Tổ chức và hoạt động của hội đồng nhân dân

HĐND là một tổ chức có tính chất quần chúng, bao gồm các đại biểu mọi tầng lớp nhân dân, các dân tộc, tôn giáo, công nhân, nông dân, trí thức cùng nhau bàn bạc và giải quyết mọi công việc quan trọng của địa phương. Như vậy HĐND vừa là một tổ chức có tính chất chính quyền, vừa có tính chất quần chúng. Vị trí, tính chất và chức năng được quy định tại Điều 119, 120 Hiến pháp 1992 và cụ thể hóa tại Luật tổ chức HĐND và Ủy ban nhân dân (UBND) được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kì họp thứ 4 thông qua ngày 26/11/2003. HĐND là cơ quan đại biểu của nhân dân địa phương bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. HĐND có ba chức năng chủ yếu sau: - Một là, quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương, như quyết định những chủ trương, biện pháp quan trọng để phát huy tiềm năng của địa phương, xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng an ninh, không ngừng cải thiện đời sống vật chất tinh thần của nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả nước; - Hai là, bảo đảm thực hiện các quy định và quyết định của các cơ quan nhà nước cấp trên và trung ương ở địa phương; - Ba là, thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của thường trực HĐND, viện kiểm sát nhân dân cùng cấp; giám sát việc thực hiện các nghị quyết của HĐND; giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân dịa phương.

doc10 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 9116 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tổ chức và hoạt động của hội đồng nhân dân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU…………………………………………………………………… 2 NỘI DUNG ………………………………………………………………… 2 I. Khái quát về Hội đồng nhân dân ………………………………………… 2 II. Tổ chức và các hình thức hoạt động của HĐND ………………………... 2 1. Cơ cấu tổ chức……………………………………………………………. 2 1.1. Thường trực HĐND ……………………………………………………. 2 1.2 Các Ban của HĐND …………………………………………………….. 4 2. Hình thức hoạt động ……………………………………………………… 5 2.1 Kỳ họp HĐND …………………………………………………………… 5 2.2 Thường trực hội đồng nhân dân ………………………………………….. 6 2.3 Các Ban của HĐND ……………………………………………………… 6 2.4 Hoạt động của các đại biểu HĐND ………………………………………. 6 III. Thực trạng và phương hướng hoàn thiện tổ chức và hoạt động của HĐND 7 1. Thực trạng …………………………………………………………………... 7 2. Biện pháp, phương hướng hoàn thiện ………………………………………. 9 KẾT LUẬN …………………………………………………………………….. 10 MỞ ĐẦU Trong bộ máy nhà nước ta có hai cơ quan do nhân dân trực tiếp bầu ra đó là Quốc hội và Hội đồng nhân dân (HĐND). Khác với Quốc hội là cơ quan thay mặt toàn thể nhân dân cả nước, sử dụng quyền lực nhà nước trên phạm vi toàn quốc, HĐND lại thay mặt nhân dân địa phương sử dụng quyền lực nhà nước trên phạm vi địa phương mình. Để hiểu rõ hơn về cơ quan quyền lực nhà nước này chúng ta hãy cùng tìm hiểu về tổ chức và hoạt động của HĐND. NỘI DUNG. I - Khái quát về Hội đồng nhân dân. HĐND là một tổ chức có tính chất quần chúng, bao gồm các đại biểu mọi tầng lớp nhân dân, các dân tộc, tôn giáo, công nhân, nông dân, trí thức cùng nhau bàn bạc và giải quyết mọi công việc quan trọng của địa phương. Như vậy HĐND vừa là một tổ chức có tính chất chính quyền, vừa có tính chất quần chúng. Vị trí, tính chất và chức năng được quy định tại Điều 119, 120 Hiến pháp 1992 và cụ thể hóa tại Luật tổ chức HĐND và Ủy ban nhân dân (UBND) được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kì họp thứ 4 thông qua ngày 26/11/2003. HĐND là cơ quan đại biểu của nhân dân địa phương bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. HĐND có ba chức năng chủ yếu sau: - Một là, quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương, như quyết định những chủ trương, biện pháp quan trọng để phát huy tiềm năng của địa phương, xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng an ninh, không ngừng cải thiện đời sống vật chất tinh thần của nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả nước; - Hai là, bảo đảm thực hiện các quy định và quyết định của các cơ quan nhà nước cấp trên và trung ương ở địa phương; - Ba là, thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của thường trực HĐND, viện kiểm sát nhân dân cùng cấp; giám sát việc thực hiện các nghị quyết của HĐND; giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân dịa phương. II – Tổ chức và các hình thức hoạt động của hội đồng nhân dân. 1.Cơ cấu tổ chức 1.1Thường trực hội đồng nhân dân Theo Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980 trong cơ cấu tổ chức của bộ máy nhà nước Việt Nam không có tổ chức thường trực HĐND. Để phát huy hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân, mở rộng hơn nữa nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường hiệu lực của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, cơ quan này đã được thành lập theo Điều 118 được bổ sung của Hiến pháp 1980 và Điều 3 Luật tổ chức HĐND và UBND ngày 30 tháng 6 năm 1989. Vị trí: Thường trực HĐND là cơ quan thường trực của HĐND. Thường trực HĐND do HĐND cùng cấp bầu ra trong số các đại biểu của mình tại kì họp thứ nhất của mỗi khóa HĐND. Lúc đầu thường trực HĐND chỉ thành lập ở cấp tỉnh và huyện gồm chủ tịch, phó chủ tịch và thư kí. Ở cấp xã không thành lập mà chỉ có Ban thư kí. Cơ sở của việc thành lập: Theo quy định của Luật tổ chức HĐND và UBND thì thường trực HĐND là cơ quan đảm bảo việc tổ chức các hoạt động của HĐND. Trước đó, UBND với tính cách là cơ quan chấp hành của HĐND, là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương thì đồng thời cũng là cơ quan thường vụ, thường trực của HĐND. UBND thực hiện tất cả các chức năng gọi là thường vụ, thường trực như: tổ chức việc chuẩn bị và triệu tập các kì họp HĐND, điều hòa, phối hợp với các ban xây dựng các đề án trình HĐND xét và quyết định… UBND vừa chịu trách nhiệm trước HĐND, vừa chịu trách nhiệm trước cơ quan hành chính nhà nước cấp trên nên UBND có tính độc lập, không còn phụ thuộc vào HĐND như lí luận nêu ra. Đây là nguyên nhân của tình trạng các nghị quyết của HĐND không được tổ chức thực hiện tốt. HĐND đối với UBND chưa có cơ sở pháp lí để phát huy. Nhằm khắc phục tình trạng này thường trực HĐND được thành lập. Thành phần thường trực HĐND: Hiến pháp 1992 và Luật tổ chức HĐND và UBND năm 1994 có một số thay đổi về tổ chức thường trực HĐND chỉ còn gồm chủ tịch, phó chủ tịch, không còn chức danh thư kí, không còn coi là cơ quan của HĐND; cấp xã bỏ Ban thư kí mà thành lập chủ tịch HĐND (có phó chủ tịch). Ngày 26 –11- 2003, Quốc hôi khóa XI, kì họp thứ IV đã thông qua Luật tổ chức HĐND và UBND ( sửa đổi) theo đó, thường trực HĐND được thành lập ở tất cả các cấp và do HĐND cùng cấp bầu ra, thường trực HĐND cấp tỉnh, huyện gồm có chủ tịch, phó chủ tịch và ủy viên thường trực, ở cấp xã vẫn chỉ có chủ tịch và phó chủ tịch HĐND. Thường trực HĐND được chọn bầu ra trong số đại biểu theo thể thức: Bầu chủ tịch HĐND theo sự giới thiệu của chủ tọa kì họp (chủ tọa kì họp này là chủ tịch HĐND khóa trước, nếu khuyết thì do phó chủ tịch, nếu vẫn khuyết cả 2 thì là triệu tập viên do thường trực HĐND cấp trên trực tiếp chỉ định. Bầu phó chủ tịch và ủy viên thường vụ theo sự giới thiệu của chủ tịch. Đại biểu HĐND có quyền giới thiệu và ứng cử vào các chức vụ đó. Để đảm bảo cho hoạt động giám sát khách