Ủy ban nhân dân (UBND) là cơ quan có vai trò quan trọng trong bộ máy hành chính nhà nước ở địa phương. Đây là cầu nối đảm bảo tính thống nhất cũng như toàn diện trong công tác quản lí hành chính nhà nước từ Trung ương tới địa phương. Với vai trò đó, nghiên cứu tổ chức và hoạt động của UBND là một công việc cần thiết để có được những hiểu biết sâu rộng về cơ quan này. Đồng thời việc nghiên cứu cũng không nên dừng lại ở các quy định của pháp luật hiện hành mà còn phải nghiên cứu thực trạng áp dụng các quy định đó, từ đó đưa ra giải pháp đúng đắn, kịp thời.
12 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 27963 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bµi lµm
1/ ĐẶT VẤN ĐỀ
Ủy ban nhân dân (UBND) là cơ quan có vai trò quan trọng trong bộ máy hành chính nhà nước ở địa phương. Đây là cầu nối đảm bảo tính thống nhất cũng như toàn diện trong công tác quản lí hành chính nhà nước từ Trung ương tới địa phương. Với vai trò đó, nghiên cứu tổ chức và hoạt động của UBND là một công việc cần thiết để có được những hiểu biết sâu rộng về cơ quan này. Đồng thời việc nghiên cứu cũng không nên dừng lại ở các quy định của pháp luật hiện hành mà còn phải nghiên cứu thực trạng áp dụng các quy định đó, từ đó đưa ra giải pháp đúng đắn, kịp thời.
2/ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
2.1 Vị trí, tính chất, chức năng của Uỷ ban nhân dân
Điều 123 Hiến pháp năm 1992 và Điều 2 Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 quy định: “Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và cơ quan nhà nước cấp trên ”.
Như vậy UBND là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương đồng thời là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. UBND có chức năng chủ yếu là quản lý hành chính nhà nước. Hoạt động quản lí của UBND mang tính thống nhất và toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đối với mọi đối tượng nhưng giới hạn trong phạm vi một địa phương, một vùng lãnh thổ nhất định.
2.2 Cơ cấu, tổ chức của Uỷ ban nhân dân
Trong công cuộc cải cách hành chính những năm gần đây, tổ chức và hoạt động của UBND được quy định tại Hiến pháp năm 1992 và Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 so với các văn bản pháp luật trước kia có sự thay đổi căn bản. Căn cứ vào những văn bản trên và đặc điểm kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội, an ninh, quốc phòng hiện nay, cơ cấu tổ chức cụ thể của từng UBND do HĐND cùng cấp quyết định theo sự hướng dẫn của Chính phủ.
2.2.1 Cơ cấu của Ủy ban nhân dân
Điều 119 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 quy định Chủ tịch, Phó chủ tịch và các ủy viên của UBND do HĐND cùng cấp bầu ra tại kì họp thứ nhất của mỗi khóa theo thể thức bỏ phiếu kín, phải được quá bán tổng số đại biểu HĐND có mặt biểu quyết tán thành. Chủ tịch UBND được bầu trong số các đại biểu HĐND theo sự giới thiệu của Chủ tịch HĐND. Trong nhiệm kì nếu khuyết Chủ tịch UBND thì Chủ tịch HĐND cùng cấp giới thiệu người ứng cử để HĐND bầu, người này không nhất thiết là đại biểu HĐND. Còn Phó chủ tịch và các ủy viên UBND được bầu theo sự giới thiệu của chủ tịch UBND và không nhất thiết là đại biểu HĐND. Kết quả bầu các thành viên của UBND phải được chủ tịch UBND cấp trên trực tiếp phê chuẩn, đối với UBND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phải được Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn. Nhiệm kì hoạt động của UBND là 5 năm.
