Ngân hàng Thương mại là tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất- đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Ngân hàng Thương mại ra đời, tồn tại và phát triển là một tất yếu khách quan đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế hàng hoá.
- Ngân hàng Thương mại là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư.
Trong xã hội, tại một thời điểm bất kỳ luôn xảy ra tình trạng có : (1) các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập và vì thế họ là những người cần bổ sung vốn và (2) các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi cho hành hoá dịch vụ, do vậy họ có tiền để tiết kiệm. Sự tồn tại hai loại các nhân và tổ chức trên là hoàn toàn độc lập với ngân hàng. Điều đó tất yếu là tiền sẽ chuyển từ nhóm (2) sang nhóm (1) nếu cả hai cùng có lợi. Sự vận động đó hình thành quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp. Quan hệ trực tiếp xuất hiện khi các cá nhân và tổ chức giữa hai nhóm trực tiếp gặp và thả thuận các điều kiện với nhau. Loại quan hệ này ra đời từ rất lâu và tồn tại cho đến ngày nay. Tuy nhiên, nó bị nhiều hạn chế do không phù hợp về qui mô, thời gian, không gian Đó là điều kiện nảy sinh quan hệ gián tiếp được thực hiện bởi các trung gian tài chính. Trung gian tài chính giải quyết được những mâu thuẫn của tín dụng trực tiếp, làm tăng thu nhập cho cả người tiết kiệm và đầu tư nhờ vào cơ chế hoạt động của mình.
Ngày nay, các lý thuyết hiện đại đều giải thích sự tồn tại và phát triển của các ngân hàng bằng cách chỉ ra sự không hoàn hảo trong hệ thống tài chính nói chung và trên thị trường tài chính nói riêng.
-Tạo phương tiện thanh toán
Trong điều kiện phát triển thanh toán qua ngân hàng, bản thân mỗi ngân hàng có thể tạo ra phương tiện thanh toán bằng việc cho vay đối với khách hàng . Toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng tạo phương tiện thanh toán nhờ vào các khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này đến ngân hàng khác trên cơ sở cho vay.
- Trung gian thanh toán
Ngày nay, ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất ở hầu hết các quốc gia nhờ vào hàng loạt các dịch vụ thanh toán thuận tiện, tiết kiệm như: sec, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, thư tín dụng
Trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, Ngân hàng Thương mại là một nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, là công cụ quản lý của nhà nước và thực hiện chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương.
72 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1735 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tổ chức trang bị một cách đầy đủ cơ sở vật chất phục vụ công tác thẩm định và phân tích rủi ro, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương I
Lý luận chung về thẩm định dự án
trong
hoạt động cho vay tại ngân hàng
I.Tổng quan về ngân hàng thương mại
1.1Khái niệm, chức năng và vai trò của Ngân hàng Thương mại.
Ngân hàng Thương mại là tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất- đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Ngân hàng Thương mại ra đời, tồn tại và phát triển là một tất yếu khách quan đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế hàng hoá.
- Ngân hàng Thương mại là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư.
Trong xã hội, tại một thời điểm bất kỳ luôn xảy ra tình trạng có : (1) các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập và vì thế họ là những người cần bổ sung vốn và (2) các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi cho hành hoá dịch vụ, do vậy họ có tiền để tiết kiệm. Sự tồn tại hai loại các nhân và tổ chức trên là hoàn toàn độc lập với ngân hàng. Điều đó tất yếu là tiền sẽ chuyển từ nhóm (2) sang nhóm (1) nếu cả hai cùng có lợi. Sự vận động đó hình thành quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp. Quan hệ trực tiếp xuất hiện khi các cá nhân và tổ chức giữa hai nhóm trực tiếp gặp và thả thuận các điều kiện với nhau. Loại quan hệ này ra đời từ rất lâu và tồn tại cho đến ngày nay. Tuy nhiên, nó bị nhiều hạn chế do không phù hợp về qui mô, thời gian, không gian… Đó là điều kiện nảy sinh quan hệ gián tiếp được thực hiện bởi các trung gian tài chính. Trung gian tài chính giải quyết được những mâu thuẫn của tín dụng trực tiếp, làm tăng thu nhập cho cả người tiết kiệm và đầu tư nhờ vào cơ chế hoạt động của mình.
