Tổ chức xêmina môn Chủ nghĩa xã hội khoa học cho sinh viên ĐHNN – ĐHQGHN theo phương thức đào tạo tín chỉ

1. Lý do chọn đề tài Đổi mới nội dung chương trình và phương pháp giảng dạy theo hướng lấy người học làm trung tâm là yêu cầu cấp thiết nhằm nâng cao chất lượng giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Nghị quyÕt ®¹i héi đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ, gi¸o dôc ®¹i häc cÇn tiÕp tôc ®æi míi, tr­íc hÕt lµ ®æi míi vÒ néi dung ch­¬ng tr×nh, ph­¬ng ph¸p gi¶ng d¹y, “n©ng cao chÊt l­îng gi¸o dôc toµn diÖn; ®æi míi c¬ cÊu tæ chøc, néi dung, ph­¬ng ph¸p d¹y vµ häc; thùc hiÖn chuÈn ho¸, hiÖn ®¹i ho¸, x• héi ho¸, chÊn h­ng nÒn gi¸o dôc n­íc nhµ”. Trong đó, Đảng ta x¸c ®Þnh nhiÖm vô cña gi¸o dôc hiÖn nay lµ “chuyÓn dÇn sang m« h×nh gi¸o dôc më, m« h×nh x• héi ho¸ häc tËp víi hÖ thèng häc tËp suèt ®êi, ®µo t¹o liªn tôc, liªn th«ng gi÷a c¸c bËc häc, ngµnh häc; x©y dùng vµ ph¸t triÓn hÖ thèng häc tËp cho mäi ng­êi víi nh÷ng h×nh thøc häc tËp, thùc hµnh linh ho¹t, ®¸p øng nhu cÇu häc tËp th­êng xuyªn; t¹o nhiÒu kh¶ n¨ng, c¬ héi kh¸c nhau cho ng­êi häc, ®¶m b¶o sù c«ng b»ng trong gi¸o dôc”. Vì vậy, việc đổi mới nội dung chương trình và phương pháp giảng dạy đã và đang được tiến hành mạnh mẽ ở các cấp học, bậc học nói chung và ở trường Đại học Quốc gia Hà Nội nói riêng. Việc áp dụng phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ đã được áp dụng những năm gần đây ở ĐHQGHN cho thấy rõ quyết tâm của ĐHQGHN trong việc thực hiện chủ trương phát triển giáo dục của Đảng, Nhà nước; thực hiện tiến trình từng bước nâng cao chất lượng giáo dục, hội nhập với nền giáo dục tiên tiến của các quốc gia phát triển trên thế giới. Nội dung cốt lõi của đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng lấy người học làm trung tâm chính là: Chuyển từ việc truyền đạt tri thức một cách thụ động (thầy giảng, trò ghi) sang hướng dẫn người học chủ động trong quá trình tiếp nhận tri thức. Dạy cho người học phương pháp tự học, tư duy phân tích, tổng hợp, phát triển năng lực của mỗi cá nhân. Từ đó, tăng cường tính chủ động, tích cực của họ trong quá trình học tập và trong hoạt động thực tiễn. Hiện nay, có rất nhiều các hình thức, biện pháp để đạt được mục tiêu của việc đổi mới phương pháp giảng dạy. Trong đó, Xêmina là một hình thức tổ chức dạy học tích cực, có tính tập thể. Hình thức dạy học này tạo ra khả năng rộng lớn cho giảng viên nêu vấn đề, phân tích vấn đề một cách sâu sắc, giúp sinh viên nắm thêm kiến thức và tập vận dụng kiến thức để nhận thức các hiện tượng khác nhau của đời sống xã hội, bước khởi đầu để biến kiến thức thành niềm tin. Vì vậy, Xêmina đáp ứng được yêu cầu, mục tiêu của phương thức đào đạo theo học chế tín chỉ hiện nay. Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của hình thức dạy học Xêmina trong thực hiện phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ, qua quá trình nghiên cứu, giảng dạy. Tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường: “Tổ chức xêmina môn Chủ nghĩa xã hội khoa học cho sinh viên ĐHNN – ĐHQGHN theo phương thức đào tạo tín chỉ” nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy và học CNXHKH nói riêng, các môn khoa học Mác – Lênin nói chung. 