Số lượng thành viên trong UBND được quy định tại Điều 122 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 có giảm so với các quy định trước đây, cụ thể: UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trước có từ 11 đến 17 thành viên nay có từ 9 đến 11 thành viên, riêng đối với thành phố Hà Nội và Hồ Chí Minh có không quá 13 thành viên; UBND huyện và tương đương trước có từ 9 đến 13 thành viên nay có từ 7 đến 9 thành viên; UBND xã và tương đương trước có từ 5 đến 7 thành viên nay có từ 3 đến 5 thành viên. Tuy nhiên, đứng trên quan điểm tăng cường trách nhiệm cá nhân và chế độ thủ trưởng, với những đòi hỏi nhanh nhạy, hiệu quả mà chúng ta đang cố gắng xây dựng thì số lượng thành viên hiện tại vẫn là đông. Hoạt động của UBND còn mang tính thông báo công việc chung, mỗi quy định của UBND chưa thực sự là kết tinh trí tuệ của tập thể. Để khắc phục tình trạng trên cần thu gọn hơn nữa số lượng và cơ cấu thành phần của UBND, thay vì tập trung vào số lượng ta hãy tập trung vào năng lực, phẩm chất của đội ngũ, như vậy sẽ đạt được hiệu quả cao hơn.
2.2.2 Tổ chức của Ủy ban nhân dân
UBND làm việc theo chế độ lãnh đạo tập thể và có phân công cá nhân chịu trách nhiệm.
( Chủ tịch Ủy ban nhân dân
Với vai trò là người lãnh đạo và điều hành công việc của UBND, Chủ tịch UBND có nhiệm vụ đôn đốc, kiểm tra công tác của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp mình và cấp dưới trực tiếp; phân công công tác cho các Phó chủ tịch và các thành viên; quyết định các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của UBND cấp mình (trừ các vấn đề quy định tại Điều 124 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003). Chủ tịch UBND vừa phải chịu trách nhiệm cá nhân về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình vừa phải chịu trách nhiệm cùng với tập thể UBND về hoạt động của UBND trước HĐND cùng cấp và cơ quan nhà nước cấp trên. Sự điều hành của Chủ tịch UBND đảm bảo tính thống nhất trong hoạt động quản lí hành chính của UBND.
( Phó chủ tịch UBND
Vai trò của Phó chủ tịch UBND là người giúp việc cho chủ tịch, thực hiện những công việc được chủ tịch phân công phụ trách liên quan tới một lĩnh vực nhất định. Các phó chủ tịch chịu trách nhiệm cá nhân về việc thực hiện nhiệm vụ của mình trước chủ tịch UBND và cùng với tập thể UBND chịu trách nhiệm trước HĐND cùng cấp và cơ quan nhà nước cấp trên.
( Uỷ viên UBND
Uỷ viên UBND được chủ tịch phân công phụ trách những ngành, lĩnh vực chuyên môn nhất định, phải chịu trách nhiệm cá nhân về công việc được phân công trước chủ tịch UBND và cùng với tập thể UBND chịu trách nhiệm trước HĐND cùng cấp và cơ quan nhà nước cấp trên.
Thủ trưởng các cơ quan chuyên môn thuộc UBND (không phải là thành viên của UBND) được giao phụ trách quản lí ngành, lĩnh vực chuyên môn với các tên gọi như: Giám đốc sở, trưởng phòng, trưởng ban... có nhiệm vụ lãnh đạo hoạt động của các sở, phòng, ban; định kỳ mỗi tháng một lần phải báo cáo trước UBND và cơ quan quản lí chuyên môn cấp trên, trường hợp cần thiết thì phải báo cáo truớc HĐND cùng cấp.
Số lượng các sở, phòng, ban trực thuộc UBND phụ thuộc vào yêu cầu nhiệm vụ công tác trong mỗi giai đoạn và quyết định của cơ quan có thẩm quyền.
Các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có từ 20 đến 26 sở, ban, ngành và các cơ quan trực thuộc UBND; ngoài ra cấp tỉnh còn một số đầu mối nữa không trực thuộc UBND mà trực thuộc cơ quan quản lí cấp trên như Sở công an, Bộ chỉ huy quân sự, Tổng cục thống kê,…; đối với các thành phố trực thuộc trung ương còn có các cơ quan chuyên môn mang tính chất thành thị như Sở nhà đất, Văn phòng kiến trúc sư trưởng...