Ngày nay, các lý thuyết hiện đại đều giải thích sự tồn tại và phát triển của các ngân hàng bằng cách chỉ ra sự không hoàn hảo trong hệ thống tài chính nói chung và trên thị trường tài chính nói riêng.
-Tạo phương tiện thanh toán
Trong điều kiện phát triển thanh toán qua ngân hàng, bản thân mỗi ngân hàng có thể tạo ra phương tiện thanh toán bằng việc cho vay đối với khách hàng . Toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng tạo phương tiện thanh toán nhờ vào các khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này đến ngân hàng khác trên cơ sở cho vay.
- Trung gian thanh toán
Ngày nay, ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất ở hầu hết các quốc gia nhờ vào hàng loạt các dịch vụ thanh toán thuận tiện, tiết kiệm như: sec, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, thư tín dụng…
Trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, Ngân hàng Thương mại là một nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, là công cụ quản lý của nhà nước và thực hiện chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương.
1.2 Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng Thương mại
Ngày nay, Ngân hàng Thương mại ngày càng đa dạng hoá các hoạt động của mình bằng việc đưa ra nhiều loại dịch vụ mới mẻ. Tuy nhiên, nhìn chung một Ngân hàng Thương mại thường thực hiện 3 hoạt động cơ bản sau:
+ Hoạt động huy động vốn
+ Hoạt động cho vay đầu tư
+ Hoạt động trung gian khác
Đây là 3 hoạt động cơ bản của Ngân hàng Thương mại, chúng có quan hệ chặt chẽ – hỗ trợ nhau. Để có thể cho vay đầu tư, Ngân hàng phải huy động tiền từ các cá nhân, tổ chức kinh tế. Đồng thời với vai trò là một trung gian tài chính, các Ngân hàng cung cấp cá dịch vụ khác cho khách hàng: thanh toán, tư vấn, bảo lãnh…, qua đó Ngân hàng vừa hỗ trợ cho hoạt động huy động vốn và cho vay có hiệu quả hơn vừa tạo thêm thu nhập.
Hoạt đông huy động vốn
Để bất đầu hoạt động, Ngân hàng phải có một lượng vốn nhất định. Số vốn này do các chủ Ngân hàng đóng góp và được bổ sung trong quá trình hoạt động hoặc được hình thành từ các quỹ. Ngoài ra các khoản vay trung và dài hạn của Ngân hàng Thương mại có khả năng chuyển đổi thành vốn cổ phần có thể được coi là một bộ phận vốn chủ sở hữu của ngân hàng. Tuy nhiên nguồn vốn chính của các Ngân hàng Thương mại là vốn huy động từ các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế. Trước kia, các Ngân hàng Thương mại chủ yếu nhận tiền gửi từ người gửi tiền, ngày nay do sự cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường, các Ngân hàng Thương mại đưa ra rất nhiều hình thức khác nhau để huy động vốn nhằm đảm bảo và mở rộng hoạt động của mình. Ngân hàng nhận được một số vốn lớn thông qua việc cung cấp các dịch vụ như: tài khoản thanh toán, tài khoản tiền gửi có kỳ hạn, chứng chỉ tiền gửi…Bên cạnh đó, khi cần vốn cho nhu cầu thanh khoản hay cho vay đầu tư, các Ngân hàng Thương mại có thể đi vay từ Ngân hàng Trung ương, từ các Ngân hàng Thương mại khác hoặc vay trên thị trường tài chính trong nước và quốc tế. Ngoài vốn tự có, vốn huy động, vốn đi vay, nguồn vốn Ngân hàng Thương mại còn bao gồm một số nguồn khác như: nguồn uỷ thác, nguồn trong thanh toán và các khoản nợ như thuế chưa nộp, lương chưa trả … - nhưng thường chiếm tỷ trọng nhỏ.