2. Tình hình nghiên cứu Các môn khoa học Mác- Lênin nói chung, chủ nghĩa xã hội khoa học nói riêng đã được triển khai giảng dạy ở các trường Đại học, Cao đẳng và Trung học chuyên nghiệp từ nhiều năm nay, các môn khoa học này đang được giảng dạy rộng rãi ở các trường Đại học, Cao đẳng trong cả nước. Việc nghiên cứu về phương pháp giảng dạy các môn khoa học Mác- Lênin để nâng cao chất lượng giảng dạy là một việc cần thiết. Tuy nhiên, các tài liệu viết về phương pháp giảng dạy các môn khoa học này ở Việt Nam hiện chưa nhiều, đặc biệt là đối với Xêmina chủ nghĩa xã hội khoa học. Trước đây, Xêmina chủ nghĩa xã hội khoa học được các nhà khoa học giáo dục Liên Xô cũ nghiên cứu và ứng dụng ở các trường Đại học thuộc Liên Xô cũ. Ở Việt Nam, có một số công trình nghiên cứu, tài liệu đề cập đến phương pháp giảng dạy các môn khoa học Mác- Lênin như: Đặng Vũ Hoạt, Hà Thị Đức với: “Lý luận dạy học đại học”; Nguyễn Việt Dũng, Vũ Hồng Tiến, Nguyễn Văn Phúc với: “phương pháp giảng dạy Kinh tế chính trị”; Phùng Văn Bộ với: “Một số vấn đề về phương pháp giảng dạy và nghiên cứu Triết học”. Tuy nhiên các công trình nghiên cứu đó được thực hiện trong điều kiện khi Việt Nam chưa áp dụng phương thức đào tạo tín chỉ, nên chưa thấy được những thuận lợi va khó khăn của phương thức đào tạo mới cũng như chưa đưa ra được những giải pháp hiệu quả đối với phương thức đào tạo tín chỉ. Vì vậy, nghiên cứu về phương pháp giảng dạy các môn khoa học Mác- Lênin nói chung, Xêmina chủ nghĩa khoa học nói riêng là một công việc khó khăn, đòi hỏi nhiều thời gian và công sức. Đề tài nghiên cứu của tôi không phải là phát hiện mới về vấn đề này mà chỉ là góp phần tìm hiểu, nghiên cứu một cách có hệ thống về tình hình tổ chức dạy học Xêmina chủ nghĩa xã hội khoa học theo phương thức đào tạo tín chỉ, những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng Xêmina chủ nghĩa xã hội khoa học ở trường Đại học Ngoại Ngữ- Đại học Quốc Gia Hà Nội. 3. Mục đích nhiệm vụ của đề tài Trình bày khái quát những vấn đề lý luận chung về phương thức đào tạo tín chỉ và Xêmina chủ nghĩa xã hội khoa học. Tình hình thực hiện Xêmina chủ nghĩa xã hội khoa học ở Đại học Ngoại Ngữ- Đại học Quốc Gia Hà Nội. Trên cơ sở đó, bước đầu đề ra và phân tích ý nghĩa thực tiễn của một số giải pháp nâng cao chất lượng Xêmina chủ nghĩa xã hội khoa học theo phương thức đào tạo tín chỉ; thực nghiệm trên các bài cơ bản: Trình giáo án mẫu tiến hành dạy thực nghiệm, đánh giá kết quả thực nghiệm và nêu các đề xuất. 4. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở tập hợp, nghiên cứu tài liệu, các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học giáo dục, các nhà sư phạm; một số báo cáo khoa học trong kỷ yếu nghiên cứu khoa học từ 1999-> 2004 của trường Đại học Ngoại Ngữ- Đại học Quốc Gia Hà Nội về đổi mới phương pháp giảng dạy nói chung, Xêmina chủ nghĩa xã hội khoa học nói riêng. Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu: Phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, thực nghiệm 5. Ý nghĩa của đề tài * Về lý luận: Đề tài góp phần nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận chung về hình thức tổ chức dạy học Xêmina nói chung và Xêmina CNHXKH nói riêng theo phương thức đào tạo tín chỉ * Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của đề tài phục vụ quá trình đổi mới phương pháp giảng dạy, cụ thể là hình thức tổ chức dạy học Xêmina CNHXKH ở trường ĐHNN- ĐHQG Hà Nội theo phương thức đào tạo tín chỉ. Đồng thời, đề tài khi hoàn thành sẽ là tài liệu tham khảo cho các giảng viên giảng dạy các bộ môn khoa học Mác - Lênin nói chung, CNXHKH nói riêng. 7. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm 2 chương, 6 tiết.