Các cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện (quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh) thường có từ 10 đến 12 phòng, ban.
UBND xã (phường, thị trấn) thường có 5 ban và một số trạm như Trạm y tế…
Với xu hướng đề cao trách nhiệm cá nhân chủ tịch và sự phân công chịu trách nhiệm trong từng lĩnh vực của các thành viên, theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 khoá VIII: UBND cần được tổ chức theo hướng giảm số uỷ viên là thủ trưởng các cơ quan chuyên môn; xác định rõ thẩm quyền hành chính cụ thể cho từng thành viên; điều chỉnh, sắp xếp lại các cơ quan chuyên môn, tương ứng với việc sắp xếp điều chỉnh các bộ, ngành ở trung ương theo hướng quản lý đa ngành, đa lĩnh vực.
2.3 Hoạt động của uỷ ban nhân dân
2.3.1 Các phiên họp của Ủy ban nhân dân
Các phiên họp của UBND là hình thức hoạt động chủ yếu và cũng là quan trọng nhất của UBND. Thông qua các phiên họp, phần lớn nhiệm vụ, quyền hạn thuộc thẩm quyền của UBND được thực hiện.
Theo Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003, UBND mỗi tháng họp ít nhất một lần, do chủ tịch UBND triệu tập và chủ tọa (Điều 123 và Điều 127 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003). Chủ tịch UBND có thể triệu tập phiên họp bất thường theo yêu cầu của chủ tịch UBND hoặc theo đề nghị của ít nhất một phần ba tổng số thành viên của UBND. “Các quyết định của Uỷ ban nhân dân phải được quá nửa tổng số thành viên Uỷ ban nhân dân biểu quyết tán thành” (Điều 123 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003). Để đảm bảo tính dân chủ và phát huy hiệu quả của các buổi họp, các thành viên của UBND phải tham dự đầy đủ, trường hợp vắng mặt phải được sự đồng ý của chủ tịch UBND.
Điều 125 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 quy định: “Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và người đứng đầu các đoàn thể nhân dân ở địa phương được mời dự các phiên họp của UBND cùng cấp khi bàn các vấn đề có liên quan”. Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thường được mời tham dự các phiên họp thường kỳ của UBND, còn người đứng đầu các đoàn thể nhân dân địa phương thì tùy theo tình hình thực tế có thể được mời dự họp. Các đại biểu được mời có quyền phát biểu ý kiến nhưng không có quyền biểu quyết. Việc tham dự của những đại biểu đó sẽ giúp UBND nắm vững thực tế để ra các quyết định, chỉ thị đúng đắn, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức đoàn thể đó tham gia xây dựng chính quyền, thực hiện các chủ trương chính sách, pháp luật của nhà nước, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, các đại biểu và cán bộ viên chức - Cũng theo Điều 125, UBND thực hiện chế độ thông báo tình hình mọi mặt của địa phương cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân, đồng thời có trách nhiệm giải quyết và trả lời các kiến nghị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân.
Theo Điều 124 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003, tại phiên họp UBND thảo luận tập thể và quyết định theo đa số những vấn đề sau: Chương trình làm việc của UBND trong cả nhiệm kỳ và hằng năm; thông qua các dự án về kế hoạch, ngân sách quỹ dự trữ của địa phương trình HĐND cùng cấp và UBND cấp trên trực tiếp (hoặc trình Chính phủ đối với UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương); kiểm điểm việc thực hiện các nghị quyết của HĐND cùng cấp và các văn bản pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên; thông qua đề án thành lập mới, sáp nhập, giải thể các cơ quan chuyên môn thuộc UBND và việc phân vạch, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính địa phương; điều hòa, phối hợp hoạt động giữa các cơ quan chuyên môn thuộc UBND. Các quyết định, chỉ thị của UBND được thể hiện dưới hình thức văn bản
2.3.2 Hoạt động của Chủ tịch Ủy ban nhân dân
Bên cạnh các phiên họp thì hoạt động của Chủ tịch UBND cũng là một hình thức hoạt động thường xuyên của UBND. Như đã giới thiệu ở trên, Chủ tịch là UBND người lãnh đạo và điều hành công tác của UBND do đó hoạt động của Chủ tịch có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả công việc của UBND. So với Hiến pháp năm 1980 và Luật tổ chức HĐND và UBND năm 1989 thì đây là một hình thức mới được pháp luật quy định.