Huy động vốn là hoạt động mà Ngân hàng phải bỏ ra chi phí như chi phí giao dịch chi, chi phí trả lãi tiền gửi, tiền vay và các chi phí khác. Để bù đắp những chi phí này, các Ngân hàng Thương mại phải tiến hành hoạt động cho vay đầu tư và các hoạt động trung gian khác nhằm đem lại thu nhập cho Ngân hàng.
Hoạt động trung gian:
Là một trung gian tài chính. Ngân hàng Thương mại tực hiện các hoạt động trung gian, dịch vụ Ngân hàng, phi Ngân hàng như: thanh toán, bảo quản tài sản, bảo lãnh, tư vấn, uỷ thác, chuyển tiền, …Những hoạt động này đem lại cho Ngân hàng phí dịch vụ. Trước đây , do hoạt động này còn hạn chế nên thu nhập mang lại chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng thu nhập của Ngân hàng. Hiên nay cùng với sự phát triển của nền kinh tế, các Ngân hàng cung cấp ngày càng nhiều các dịch vụ hữu ích, thuận tiện và an toàn. Và vì vậy khoản thu từ phí của hoạt động trung gian có xu hướng tăng lên. Không những tạo thêm thu nhập, hoạt động trung gian còn tạo điều kiện mở rộng các hoạt động còn lại của Ngân hàng nhờ vào mạng lưới khách hàng đông đảo.
Hoạt động cho vay
Ngân hàng sử dụng vốn huy động được để thực hiện các khoản cho vay hoặc đầu tư qua đó hình thành nên những tài sản cơ bản của Ngân hàng. Đây luôn là hoạt động quan trọng bậc nhất mang lại thu nhập chủ yếu và quyết định tới sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng.
Hoạt động cho vay có thể phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau, Ngân hàng thực hiện phân loại các khoản cho vay để có phương pháp quản lý thích hợp.
a.Theo thời hạn sử dụng tiền vay
+ Cho vay
- Ngắn hạn: không quá 12
-Trung hạn: từ 12 tháng đến 60 tháng
- Dài hạn: 60 tháng trở lên
+ Cho vay không kỳ hạn: thời gian sử dụng tiền vay không xác định cụ thể và ghi trong hợp đồng.
Việc phân loại cho vay theo thời gian giúp cho các Ngân hàng xác định được thời gian hoàn vốn của doanh nghiệp, tính toán một cách hợp lý để sử dụng nguồn vốn và trên cơ sở đó có kế hoạch huy động vốn phù hợp với thời gian cho vay nhằm đảm bảo cho vay đối với các khách hàng khác.
b. Theo ngành kinh tế
Căn cứ vào đặc điểm sản xuất kinh doanh của ngành kinh tế có thể phân loại:
+ Cho vay đối với ngành công nghiệp
+ Cho vay đối với ngành nông nghiệp
+ Cho vay đối với ngành thương mại và dịch vụ
Việc phân loại này giúp Ngân hàng tính toán được mức độ rủi ro cảu từng lĩnh vực cho vay, cân đói được nguồn vốn cho vay, cũng như xây dựng ra những quy định cho vay thích hợp đối với từng ngành nghề kinh tế, xây dựng chính sách cho vay.
c. Theo tính chất đảm bảo tiền vay
+ Cho vay có bảo đảm: Ngân hàng nắm giữ các tài sản của người vay với mục đích để bù đắp khoản tiền vay nếu người vay không trả được
+ Cho vay có bảo đảm: Ngân hàng dựa vào lòng tin, sự tín nhiệm đối với khách hàng truyền thống và sự bảo đảm không được đặt ra.
d. Theo phương thức hoàn trả tiền vay
+ Cho vay hoàn trả một lần: Là khoản vay được trả một lần cả gốc lẫn lãi khi khoản vay đó đến hạn
+ Khoản vay hoàn trả nhiều lần
e. Theo nguồn gốc phát sinh các khoản cho vay
+ Cho vay trực tiếp: Ngân hàng ký hợp đồng trực tiếp với khách hàng và phát tiền vay cho khách hàng.