quan, luật quy định các thành viên thường trực HĐND không thể đồng thời là thành viên của UBND cùng cấp. Kết quả bầu Chủ tịch, Phó chủ tịch, Ủy viên thường trực HĐND phải được thường trực HĐND cấp trên phê chuẩn; kết quả bầu chủ tịch, phó chủ tịch và ủy viên thường trực HĐND cấp tỉnh phải được Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn. Nhiệm kỳ của thường trực HĐND và các chức vụ trong đó theo nhiệm kỳ của HĐND hiện nay là 5 năm. Lần đầu tiên trong Luật tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân năm 2003 quy định chủ tịch HĐND (chủ tịch UBND) ở mỗi đơn vị hành chính không giữ quá 2 nhiệm kỳ liên tục( Điều 6). Quy định này cũng giống như quy định nhiệm kỳ của cơ quan đại diện nói chung là nhằm mục đích để giám sát đối với các đại biểu được bầu ra và tạo cơ hội để các nhân tố mới tham gia vào hoạt động của cơ quan quyền lực nhà nước. Thẩm quyền: Thường trực HĐND làm việc theo nguyên tắc tập thể, mỗi tháng họp ít nhất 1 lần để kiểm điểm việc thực hiện các nghị quyết của HĐND và các quyết định của mình, đề ra nhiệm vụ công tác tháng sau. Thường trực HĐND có thể họp bất thường theo đề nghị của từng thành viên thường trực HĐND. Thường trực HĐND có những nhiệm vụ, quyền hạn như sau: Triệu tập và chủ tọa các kì họp của HĐND; phối hợp với UBND trong việc chuẩn bị kì họp của HĐND; Đôn đốc, kiểm tra UBND cùng cấp và các cơ quan nhà nước khác ở địa phương thực hiện các Nghị quyết của HĐND; Giám sát việc thi hành pháp luật tại địa phương; Điều hòa, phối hợp hoạt động của các ban của HĐND, xem xét kết quả giám sát của các ban của HĐND khi cần thiết và báo cáo HĐND tại kì họp gần nhất; giữ mối liên hệ với các địa biểu HĐND; tổng hợp các chất vấn của đai biểu HĐND để báo cáo HĐND; Tiếp dân, đôn đốc, kiểm tra và xem xét tình hình giải quyết các kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân; tổng hợp ý kiến, nguyện vọng của nhân dân để báo cáo tại kì họp của HĐND; Phê chuẩn kết quả bầu chủ tịch, phó chủ tịch, ủy viên thường trực HĐND cấp dưới trực tiếp; …… 1.2 Các Ban của hội đồng nhân dân Mục đích thành lập: Các ban của HĐND là hình thức tham gia tập thể của các đại biểu HĐND vào việc thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn của HĐND và để giúp HĐND theo quy định của pháp luật. Các ban được HĐND thành lập theo nhu cầu công tác. Vị trí các ban: là cơ quan được lập ra để giúp việc cho HĐND. Ban của HĐND được thành lập ở cấp tỉnh, thành phố trực thuộc TW, huyện, quận, thành phố trực thuộc tỉnh và thị xã. Ở cấp xã, phường, thị trấn không có các ban. Theo quy định của pháp luật hiện hành( Điều 54 Luật tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân 2003) thì HĐND cấp tỉnh thành lập ba ban: Ban kinh tế và ngân sách, ban văn hóa- xã hội, ban pháp chế. Ở những tỉnh có nhiều dân tộc có thể thành lập Ban dân tộc để giúp HĐND thực hiện và giám sát việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước. HĐND cấp huyện thành lập hai ban: Ban kinh tế - xã hội, ban pháp chế. Số lượng thành viên mỗi ban do HĐND cùng cấp quyết định. Thành viên của các ban của HĐND không thể đồng thời là thành viên của UBND cùng cấp. Một điểm mới đáng lưu ý là luật quy định trưởng ban của HĐND cấp tỉnh, cấp huyện không thể đồng thời là thủ trưởng cuả các cơ quan chuyên môn của UBND, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, chánh án Tòa án nhân dân cùng cấp. Trưởng ban và các thành viên khác của các ban của HĐND do HĐND bầu ra tại kì họp đầu tiên của mỗi khóa HĐND và được lựa chọn trong số các đại biểu có năng lực kiến thức và chuyên môn phù hợp với nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi ban. Nhiệm