Chủ tịch UBND lãnh đạo công tác của UBND, các thành viên của UBND, các cơ quan chuyên môn thuộc UBND: Đôn đốc, kiểm tra công tác của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp mình và UBND cấp dưới trong việc thực hiện Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, nghị quyết của HĐND và quyết định, chỉ thị của UBND cùng cấp; quyết định các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của UBND cấp mình, trừ các vấn đề quy định tại Điều 124 của Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003; áp dụng các biện pháp nhằm cải tiến lề lối làm việc, quản lý và điều hành bộ máy hành chính hoạt động có hiệu quả, ngăn ngừa và đấu tranh chống các biểu hiện quan liêu, vô trách nhiệm, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác của cán bộ, công chức và trong bộ máy chính quyền địa phương; tổ chức việc tiếp dân, xét và giải quyết kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của nhân dân theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, Chủ tịch UBND trong các phiên họp với vai trò chủ tọa có trách nhiệm hướng cuộc họp vào những vấn đề nằm trong chương trình họp, đồng thời chịu trách nhiệm tổ chức triển khai, giám sát việc thực hiện những quyết định đã được thông quan trong các phiên họp. Chủ tịch UBND có quyền chỉ đạo và áp dụng các biện pháp để giải quyết các công việc đột xuất, khẩn cấp trong phòng, chống thiên tai, cháy, nổ, dịch bệnh, an ninh, trật tự và báo cáo Uỷ ban nhân dân trong phiên họp gần nhất.
Đối với chính quyền cấp dưới trực tiếp, Chủ tịch UBND phê chuẩn kết quả bầu các thành viên của UBND cấp dưới trực tiếp; điều động, đình chỉ công tác, miễn nhiệm, cách chức Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND cấp dưới trực tiếp; phê chuẩn việc miễn nhiệm, bãi nhiệm các thành viên của UBND cấp dưới trực tiếp; bổ nhiệm, miễn nhiệm, điều động, cách chức, khen thưởng, kỷ luật cán bộ, công chức nhà nước theo sự phân cấp quản lý; đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ những văn bản trái pháp luật của cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp mình và văn bản trái pháp luật của UBND, Chủ tịch UBND cấp dưới trực tiếp; đình chỉ việc thi hành nghị quyết trái pháp luật của HĐND cấp dưới trực tiếp và đề nghị HĐND cấp mình bãi bỏ.
Như vậy, một số nhiệm vụ, quyền hạn mà theo quy định trước đây do tập thể UBND thực hiện thì nay được chuyển giao cho Chủ tịch UBND. Sự thay đổi đó nhằm phân định rạch ròi giữa chế độ trách nhiệm tập thể của UBND với cá nhân Chủ tịch UBND, đề cao vị trí, vai trò của Chủ tịch UBND trong hoạt động quản lý cũng như bảo đảm tính thống nhất của quyền lực nhà nước, theo xu hướng kết hợp chế độ tập thể lãnh đạo với chế độ thủ trưởng trong quản lí nhà nước.
2.3.3 Hoạt động của các ủy viên và các thủ trưởng các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân
Đây cũng là một hình thức hoạt động khá thường xuyên và có tác dụng lớn đến hiệu quả hoạt động của UBND. Các ủy viên UBND phụ trách các sở, ban, ngành quan trọng như Công an, quân đội, thanh tra, tài chính, văn hóa... trực tiếp thực hiện công tác quản lý ngành, lĩnh vực dưới danh nghĩa giám đốc sở, trưởng phòng, trưởng ban thuộc UBND. Ở cấp xã, phường, thị trấn thì Phó chủ tịch UBND được Chủ tịch giao phụ trách công tác văn hóa, xã hội, nội chính, kinh tế. Các ủy viên có trách nhiệm báo cáo công tác và chịu sự chỉ đạo của Chủ tịch UBND, chịu trách nhiệm cá nhân trước Chủ tịch UBND và trước HĐND cùng cấp về công việc được phân công.
Các cơ quan chuyên môn trực thuộc UBND là cơ quan tham mưu, giúp UBND cùng cấp thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương và thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn theo sự ủy quyền của UBND cùng cấp và theo quy định của pháp luật. Thủ trưởng các cơ quan chuyên môn của UBND lãnh đạo toàn bộ hoạt động quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực do mình phụ trách; báo cáo công tác và chịu trách nhiệm cá nhân trước UBND và cơ quan chuyên môn cấp trên trực tiếp, trường hợp cần thiết phải báo cáo trước HĐND về lĩnh vực mình phụ trách. Thông qua hoạt động quản lý nhà nước ở địa phương theo lĩnh vực chuyên môn, các cơ quan chuyên môn đã cùng với UBND thực hiện tốt những chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước.
2.4 Những thực trạng và hướng hoàn thiện trong tổ chức và hoạt động của uỷ ban nhân dân
2.4.1 Về phân định chức trách giữa tập thể và cá nhân và giữa các cá nhân trong UBND
Trước hết, quy định về vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của các thành viên là Uỷ viên UBND còn chưa rõ ràng, cụ thể. Trong Nghị định 107/NĐ-CP chỉ quy định các Uỷ viên UBND phụ trách các mặt công tác như công an, quân sự… song không nêu rõ các quyền hạn mà uỷ viên được làm với tư cách là người phụ trách mặt công tác đó như có được quyền thay mặt UBND để đưa ra một yêu cầu, một quyết định hành chính về lĩnh vực đó hay không hoặc là chỉ giúp Chủ tịch trong lĩnh vực đó.
Thứ hai, quy định UBND thảo luận, bàn bạc tập thể khi quyết định các vấn đề quan trọng song cần giải quyết mối quan hệ về thẩm quyền giữa bộ phận không chính thức là Thường trực UBND và tập thể UBND. Trên thực tế, hoạt động của UBND luôn quy về hoạt động của Thường trực. Vậy có nên tổ chức lại hình thức làm việc tập thể UBND với thành phần gọn, thiết thực bao gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch (có thể thêm một hoặc hai Phó Chủ tịch so với hiện nay để bao quát các mảng công tác) và Uỷ viên thư kí phụ trách công tác hành chính, không tổ chức các chức danh Uỷ viên UBND giống như Thường trực hiện nay có mở rộng.
Thứ ba, pháp luật quy định Chủ tịch UBND phân công công tác cho Phó chủ tịch UBND và các thành viên khác của UBND, người được phân công phải chịu trách nhiệm trước chủ tịch UBND. Mục đích của quy định này là để đề cao vai trò thủ trưởng của Chủ tịch UBND. Tuy nhiên, trên thực tế việc phân công này thường được thực hiện bởi UBND. Cần phải quán triệt thực hiện quy định này vì có như vậy mới đề cao được trách nhiệm của chủ tịch cùng với người được phân công về quyết định cá nhân của mình. Vị trí, vai trò của Phó chủ tịch và các thành viên khác trong mối quan hệ với Chủ tịch khi thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được phân công cần được quy định cụ thể; những công việc có tính chất giúp việc cho chủ tịch hay mang tính độc lập cũng cần được xác định rõ.