+ Cho vay gián tiếp: Ngân hàng cho khách hàng vay thông qua một tổ chức tín dụng nào đó .
Tại các Ngân hàng Thương mại hiện nay, cho vay theo dự án là hình thức phổ biến, chiếm một tỷ trọng khá lớn trong tổmg số các hình thức cho vay của Ngân hàng. Đây là hình thức cho vay với số vốn lớn, thời hạn dài và nhiều biến động. Với hình thức này Ngân hàng sẽ dễ dàng hơn trong việc kiểm tra các khoản vay cũng như mục đích sử dụng khoản vay của khách hàng. Và nếu một dự án tốt, Ngân hàng sẽ có thu nhập cao, bảo đảm an toàn vốn. Vấn đề đặt ra với chính Ngân hàng là làm sao xác định được đâu là dự án tốt, bằng cách nào xác định được những dự án đảm bảo thanh toán cả gốc và lãi cho Ngân hàng.
1.3 Quy trình phân tích tín dụng
Tín dụng là quan hệ vay mượn, gồm cả cho vay và đi vay. Tuy nhiên khi gắn tín dụng với chủ thể Ngân hàng thì tín dụng ngân hàng chỉ bao hàm nghĩa Ngân hàng cho vay.
Để chuẩn hoá quá trình tiếp xúc, phân tích khách hàng, cho vay và thu nợ, các Ngân hàng thương mại đặt ra qui trình phân tích tín dụng. Đó là các bước nội dung công việc mà cán bộ, các phòng ban liên quan trong Ngân hàng phải thực hiện khi tài trợ cho khách hàng. Nhìn chung quy trình này gồm các bước sau:
- Phân tích trước khi cấp tín dụng:
Đây là bước quan trọng nhất, quyết định chất lượng của phân tích tín dụng. Nội dung chủ yếu là thu thập và xử lý các thông tin liên quan đến khách hàng bao gồm năng lực sử dụng vốn vay và uy tín, khả năng tạo ra lợi nhuận và nguồn ngân quỹ, quyền sở hữu các tài sản và các điều kiện kinh tế khác có liên quan đến người vay.
- Xây dựng và ký kết hợp đồng tín dụng:
Hợp đồng tín dụng là văn bản viết ghi lại thoả thuận giữa người nhận tài trợ ( khách hàng) và Ngân hàng, với nội dung chủ yếu là Ngân hàng cam kết cấp cho khách hàng một khoản tín dụng ( hoặc hạn mức tín dụng ) trong một khoảng thời gian với lãi suất nhất định. Hợp đồng tín dụng là văn bản mang tính pháp luật xác định quyền và nghĩa vụ của hai bên trong quan hệ tín dụng, đồng thờ phải tuân thủ các điều khoản của các luật, cá quy định.
- Giải ngân và kiểm soát trong khi cấp tín dụng:
Sau khi hợp đồng tín dụng đã được ký kết, Ngân hàng phải có trách nhiệm cấp tiền cho khách hàng như đã thoả thuận. Kèm theo việc cấp tín dụng, Ngân hàng kiểm soát khách hàng: Sử dụng tiền vay có đúng mục đích, tiến độ hay không?, Quá trình sản xuất kinh doanh có thay đổi bất lợi gì, có dấu hiệu lừa đảo hoặc làm ăn thua lỗi?, nhằm ngăn chặn các ý đồ sử dụng tiền vay không đúng mục đích của khách hàng. Đây cũng là quá trình Ngân hàng thu thập thêm các thông tin và ra quyết định cụ thể nhằm ngăn chặn hình thành các khoản tín dụng xấu.
- Thu nợ hoặc đưa ra các phán quyết tín dụng mới:
Quan hệ tín dụngkết thúc khi Ngân hàng thu hồi hết gốc và lãi. Một số trường hợp, các khoản tín dụng đã không hoàn trả hoặc không hoàn trả đúng hạn. Lúc này Ngân hàng cần đưa ra các quyết định mới liên quan đến tính an toàn của khoản tín dụng: phong toả và bán tài sản thế chấp, gia hạn nợ, giảm lãi hoặc cho vay thêm…
II.Đầu tư và dự án đầu tư
2.1 Đầu tư
- Khái niệm:
Đầu tư là đem một khoản tiền sử dụng vào một việc nhất định sau đó thu lại một khoản tiền có giá tri lớn hơn.
