapital cũng đang đẩy mạnh đầu tư vào các công ty công nghệ. Công ty quản lý quỹ này đã liên doanh với Tập đoàn Draper Fisher Jurveton (DFJ) - tập đoàn đầu tư mạo hiểm với tổng vốn đầu tư trên 3,5 tỷ USD để lập quỹ đầu tư DFJ VinaCapital với tổng số vốn đầu tư ban đầu là 50 triệu USD. ( Mekong Capital : Mekong Capital là công ty quản lý quỹ đầu tư tập trung vào Việt Nam do các cá nhân có kinh nghiệm về mảng quản lý đầu tư cả ở Việt Nam và quốc tế thành lập năm 2001. Phần lớn các vị trí cao cấp trong công ty là do người Việt Nam nắm giữ và cũng là cổ đông của công ty. Công ty bắt đầu hoạt động từ năm 2002 tại Việt Nam với việc thành lập Quỹ đầu tư Mekong Enterprise Fund I (MEF) với tổng số vốn đầu tư 18,5 triệu USD. Mekong Capital chọn những công ty thuộc khu vực tư nhân ở các địa phương với quy mô nhỏ làm đối tác. Đến nay, quỹ đã đầu tư hết vào 10 công ty Việt Nam như: Công ty Xây dựng và Kiến trúc AA, Công ty tin học Lạc Việt, Công ty nhựa Tân Đại Hưng, Công ty gỗ Đức Thành. Ngày 5/6/2006, công ty đã chính thức khai trương quỹ đầu tư cổ phần thứ 2 (Mekong Enterprise Fund II) tại TP.HCM. Quỹ có tổng vốn 50 triệu USD, tập trung đầu tư vào các công ty tư nhân Việt Nam phục vụ cho thị trường trong nước, hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất, phân phối và quảng bá thương hiệu (vốn đầu tư trung bình cho mỗi dự án là 3 triệu USD). Cũng từ giữa năm 2006, Công ty đã đẩy mạnh đầu tư gần hết số vốn 18,5 triệu đô la Mỹ của Mekong Enterprise Fund vào các doanh nghiệp cổ phần. Tháng 06/2007 thành lập Vietnam Azalea Fund Limited (VAF) là quỹ đầu tư với trị giá 100 triệu đô-la Mỹ tập trung thực hiện các khoản đầu tư thiểu số vào các phân khúc trước niêm yết và đã niêm yết của thị trường đầu tư cổ phần tư nhân. Quỹ nhắm đến các công ty sẽ dẫn đầu Việt Nam trong tương lai, bao gồm các công ty tư nhân và công ty nhà nước cổ phần hóa. Quỹ VAF khác với những quỹ đầu tư khác tại Việt Nam trên những phương diện sau: + Quỹ đầu tư vào các công ty hàng đầu tại Việt Nam với tiềm năng sẽ trở thành blue-chip trong những lĩnh vực tạo giá trị được kiểm chứng vào thời điểm Quỹ bán ra khoản đầu tư. + Quỹ cam kết đóng góp giá trị gia tăng cho những công ty mà Quỹ đầu tư, bao gồm tư vấn Quản trị Doanh nghiệp, tư vấn truyền thông quan hệ với các nhà đầu tư, hỗ trợ giai đoạn chuẩn bị IPO, giới thiệu cơ hội kinh doanh, mua bán sáp nhập, và hỗ trợ tư vấn chiến lược cần thiết khác; + Quỹ chỉ tập trung đầu tư vào những công ty có đội ngũ quản lý mạnh và cam kết liên tục củng cố đội ngũ quản lý của họ; + Quỹ có hệ thống tiêu chí nghiêm ngặt cho việc lựa chọn các khoản đầu tư. Quỹ chỉ đầu tư vào những công ty xuất sắc mà ở đó sự kết hợp của các bên có khả năng trở thành những khoản đầu tư thành công; + Quỹ đầu tư với giá giảm mạnh so với bội số dự kiến vào thời điểm Quỹ bán ra khoản đầu tư. ( Indochina Capital: Indochina Capital đã hoạt động ở Việt Nam 15 năm Trong 15 năm qua, công ty đã tiến hành đầu tư 1 tỷ USD vào các dự án địa ốc, trong đó tiêu biểu là các dự án như Khách sạn Furama (Đà Nẵng), Saigon Center (Tp.HCM), 63 Lý Thái Tổ (Hà Nội)... và nhiều dự án địa ốc khác do công ty đầu tư chính; và góp vốn chung với một công ty khác đầu tư dự án khu du lịch Nam Hải (Đà Nẵng). Ngoài lĩnh vực bất động sản, công ty còn đầu tư vào thị trường chứng khoán kể từ khi thị trường chứng khoán bắt đầu mở cửa cho đến nay và tổng cộng công ty đã đầu tư khoảng 50 triệu USD vào thị trường chứng khoán. Hiện công ty đang quản lý số vốn khá lớn của các tổ chức tài chính và các cá nhân nhà đầu tư nước ngoài. Năm 2006, Indochina Capital cũng đã thành lập hai quỹ, một địa ốc