doc63 trang | Chia sẻ: superlens | Lượt xem: 2313 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tổ chức xêmina môn Chủ nghĩa xã hội khoa học cho sinh viên ĐHNN – ĐHQGHN theo phương thức đào tạo tín chỉ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU Lý do chọn đề tài Đổi mới nội dung chương trình và phương pháp giảng dạy theo hướng lấy người học làm trung tâm là yêu cầu cấp thiết nhằm nâng cao chất lượng giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Nghị quyÕt ®¹i héi đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ, gi¸o dôc ®¹i häc cÇn tiÕp tôc ®æi míi, tr­íc hÕt lµ ®æi míi vÒ néi dung ch­¬ng tr×nh, ph­¬ng ph¸p gi¶ng d¹y, “n©ng cao chÊt l­îng gi¸o dôc toµn diÖn; ®æi míi c¬ cÊu tæ chøc, néi dung, ph­¬ng ph¸p d¹y vµ häc; thùc hiÖn chuÈn ho¸, hiÖn ®¹i ho¸, x· héi ho¸, chÊn h­ng nÒn gi¸o dôc n­íc nhµ”. Trong đó, Đảng ta x¸c ®Þnh nhiÖm vô cña gi¸o dôc hiÖn nay lµ “chuyÓn dÇn sang m« h×nh gi¸o dôc më, m« h×nh x· héi ho¸ häc tËp víi hÖ thèng häc tËp suèt ®êi, ®µo t¹o liªn tôc, liªn th«ng gi÷a c¸c bËc häc, ngµnh häc; x©y dùng vµ ph¸t triÓn hÖ thèng häc tËp cho mäi ng­êi víi nh÷ng h×nh thøc häc tËp, thùc hµnh linh ho¹t, ®¸p øng nhu cÇu häc tËp th­êng xuyªn; t¹o nhiÒu kh¶ n¨ng, c¬ héi kh¸c nhau cho ng­êi häc, ®¶m b¶o sù c«ng b»ng trong gi¸o dôc”. Vì vậy, việc đổi mới nội dung chương trình và phương pháp giảng dạy đã và đang được tiến hành mạnh mẽ ở các cấp học, bậc học nói chung và ở trường Đại học Quốc gia Hà Nội nói riêng. Việc áp dụng phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ đã được áp dụng những năm gần đây ở ĐHQGHN cho thấy rõ quyết tâm của ĐHQGHN trong việc thực hiện chủ trương phát triển giáo dục của Đảng, Nhà nước; thực hiện tiến trình từng bước nâng cao chất lượng giáo dục, hội nhập với nền giáo dục tiên tiến của các quốc gia phát triển trên thế giới. Nội dung cốt lõi của đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng lấy người học làm trung tâm chính là: Chuyển từ việc truyền đạt tri thức một cách thụ động (thầy giảng, trò ghi) sang hướng dẫn người học chủ động trong quá trình tiếp nhận tri thức. Dạy cho người học phương pháp tự học, tư duy phân tích, tổng hợp, phát triển năng lực của mỗi cá nhân. Từ đó, tăng cường tính chủ động, tích cực của họ trong quá trình học tập và trong hoạt động thực tiễn. Hiện nay, có rất nhiều các hình thức, biện pháp để đạt được mục tiêu của việc đổi mới phương pháp giảng dạy. Trong đó, Xêmina là một hình thức tổ chức dạy học tích cực, có tính tập thể. Hình thức dạy học này tạo ra khả năng rộng lớn cho giảng viên nêu vấn đề, phân tích vấn đề một cách sâu sắc, giúp sinh viên nắm thêm kiến thức và tập vận dụng kiến thức để nhận thức các hiện tượng khác nhau của đời sống xã hội, bước khởi đầu để biến kiến thức thành niềm tin. Vì vậy, Xêmina đáp ứng được yêu cầu, mục tiêu của phương thức đào đạo theo học chế tín chỉ hiện nay. Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của hình thức dạy học Xêmina trong thực hiện phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ, qua quá trình nghiên cứu, giảng dạy. Tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường: “Tổ chức xêmina môn Chủ nghĩa xã hội khoa học cho sinh viên ĐHNN – ĐHQGHN theo phương thức đào tạo tín chỉ” nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy và học CNXHKH nói riêng, các môn khoa học Mác – Lênin nói chung. 2. Tình hình nghiên cứu Các môn khoa học Mác- Lênin nói chung, chủ nghĩa xã hội khoa học nói riêng đã được triển khai giảng dạy ở các trường Đại học, Cao đẳng và Trung học chuyên nghiệp từ nhiều năm nay, các môn khoa học này đang được giảng dạy rộng rãi ở các trường Đại học, Cao đẳng trong cả nước. Việc nghiên cứu về phương pháp giảng dạy các môn khoa học Mác- Lênin để nâng cao chất lượng giảng dạy là một việc cần thiết. Tuy nhiên, các tài liệu viết về phương pháp giảng dạy các môn khoa học này ở Việt Nam hiện chưa nhiều, đặc biệt là đối với Xêmina chủ nghĩa xã hội khoa học. Trước đây, Xêmina chủ nghĩa xã hội khoa học được các nhà khoa học giáo dục Liên Xô cũ nghiên cứu và ứng dụng ở các trường Đại học thuộc Liên Xô cũ. Ở Việt Nam, có một số công trình nghiên cứu, tài liệu đề cập đến phương pháp giảng dạy các môn khoa học Mác- Lênin như: Đặng Vũ Hoạt, Hà Thị Đức với: “Lý luận dạy học đại học”; Nguyễn Việt Dũng, Vũ Hồng Tiến, Nguyễn Văn Phúc với: “phương pháp giảng dạy Kinh tế chính trị”; Phùng Văn Bộ với: “Một số vấn đề về phương pháp giảng dạy và nghiên cứu Triết học”. Tuy nhiên các công trình nghiên cứu đó được thực hiện trong điều kiện khi Việt Nam chưa áp dụng phương thức đào tạo tín chỉ, nên chưa thấy được những thuận lợi va khó khăn của phương thức đào tạo mới cũng như chưa đưa ra được những giải pháp hiệu quả đối với phương thức đào tạo tín chỉ. Vì vậy, nghiên cứu về phương pháp giảng dạy các môn khoa học Mác- Lênin nói chung, Xêmina chủ nghĩa khoa học nói riêng là một công việc khó khăn, đòi hỏi nhiều thời gian và công sức. Đề tài nghiên cứu của tôi không phải là phát hiện mới về vấn đề này mà chỉ là góp phần tìm hiểu, nghiên cứu một cách có hệ thống về tình hình tổ chức dạy học Xêmina chủ nghĩa xã hội khoa học theo phương thức đào tạo tín chỉ, những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng Xêmina chủ nghĩa xã hội khoa học ở trường Đại học Ngoại Ngữ- Đại học Quốc Gia Hà Nội. 3. Mục đích nhiệm vụ của đề tài Trình bày khái quát những vấn đề lý luận chung về phương thức đào tạo tín chỉ và Xêmina chủ nghĩa xã hội khoa học. Tình hình thực hiện Xêmina chủ nghĩa xã hội khoa học ở Đại học Ngoại Ngữ- Đại học Quốc Gia Hà Nội. Trên cơ sở đó, bước đầu đề ra và phân tích ý nghĩa thực tiễn của một số giải pháp nâng cao chất lượng Xêmina chủ nghĩa xã hội khoa học theo phương thức đào tạo tín chỉ; thực nghiệm trên các bài cơ bản: Trình giáo án mẫu tiến hành dạy thực nghiệm, đánh giá kết quả thực nghiệm và nêu các đề xuất. 4. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở tập hợp, nghiên cứu tài liệu, các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học giáo dục, các nhà sư phạm; một số báo cáo khoa học trong kỷ yếu nghiên cứu khoa học từ 1999-> 2004 của trường Đại học Ngoại Ngữ- Đại học Quốc Gia Hà Nội về đổi mới phương pháp giảng dạy nói chung, Xêmina chủ nghĩa xã hội khoa học nói riêng. Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu: Phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, thực nghiệm… 5. Ý nghĩa của đề tài * Về lý luận: Đề tài góp phần nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận chung về hình thức tổ chức dạy học Xêmina nói chung và Xêmina CNHXKH nói riêng theo phương thức đào tạo tín chỉ * Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của đề tài phục vụ quá trình đổi mới phương pháp giảng dạy, cụ thể là hình thức tổ chức dạy học Xêmina CNHXKH ở trường ĐHNN- ĐHQG Hà Nội theo phương thức đào tạo tín chỉ. Đồng thời, đề tài khi hoàn thành sẽ là tài liệu tham khảo cho các giảng viên giảng dạy các bộ môn khoa học Mác - Lênin nói chung, CNXHKH nói riêng. 7. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm 2 chương, 6 tiết. NỘI DUNG CHƯƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ PH¦¥NG THøC §µO T¹O TÝN CHØ Vµ XÊMINA CHỦ NGHĨA Xà HỘI KHOA HỌC Những vấn đề lý luận chung về phương thức đào tạo tín chỉ 1.1.1. Khái niệm và lịch sử của việc dạy và học theo phương thức đào tạo tín * Khái niệm tín chỉ và phương thức đào đạo tín chỉ -Theo cách hiểu cách hiểu của Đại học Huế: Tín chỉ là đơn vị dùng để lượng hóa khối lượng kiến thức và thời gian học tập, giảng dạy trong quá trình đào tạo. Tín chỉ cũng là đơn vị để đo lường, đánh giá tiến độ và khối lượng học tập của sinh viên dựa trên trên số lượng tín chỉ tích lũy được. Một tín chỉ được quy định bằng 15 tiết học lý thuyết, 30 tiết thực hành, thí nghiệm hoặc thảo luận, bằng 60 giờ thực tập tại cơ sở hoặc bằng khoảng 45 giờ làm tiểu luận, bài tập lớn, đồ án hoặc khóa luận tốt nghiệp. Để tiếp thu được một tín chỉ sinh viên phải dành ít nhất 30 giờ chuẩn bị ngoài giờ lên lớp. Số lượng, tính chất, số tín chỉ của các học phần (môn học) và đề cương chi tiết học phần (môn học) của mỗi ngành (chuyên ngành) đào tạo được quy định trong chương trình đào tạo. - Theo GS.TS Mai Trọng Nhuận (ĐHQGHN): Tín chỉ học tập là một đại lượng đo toàn bộ thời gian bắt buộc của một người học bình thường để học một môn học cụ thể, bao gồm: 1) thời gian lên lớp; 2) thời gian ở trong phòng thí nghiệm, thực tập hoặc các phần việc khác đã được quy định ở thời khoá biểu; và 3) thời gian dành cho đọc sách, nghiên cứu, giải quyết vấn đề, viết hoặc chuẩn bị bài...; đối với các môn học lý thuyết 1 tín chỉ là một giờ học trên lớp (với 2 giờ chuẩn bị ở nhà) trong 1 tuần và kéo dài trong 1 học kỳ 15 tuần; đối với các môn học ở studio hay phòng thí nghiệm - ít nhất là 2 giờ trong 1 tuần (với 1 giờ chuẩn bị ở nhà); đối với việc tự nghiên cứu - ít nhất là 3 giờ làm việc trong 1 tuần. - Theo Bé Gi¸o dôc vµ §µo t¹o: TÝn chØ ®­îc sö dông ®Ó tÝnh khèi l­îng häc tËp cña sinh viªn. Mét tÝn chØ ®­îc quy ®Þnh b»ng 15 tiÕt häc lý thuyÕt; 30 - 45 tiÕt thùc hµnh, thÝ nghiÖm hoÆc th¶o luËn; 45 - 90 giê thùc tËp t¹i c¬ së; 45 - 60 giê lµm tiÓu luËn, bµi tËp lín hoÆc ®å ¸n, kho¸ luËn tèt nghiÖp. §èi víi nh÷ng häc phÇn lý thuyÕt hoÆc thùc hµnh, thÝ nghiÖm, ®Ó tiÕp thu ®­îc mét tÝn chØ sinh viªn ph¶i dµnh Ýt nhÊt 30 giê chuÈn bÞ c¸ nh©n. HiÖu tr­ëng c¸c tr­êng quy ®Þnh cô thÓ sè tiÕt, sè giê ®èi víi tõng häc phÇn cho phï hîp víi ®Æc ®iÓm cña tr­êng. - Theo §¹i häc Quèc gia Hµ Néi h×nh thøc d¹y - häc, giê tÝn chØ vµ tÝn chØ ®­îc hiÓu nh­ sau: Thø nhÊt, về h×nh thøc d¹y vµ häc + Lªn líp: sinh viªn häc tËp trªn