Một cách vắn tắt, có thể nói đầu tư là việc sử dụng tiền nhằm mục đích sinh lợi. Tính sinh lợi là đặc trưng hàng đầu của đầu tư. Không thể coi là đầu tư, nếu việc sử dụng tiền không nhằm mục đíchthu lại một khoản có giá trị lớn hơn khoản bỏ ra ban đầu.
- Các phương thức đầu tư:
Với một khoản tiền vốn người ta có thể đầu tư để sinh lợi theo nhiều phương thức.
+ Đầu tư gián tiếp ( hay đầu tư tài chính ): Là đầu tư bằng cách mua các chứng chỉ có giá trị như cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư…để hưởng lợi tức. Với phương thức này người đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý việc sử dụng vốn.
+ Đầu tư trực tiếp: Là phương thức đầu tư trong đó người bỏ vốn trực tiếp tham gia quản lý việc sử dụng vốn. Có hai hình thức đầu tư trực tiếp:
*. Đầu tư dịch chuyển là hình thức đầu tư trong đó người bỏ vốn mua lại một số cổ phần đủ lớn để được quyền chi phối hoạt động của doanh nghiệp. Trong hình thức đầu tư này chỉ có sự thay đổi về quyền sở hữu. Tài sản được dịch chuyển từ tay người này sang tay người khác, không có sự gia tăng tài sản của các doanh nghiệp.
*. Đầu tư phát triển là hình thức đầu tư trong đó người ta tạo dựng nên những năng lượng mới cho các hoạt động sản suất, dịch vụ để làm phương tiẹn sinh lợi. Đầu tư phát triển cũng có nhiều hình thức: Thiết lập cơ sở mới, mở rộng cơ sở sẵn có, đổi mới công nghệ… Đầu tư phát triển có vị trí đặc biệt quan trọng. Nó là biểu hiện cụ thể của tái sản xuất mở rộng, là biện pháp chủ yếu để cung cấp việc làm cho người lao động, là tiền đề để thực hiện đầu tư tài chính và đầu tư dịch chuyển.
2.2 Dự án đầu tư
2.2.1 Khái niệm dự án đầu tư
Dự án đầu tư được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau:
Về mặt hình thức: Dự án đầu tư là một tập hợp hồ sơ tài liệu trình bày một cách chi tiết, có hệ thống các hoạt động theo một kế hoạch nhằm thực hiện những mục tiêu trong tương lai.
Về bản chất: Dự án đầu tư là một tập hợp những đề xuất có liên quan đến việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những cơ sở vật chất nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng hoặc duy trì cải tiến nâng cao chất lượng của sản phẩm hoặc dịch vụ trong khoảng thời gian xác định.
Trên góc độ quản lý: Dự án đầu tư là công cụ quản lý việc sử dụng các nguồn lực để tạo ra các kết quả kinh tế- xã hội trong một thời gian dài.
Trên góc độ kế hoạch hoá: Dự án đầu tư là một công cụ thể hiện kế hoạch chi tiết của một công cuộc đầu tư sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế xã hội.