Thứ tư, cần phải có những quy định cụ thể hóa hơn nữa để phân biệt rõ ràng những nhiệm vụ, quyền hạn thuộc về tập thể UBND và những nhiệm vụ, quyền hạn của từng thành viên đặc biệt là của Chủ tịch UBND. Hiện nay, các quyết định của UBND chỉ nhằm vào 6 vấn đề quy định tại Điều 124 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003, các nhiệm vụ còn lại được thực hiện theo thẩm quyền của các chức danh (thành viên) UBND, họ phải tự quyết định và chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Song trong nhiều trường hợp các chức danh trên đã ký các quyết định, chỉ thị, thậm chí các thông báo của mình dưới danh nghĩa UBND. Đến khi xảy ra xung đột, quyết định bị khiếu kiện thì rất khó quy kết trách nhiệm. Vì vậy, cần phải hoàn chỉnh cơ sở pháp lý về vấn đề này của UBND và đảm bảo việc thực hiện một cách đúng đắn. Về địa vị pháp lý của các Ủy viên UBND, nếu tiếp tục tồn tại các thành viên này thì cần phải hoàn chỉnh các quy định về thẩm quyền của các chức danh. Cũng cần có quy định phân biệt hình thức văn bản mà Chủ tịch UBND được ban hành để tránh trùng lặp với văn bản của UBND nói chung (vì hiện tại cả hai đều ban hành quyết định và chỉ thị).
2.4.2 Về cơ chế chịu trách nhiệm của Ủy ban nhân dân
Về trách nhiệm tập thể của UBND: Trách nhiệm tập thể của một cơ quan nhà nước trước một cơ quan nhà nước hoặc cấp có thẩm quyền khác là một hiện tượng pháp lý phổ biến. Hình thức trách nhệm được áp dụng là từ chức hoặc giải tán. Việc quy định trách nhiệm tập thể của UBND trước HĐND và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên là hoàn toàn cần thiết và đúng đắn. Song cần thiết phải quy định cụ thể hơn, đặc biệt là các hình thức chế tài, cơ sở và trình tự áp dụng.
Về trách nhiệm cá nhân của Chủ tịch, Phó chủ tịch và các Ủy viên: Hình thức trách nhiệm của Chủ tịch, Phó chủ tịch UBND được quy định tương đối cụ thể đó là bị HĐND bãi nhiệm, miễn nhiệm và bị Chủ tịch UBND cấp trên trực tiếp (đối với cấp tỉnh là Thủ tướng) đình chỉ công tác, miễn nhiệm, cách chức. Vấn đề đặt ra là khi Chủ tịch UBND bị xử lý các hình thức trách nhiệm nêu trên (và kể cả khi cho thôi nhiệm vụ, điều động đi làm công tác khác) có kéo theo sự thay đổi cơ cấu của UBND không. Pháp luật hiện hành không quy định, ngay cả đối với Chính phủ. Tuy vậy, theo nguyên tắc chế độ thủ trưởng mà chúng ta đang vận dụng mạnh mẽ thì cần thiết nghiên cứu vấn đề này có như vậy mới đảm bảo được vai trò lãnh đạo thực sự của người đứng đầu UBND và tạo ra sự xuyên suốt, nhất quán trong các quy định của pháp luật hiện hành.
3/ KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Trước những đòi hỏi của nền kinh tế thị trường, nhà nước ta đang ngày càng chú trọng đến cải cách hành chính. Trong đó việc xây dựng, hoàn thiện cơ cấu tổ chức và hoạt động của UBND là một phần không thể thiếu của công cuộc cải cách với mục đích tạo nên một bộ máy chính quyền trong sạch vững mạnh, phát huy hiệu quả hoạt động quản lí hành chính nhà nước ở địa phương trên các lĩnh vực. Tuy nhiên, hiện nay không tránh khỏi tình trạng các UBND vượt quá quyền hạn và nhiệm vụ nhằm chuộc lợi cho bản thân, gây nên những bất bình trong xã hội. Do đó Đảng và nhà nước ta cần có những chính sách cụ thể nhằm đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng một nhà nước xã hội chủ nghĩa với nguyên tắc dân chủ: “Đảng lãnh đạo, nhà nước làm chủ, nhân dân kiểm tra”.
Danh môc tµi liÖu tham kh¶o
1, Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam – Trường Đại học Luật Hà Nội – Nxb Công an nhân dân 2010;
2, Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam – Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội - Nxb ĐHQG 2005;
3, Hiến pháp Việt Nam năm 1992;
4, Hiến pháp Việt Nam năm 1980;
5, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003;
6, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 1994;
7, Tạp chí Luật học:
8, Tạp chí Nhà nước và pháp luật.