vụ, quyền hạn của các ban của HĐND: Tham gia chuẩn bị các kì họp của HĐND; Thẩm tra các báo cáo, đề án do HĐND hoặc thường trực HĐND phân công; Giúp HĐNĐ giám sát hoạt động của UBND và các cơ quan chuyên môn thuộc UBND, hoạt động của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp; Giúp HĐND giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân trong việc thi hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và các nghị quyết của HĐND cùng cấp; Trong khi thi hành nhiệm vụ, các ban của HĐND có quyền yêu cầu UBND, TAND,VKSND cùng cấp, cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội ở địa phương cung cấp thông tin, tài liệu cần thiết liên quan đến hoạt động giám sát. Các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm đáp ứng yêu cầu của các ban của HĐND Báo cáo kết quả hoạt động giám sát với thường trực HĐND cần thiết; Quy chế tổ chức và hoạt động của HĐND cụ thể hóa những nhiệm vụ, quyền hạn của từng ban. Hình thức hoạt động của Ban là phiên họp do trưởng ban triệu tập. Tại phiên họp các thành viên thảo luận trước các dự án trình HĐND thông qua hoặc chuẩn bị các đề án trình. HĐND kiểm điểm việc thực hiện chương trình, bàn công tác của thời gian tới. Ban còn tổ chức các cuộc kiểm tra, giám sát ở cơ sở, phát hiện những vấn đề để kiến nghị với cơ sở hoặc trình HĐND quyết định các kiến nghị của ban có giá trị bắt buộc các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và các cơ quan hữu quan xem xét và thực hiện kết quả báo cáo lại cho các ban biết. Thường trực HĐND điều hòa, phối hợp hoạt động của các ban. Các trưởng ban được dự các kì họp hàng tháng của thường trực cùng cấp. 2.Hình thức hoạt động của Hội đồng nhân dân. 2.1 Kì họp Hội đồng nhân dân Vị trí: Các kì họp chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong hoạt động của HĐND, vì đó là hình thức hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất của HĐND. HĐND làm việc tập trung và có hiệu quả nhất trong các kì họp của mình. Chuẩn bị và triệu tập kì họp: UBND phối hợp với Thường trực HĐND và các Ban của HĐND chuẩn bị nội dung các kì họp HĐND, xây dựng đề án trình HĐND xem xét, quyết định. Trước ngày họp 30 ngày, Thường trực HĐND họp với UBND, Trưởng phó Ban của HĐND quyết định chương trình và các vấn đề sẽ bàn và giao cho các cơ quan chuẩn bị. Các báo cáo, đề án và các vấn đề sẽ bàn tại kì họp do Thường trực HĐND cùng với UBND, các Ban của HĐND (ở tỉnh, huyện), Chủ tịch UBND cùng Thường trực HĐND (ở xã, phường, thị trấn) chuẩn bị. Tài liệu cần thiết của kì họp HĐND phải được gửi đến đại biểu HĐND chậm nhất là 5 ngày trước ngày khai mạc kì họp. Kì họp thứ nhất của mỗi khóa HĐND có ý nghĩa quan trọng đặc biệt vì tại kì họp này sẽ tiến hành thẩm tra tư cách đại biểu HĐND, bầu ra Thường trực HĐND, các ban của HĐND, UBND cùng cấp. Kì họp thứ nhất được triệu tập chậm nhất 30 ngày kể từ ngày bầu xong đại biểu HĐND. Ở miền núi, nơi nào đi lại khó khăn thì kì họp thứ nhất của HĐND tỉnh được triệu tập chậm nhất là 45 ngày kể từ ngày bầu cử đại biểu HĐND. Kì họp thứ nhất của mỗi khóa HĐND do chủ tịch HĐND khóa trước triệu tập và chủ tọa cho đến khi HĐND bầu được Chủ tịch HĐND khóa mới. Trong trường hợp khuyết Chủ tịch HĐND thì Phó Chủ tịch HĐND triệu tập kì họp thứ nhất của HĐND khóa mới. Nếu khuyết cả Chủ tịch và Phó Chủ tịch HĐND thì thường trực HĐND cấp trên trực tiếp chỉ định triệu tập viên để triệu tập và chủ tọa kì họp cho đến khi HĐND bầu được Chủ tịch HĐND; ở cấp tỉnh thì do Ủy ban thường vụ Quốc hội chỉ định triệu tập viên. Thời gian họp: HĐND họp thường lệ mỗi năm hai kỳ (trước đây ba tháng một kỳ). Ngoài kỳ họp thường lệ, HĐND còn tổ chức kỳ họp chuyên đề hoặc kỳ họp bất thường theo đề nghị của chủ tịch HĐND, chủ tịch UBND cùng cấp khi có ít nhất một phần ba tổng số đại biểu HĐND cùng cấp yêu cầu. Thường trực HĐND quyết định triệu tập kỳ họp thường lệ của HĐND chậm nhất là 20 ngày, kỳ họp chuyên đề hoặc bất thường chậm nhất là mười ngày trước ngày khai mạc kỳ họp. 2.2 Thường trực hội đồng nhân dân. Thường trực HĐND do HĐND cùng cấp bầu ra trong số các đại biểu của mình tại kỳ họp thứ nhất của mỗi khóa HĐND. Thường trực HĐND được thành lập ở cả 3 cấp tỉnh, huyện, xã. Thường trực HĐND có những nhiệm vụ, quyền hạn sau: Triệu tập và chủ tọa các kỳ họp của HĐND Đôn đốc, kiểm tra UBND cùng cấp và các cơ quan nhà nước khác ở địa phương thực hiện các nghị quyết của HĐND. Giám sát việc thi hành pháp luật tại địa phương. Điều hòa, phối hợp hoạt động của các ban của HĐND Tiếp dân, đôn đốc, kiểm tra và xem xét tình hình giải quyết các kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân. Phê chuẩn kết quả bầu chủ tịch, phó chủ tịch, ủy viên thường trực HĐND cấp dưới trực tiếp. 2.3 Các ban của hội đồng nhân dân. Các ban của HĐND là hình thức tham gia tập thể của các đại biểu HĐND vào việc thực hiện các nhiệm vụ quyền hạn của HĐND và để giúp HĐND theo quy định của pháp luật. Các ban của HĐND có những nhiệm vụ và quyền hạn sau: Tham gia chuẩn bị các kỳ họp của HĐND Thẩm tra các báo cáo, đề án do HĐND hoặc thường trực HĐND phân công. Giúp HĐND giám sát hoạt động của UBND và các cơ quan chuyên môn thuộc UBND, hoạt động của TAND, VKSND cùng cấp. Giúp HĐND giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân… 2.4 Hoạt động của các đại biểu hội đồng nhân dân. Hoạt động của cá đại biểu HĐND góp phần quan trọng vào việc xây dựng và thực hiện các chủ trương công tác của HĐND. Đại biểu HĐND không chỉ hoạt động hạn chế trong các kỳ họp, trong các cơ quan thường trực HĐND và các ban của HĐND mà còn có những nhiệm vụ và quyền hạn với tư cách là đại biểu của nhân dân địa phương. Đại biểu HĐND có nhiệm vụ tham dự đầy đủ các kỳ họp, phiên họp của HĐND, tham gia vào thảo luận và biểu quyết các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu HĐND. Đại biểu HĐND phải liên hệ chặt chẽ với cử tri ở đơn vị bầu ra mình, chịu sự giám sát của cử tri, phải thu thập và phản ánh trung thực ý kiến, nguyện vọng của cử tri, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cử tri. Đại biểu HĐND có quyền tham gia thảo luận và biểu quyết các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND trong các kỳ họp, phiên họp của HĐND; tham gia vào bầu cử và có thể được bầu vào thường trực HĐND, các ban của HĐND hoặc UBND cùng cấp. III. Thực trạng và phương hướng hoàn thiện về tổ chức và hoạt động cuả HĐND. 1. Thực trạng. Trong thời gian vừa qua, hoạt động của HĐND đã có nhiều chuyển biến đáng kể và những thành tựu mà cơ quan này mang lại là không thể phủ nhận. Dần trở thành cánh tay đắc lực trong Bộ máy quản lý nhà nước, cơ cấu tổ chức của HĐND đã được kiện toàn lại, hoạt động đi vào nể nếp hiệu quả hơn rất nhiều so với trước đây. Các kỳ họp của HĐND được chuẩn bị kỹ càng hơn, thời gian dành cho mỗi kỳ họp cũng được bố trí hợp lý để các Đại biều có thời gian xem xét, thảo luận các vấn đề trước khi đưa ra quyết định. Công tác cán bộ đã được chú trọng hơn, việc nâng cao trình độ, năng lực cho cán bộ cũng đã được chú trọng hơn, việc nâng cao trình độ, năng lực cho cán bộ công chức trong cơ cấu của HĐND trở thành nhiệm vụ trọng tâm của hầu hết HĐND các cấp. Đại biểu HĐND ngoài việc tham gia vào các kỳ họp còn tự mình nâng cao ý thức trách nhiệm trong việc thực tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho người dân, vận động quần chúng tích cực tham gia thực hiện những Nghị quyết, chủ trương của HĐND đưa ra. Một điểm mới trong Luật tổ chức HĐND và Ủy ban nhân dân (UBND) năm 2003 là việc thành lập thường trực HĐND ở cấp xã, quy định này đã tạo cơ sở pháp lý, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của HĐND cấp xã. Những thành tựu kể trên không những góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào cơ quan đại diện cho mình mà còn khẳng định vị trí, vai trò của HĐND trong bộ máy chính quyền địa phương ở nước ta. Song bên cạnh những thành tựu còn khá khiêm tốn đó thì trên thực tế hoạt động của HĐND vẫn còn tồn tại rất nhiều bất cập. Là cơ quan đại diện cho quyền lực nhà nước ở địa phương, cho tâm tư nguyện vọng của nhân dân, nhưng mô hình tổ chức đôi khi còn cứng nhắc, cơ chế làm việc vẫn theo lối mòn cũ nên hiệu quả hoạt động của cơ quan này còn rất nhiều vấn đề cần xem xét. Khi nhắc tới HĐND , chắc chắn không ít người nghĩ rằng đây chỉ là một cơ quan hoạt động mang tính chất hình thức. Mỗi khi có bức xúc, khúc mắc hầu như người dân đều tìm tới cơ quan chấp hành để giải quyết là UBND chứ ít người tìm tới HĐND. Các hạn chế của HĐND chủ yếu tập trung ở các hình thức hoạt động của nó. Đối với các kỳ họp của HĐND, không giống như UBND mỗi tháng đểu phải tổ chức phiên họp thường kỳ một lần, HĐND một năm chỉ họp thường niên 2 lần, do vậy nhiều vấn đề được đem ra thảo luận, quyết định của HĐND không đảm bảo được tính cấp thiết, thời sự nữa. Hơn nữa thời gian của mỗi kỳ họp lại thường chỉ kéo dài trong trong một vài ngày, trong khi đó nhiệm vụ quyền hạn của HĐND là rất lớn bao quát ở nhiều lĩnh vực, vì thế mà hoạt động của HĐND thông qua các kỳ họp thường không hiệu quả. Mặt khác, những đánh giá, quyết định của HĐND lại chủ yếu dựa trên những báo cáo đã được lập sẵn của UBND. Tại các kỳ họp HĐND gần như chỉ làm nhiệm vụ xem xét, đánh giá các báo cáo dựa trên tư duy chủ quan của chính các Đại biểu HĐND. Việc đi sâu, đi sát tìm hiểu thực tế vấn đề gần như không được thực hiện chính những điều này cũng ảnh hưởng không nhỏ tới các quyết định, chủ trương của HĐND. Đối với các Đại biều HĐND, tại các kỳ họp, hoạt động của các Đại biểu chưa thực sự hiệu quả, phần lớn các Đại biểu thường giữ chức vụ kiêm nhiệm, thêm vào đó là thời gian chuẩn bị cho các kỳ họp không nhiều, do vậy mà việc nghiên cứu tài liệu, tìm hiểu thực tế vấn đề ít được các Đại biểu quan tâm. Theo quy định của pháp luật, việc bầu cử các Đại biểu HĐND phải đảm bảo được tính đại diện trong đó. Do đó, khi chọn lựa các Đại biểu, yếu tố được đem ra xem xét đầu tiên không phải là năng lực, trình độ của các Đại biểu mà là thành phần, cơ cấu, tôn giáo của Đại biểu đó. Chính điều này đã không phát huy được năng lực, khả năng của các Đại biểu được lựa chọn khi tham gia hoạt động của cơ quan quyền lực nhà nước này. Đối với việc phân cấp nhiệm vụ, quyền hạn tại các đơn vị hành chính lãnh thổ khác nhau, theo quy định của luật thì nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND ở ba cấp: tỉnh, huyện, xã về cơ bản đều được quy định trên các lĩnh vực giống nhau, chỉ có sự điều chỉnh về phạm vi quyền hạn. Quy định này dẫn tới tình trạng chồng chéo quyền lực của các cấp trong từng lĩnh vực. Ngoài ra, trong hoạt động, tổ chức của HĐND vẫn còn nhiều những hạn chế khác. Hoạt động của Chủ tịch HĐND và Phó Chủ tich HĐND chưa thực sự xứng tầm với vị trí pháp lý của nó. Hoạt dộng ban hành văn bản pháp luật của HĐND còn nhiều bất cập, tình trạng ban hành Nghị quyết sai thẩm quyền, những chủ trương, chính sách thiếu thực tế vẫn diễn ra khá phổ biến, các ban
Luận văn liên quan