Làm tiền đề cho các quyết định đầu tư và tài trợ các dự án đầu tư là đối tượng cho vay trung và dài hạn chủ yếu của các Ngân hàng Thương mại. Đối với một quốc gia đang phát triển như Việt Nam các dự án đầu tư đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Các chủ dự án thường không đủ vốn để thực hiện, do đó đa số họ phải cần đến sự trợ giúp của ngân hàng. Các Ngân hàng tài trợ để các doanh nghiệp thực hiện các dự án đầu tư mở rộng sản xuất, đầu tư theo chiều sâu và các dự án đầu tư mới phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
2.2.2 Tiến trình của một Dự án đầu tư
Để đảm bảo sinh lợi tối đa một khi đã bỏ vốn, đầu tư phát triển phải được tiến hành một cách có hệ thống, có phương pháp, theo một tiến trình gồm nhiều bước. Nhìn chung có thể chia các bước qua ba giai đoạn:
*. Giai đoạn 1: Chuẩn bị đầu tư, bao gồm các bước sau:
- Nghiên cứu cơ hội đầu tư, sản phẩm của bước này là báo cáo kỹ thuật về cơ hội đầu tư
- Nghiên cứu tiền khả thi: Lựa chọn một cách sơ bộ khả năng đầu tư chủ yếu. Sự lựa chọn này căn cứ vào các vấn đề sau:
+ Phù hợp với chính sách Phát triển kinh tế
+ Có thi trường tiêu thụ và khả năng cạnh tranh
+ Phù hợp với khả năng tài chính của chủ đầu tư
- Nghiên cứu khả thi: Sản phẩm của bước này là báo cáo khả thi (hay luận chứng kinh tế kĩ thuật ), đây là bản báo cáo đầy đủ nội dung cần phải làm của một dự án đầu tư, theo quan điểm của người sáng kiến dự án và tạo cơ sở cho các nhà đầu tư ra quyết định đầu tư.
- Thẩm định và ra quyết định đầu tư: Sau khi dự án được chuẩn bị kỹ càng, có thể tiến hành thẩm định một cách độc lập, xem xét toàn bộ các mặt của dự án để đánh giá xem dự án có thích hợp và khả thi hay không. Nếu qua thẩm định cho thấy dự án mang tính khả thi cao thì có thể đầu tư vào dự án.
*. Giai đoạn 2: Giai đoạn thực hiện đầu tư
Đây là giai đoạn cụ thể hoá nguồn hình thành vốn đầu tư và triển khai thực hiện dự án đầu tư. Giai đoạn này gồm các công việc sau:
+ Khảo sát thiết kế dự toán
+ Đấu thầu ký hợp đồng giao thầu
+ Thi công xây lắp công trình
+ Chạy thử và bàn giao
*. Giai đoạn 3: Vận hành và khai thác.
Đây là giai đoạn đưa công trình vào hoạt động để chính thức đưa sản phẩm ra tiêu dùng trên thị trường.
Trong quá trình thực hiện dự án cần tiến hành đánh giá dự án, qua đó xác định được một cách có hệ thống các yếu tố làm nên thành công hay thất bại của dự án để áp dụng tốt hơn vào các dự án trong tương lai.
Trong các giai đoạn trên thì giai đoạn 1 có ý nghĩa và vai trò quan trọng, nó là cơ sở cho việc triển khai dự án ở giai đoạn sau. Trong giai đoạn này thẩm định dự án được xem như là một yêu cầu không thể thiếu và là cơ sở để ra quyết định đầu tư.
Việc nắm vững các giai đoạn sẽ giúp ngân hàng xác định được vai trò của mình đối với dự án và có kế hoạch tác nghiệp phù hợp.
2.3 Thẩm định Dự án đầu tư tại Ngân hàng Thương mại.
2.3.1 Khái niệm
Thẩm định Dự án đầu tư tại ngân hàng là việc tổ chức xem xét một cách khách quan, có cơ sở các nội dung cơ bản ảnh hưởng trực tiếp đến tính khả thi và khả năng hoàn trả vốn đầu tư của khách hàng để phục vụ cho việc xem xét để quyết định cho khách hàng vay vốn để đầu tư dự án.
2.3.2 Mục đích của thẩm định dự án đầu tư
Trên thực tế, bất kỳ dự án đầu tư nào cũng gặp ít nhiều rủi ro nên mục đích của dự án đầu tư nhằm:
- Xác định tính chất khả thi của dự án, đảm bảo hiệu quả kinh tế- xã hội và tài chính như mong muốn.
- Đánh giá các lợi ích và chi phí tài chính, cũng như các lợi ích và chi phí kinh tế, hiệu quả xã hội của dự án một cách khoa học.