với 42 triệu đô la Mỹ và một quỹ chứng khoán với 50 triệu đô la Mỹ. Để phục vụ cho mục tiêu lâu dài trên thị trường Việt Nam, Indochina Capital đã thành lập Quỹ Indochina Capital Holding Limited và thực hiện đợt phát hành và niêm yết trên thị trường chứng khoán London với quy mô ban đầu là 500 triệu USD (3/2007). Sự kiện này ngay lập tức đã thu hút sự quan tâm của nhà đầu tư nước ngoài và trong đợt phát hành lần đầu Indochina Capital Vietnam Holding Limited dự định thu hút khoảng 300-350 triệu USD nhưng đã nhận được sự quan tâm rất lớn của các nhà đầu tư và đạt được con số 500 triệu USD. ( Một số quỹ đầu tư mạo hiểm chủ yếu: ( Prudential: Quỹ đầu tư Prudential (PRUBF1) do Công ty Quản lý Quỹ đầu tư Prudential Việt Nam thành lập năm 2006. Trong các quỹ đầu tư của nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam hiện nay, Prudential được xem là quỹ đầu tư lớn nhất với quy mô quỹ vào khoảng 500 triệu USD. Tuy nhiên, 65% vốn của quỹ này dành để đầu tư vào trái phiếu Chính phủ, chỉ có khoảng 35% còn lại tương đương với khoảng 175 triệu USD là dành đầu tư vào tài sản vốn và thị trường chứng khoán. ( Vietnam Enterprise Investment Fund (VEIL) : VEIL là quỹ đầu tư nước ngoài duy nhất có thời gian hoạt động lâu nhất tại Việt Nam. Quỹ được thành lập vào tháng 7-1995 với tổng số vốn huy động ban đầu là 35 triệu USD, và trong hơn 10 năm hoạt động đó VEIL đã vượt qua khủng hoảng kinh tế khu vực và nâng số vốn huy động lên đến hơn 109 triệu USD. Hiện nay, VEIL là quỹ đứng thứ hai tại Việt Nam về mặt quy mô vốn huy động nhưng lại đứng đầu về lượng vốn hóa thị trường. Nguồn vốn đầu tư của VEIL được huy động từ các nhà đầu tư có tổ chức nước ngoài chủ yếu từ Anh, Mỹ và Canada. Bên cạnh đó, VEIL có một phần vay từ tổ chức tài chính quốc tế IFC trực thuộc Ngân hàng Thế giới WorldBank. VEIL là quỹ đóng và được niêm yết trên thị trường chứng khoán (TTCK) NCB ở Ailen. Quỹ VEIL được thành lập bởi Công ty quản lý quỹ Dragon Capital với mục tiêu đầu tư vào các công ty tư nhân, doanh nghiệp nhà nước đang cổ phần hóa, công ty cổ phần niêm yết hoặc chưa niêm yết và các công ty có vốn đầu tư nước ngoài mà nguồn doanh thu chủ yếu từ Việt Nam. VEIL ưu tiên đầu tư vào 5 ngành chính là tài chính ngân hàng, cơ sở hạ tầng, bưu chính - viễn thông, du lịch, khai thác khoáng sản và hàng tiêu dùng. VEIL tập trung đầu tư vào doanh nghiệp có quy mô vốn từ 2 - 3 triệu USD trở lên và đặc biệt không đầu tư vào các công ty được quản lý bởi gia đình. Trong năm 2005, VEIL được xem là quỹ có kết quả hoạt động tốt nhất tại Việt Nam khi giá trị tài sản ròng trên một cổ phiếu quỹ tăng 37,1% so với các năm trước và giá của một đơn vị quỹ VEIL được giao dịch cao hơn gần 11% giá trị tài sản ròng. ( Vietnam Growth Fund (VGF) : Quỹ VGF cũng được quản lý bởi Dragon Capital và thành lập vào tháng 10-2004 với số vốn huy động ban đầu là 60 triệu USD. Cũng như VEIL, VGF là quỹ đóng và được niêm yết ở TTCK NCB ở Ailen. VGF có tốc độ tăng vốn khá nhanh so với VEIL, chỉ sau hơn một năm hoạt động quy mô vốn của quỹ đã tăng 66,7% đạt 100 triệu USD. Mục tiêu đầu tư của VGF là nhằm vào những công ty có tốc độ tăng trưởng nhanh và thuộc những ngành đầu tư như VEIL. VGF đặc biệt không đầu tư vào thị trường bất động sản. Giá trị tài sản ròng trên một cổ phiếu quỹ và giá giao dịch của VGF vào cuối năm 2006 tăng 15% và 17,6% so với năm trước. ( Vietnam Dragon Fund (VDF) : Dragon Capital cho biết mới vừa thành lập Quỹ VDF vào đầu năm 2006 với số vốn đầu tư ban đầu là 35 triệu USD. Quỹ VDF được huy động vốn bởi các nhà đầu tư Nhật Bản. Đây cũng là một quỹ đóng và được niêm yết ở TTCK NCB. Mục tiêu đầu