- Ra quyết định đầu tư đúng đắn, xác định chế độ ưu tiên đầu tư hợp lý; phù hợp với chiến lược phát triển đầu tư và quy hoạch phát triển kinh tế xã hội.
- Bảo đảm thực hiện các quy định của pháp luật về dự án đầu tư.
2.3.3 ý nghĩa của việc thẩm định dự án đầu tư đối với Ngân hàng Thương mại
-Thẩm định dự án đầu tư giúp Ngân hàng Thương mại ra quyết định chính xác về cho vay hay tài trợ cho dự án. Thẩm định chính xác dự án đầu tư sẽ đem lại sự an toàn cho ngân hàng, nâng cao chất lượng tín dụng mà không bỏ lỡ cơ hội đầu tư. Thẩm định dự án đầu tư của Ngân hàng nhằm mục đích sau:
- Đưa ra kết luận về tính khả thi, hiệu quả tài chính của dự án đầu tư, khả năng trả nợ và những rủi ro có thể xảy ra để quyết định cho vay hay từ chối cho vay
- Tham gia góp ý tư vấn cho chủ đầu tư tạo điều kiện tiền đề bảo đảm hiệu quả cho vay, thu nợ gốc và lãi đúng hạn, hạn chế thấp nhất rủi ro.
- Làm cơ sở để xác định số tiền cho vay, thời gian cho vay, dự kiến tiến độ giải ngân, mức thu nợ hợp lý, các điều kiện cho vay tạo tiền đề cho khách hàng hoạt động hiệu quả và đảm bảo mục tiêu đầu tư của ngân hàng.
2.3.4 Nội dung thẩm định dự án đầu tư của Ngân hàng Thương mại.
Xuất phát từ vai trò quan trọng của thẩm định dự án đầu tư, ngân hàng phải thành lập một bộ phận thẩm định với các chuyên gia có nghiệp vụ cao trong công tác thẩm định nhằm đạt được kết quả cao nhất. Thẩm định dự án đầu tư bao gồm nhiều bước thẩm định khác nhau, đòi hỏi các cán bộ thẩm định của ngân hàng phải hiểu và nắm rõ các nghiệp vụ cơ bản, nhanh nhậy trong việc thẩm định ngoài thực tế. Cán bộ thẩm định không làm lại công tác của người lập dự án đầu tư nhưng cần đi sâu tìm hiểu tính chính xác, những ưu điểm và nhược điểm, hạn chế của dự án đầu tư. Việc thẩm định dự án đầu tư là một chuỗi các nghiệp vụ có quan hệ chặt chẽ với nhau theo một lôgic cụ thể. Nhưng trên thực tế để phù hợp với thực tiễn, các nghiệp vụ này có thể được tiến hành đầy đủ và theo đúng trình tự, hay co thể bỏ qua một số nội dung không thích hợp.
2.3.4.1 Thẩm định tổng quan về chủ đầu tư
Mục tiêu của thẩm định tổng quan là xem xét tính đầy đủ, hợp pháp, hợp lệ của các hồ sơ xin vay vốn mà chủ đầu tư gửi đến ngân hàng, xem xét tư cách pháp nhân và uy tín cá nhân của chủ đầu tư. Đây là bước thẩm định đầu tiên đóng vai trò quan trọng trong quá trình thẩm định dự án đầu tư. Bước thẩm định này sẽ giúp các cán bộ thẩm định nhanh chóng lựa chọn các hồ sơ khách hàng phù hợp, mở đầu cho các nghiệp vụ sau.
Thẩm định tổng quan bao gồm:
a.Thẩm định tính đầy đủ, hợp pháp , hợp lệ của các hồ sơ xin vay vốn.
Các cán bộ thẩm định tiếp nhận hồ sơ xin vay của chủ đầu tư. Bước đầu tiên cán bộ thẩm định xem xét tính đầy đủ, hợp pháp, hợp lệ của hồ sơ xin vay vốn dựa trên các yêu cầu sau:
- Đơn xin vay theo mẫu quy định của ngân hàng
- Tài li