líp th«ng qua bµi gi¶ng, h­íng dÉn cña gi¶ng viªn t¹i líp. + Thùc hµnh: Sinh viªn häc tËp th«ng qua thùc hµnh, thùc tËp, lµm thÝ nghiÖm, lµm bµi tËp, ®äc vµ nghiªn cøu tµi liÖu d­íi sù gióp ®ì cña gi¶ng viªn. + Tù häc: sinh viªn tù häc tËp, nghiªn cøu theo h×nh thøc c¸ nh©n, hoÆc tæ, nhãm… Thø hai, giê tÝn chØ lµ ®¹i l­îng dïng ®Ó ®o thêi l­îng lao ®éng häc tËp cña sinh viªn. Giê tÝn chØ ®­îc ph©n thµnh ba lo¹i theo c¬ cÊu h×nh thøc d¹y häc, ®Þnh l­îng thêi gian vµ ®­îc x¸c ®Þnh nh­ sau: + Giê tÝn chØ lªn líp: gåm 1 tiÕt lªn líp vµ 2 tiÕt tù häc + Giê tÝn chØ thùc hµnh: gåm 2 tiÕt thùc hµnh vµ 1 tiÕt tù häc + Giê tÝn chØ tù häc: gåm 3 tiÕt tù häc + Mét tiÕt häc ®­îc tÝnh b»ng 50 phót Thø ba, tÝn chØ lµ ®¹i l­îng x¸c ®Þnh khèi l­îng kiÕn thøc, kü n¨ng (trung b×nh) mµ sinh viªn tÝch luü ®­îc tõ m«n häc trong 15 giê tÝn chØ (cïng lo¹i hoÆc kh¸c lo¹i) ®­îc thùc hiÖn mçi tuÇn 1 giê tÝn chØ vµ kÐo dµi trong mét häc kú gåm 15 tuÇn. TÝn chØ ®­îc sö dông lµm ®¬n vÞ ®Ó tÝch luü khèi l­îng häc tËp cña sinh viªn. Tãm l¹i, qua nh÷ng ®Þnh nghÜa vµ c¸ch hiÓu vÒ tÝn chØ trªn ®©y chóng ta cã thÓ thÊy, tÝn chØ cã ®ặc điểm chung lµ cho phép sinh viên đạt được văn bằng đại học qua việc tích luỹ các loại tri thức giáo dục khác nhau được đo lường bằng một đơn vị xác định, căn cứ trên khối lượng lao động học tập trung bình của một sinh viên. (Một tín chỉ được quy định bằng 15 tiết học lý thuyết, 30 tiết thực hành, thí nghiệm hoặc thảo luận, bằng 60 giờ thực tập tại cơ sở hoặc bằng khoảng 45 giờ làm tiểu luận, bài tập lớn, đồ án hoặc khoá luận tốt nghiệp. Để tiếp thu được một tín chỉ sinh viên phải dành ít nhất 30 giờ chuẩn bị ngoài giờ lên lớp). * LÞch sö cña viÖc d¹y vµ häc theo häc chÕ tÝn chØ - Nguån gèc cña viÖc d¹y vµ häc theo häc chÕ tÝn chØ trªn thế giới Xuất phát từ đòi hỏi quy trình đào tạo phải tổ chức sao cho mỗi sinh viên có thể tìm được cách học thích hợp nhất cho mình, đồng thời trường đại học phải nhanh chóng thích nghi và đáp ứng được những nhu cầu của thực tiễn cuộc sống, vào năm 1872 Viện Đại học Harvard đã quyết định thay thế hệ thống chương trình đào tạo theo niên chế cứng nhắc bằng hệ thống chương trình mềm dẻo cấu thành bởi các môđun mà mỗi sinh viên có thể lựa chọn một cách rộng rãi. Có thể xem sự kiện đó là điểm mốc khai sinh học chế tín chỉ. Đến đầu thế kỷ 20 hệ thống tín chỉ được áp dụng rộng rãi trong hầu hết các trường đại học ở Hoa Kỳ. Tiếp sau đó, nhiều nước lần lượt áp dụng hệ thống tín chỉ trong toàn bộ hoặc một bộ phận của trường đại học của mình như các nước ở Bắc Mỹ, Nhật Bản, Philippin, Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan, Malaisia, Indonesia, ấn Độ, Senegal, Mozambic, Nigeria, Uganda, Camơrun... Tại Trung Quốc, từ cuối thập niên 80 đến nay hệ thống tín chỉ cũng lần lượt được áp dụng ở nhiều trường đại học. Vào năm 1999, 29 bộ trưởng đặc trách giáo dục đại học ở các nước trong Liên minh châu Âu đã ký Tuyên ngôn Boglona nhằm hình thành Không gian Giáo dục đại học Châu Âu thống nhất vào năm 2010, một trong các nội dung quan trọng của Tuyên ngôn đó là triển khai áp dụng học chế tín chỉ trong toàn hệ thống GDĐH để tạo thuận lợi cho việc cơ động hóa, liên thông hoạt động học tập của sinh viên trong khu vực châu Âu và trên thế giới. - Nguån gèc cña viÖc d¹y vµ häc theo häc chÕ tÝn chØ ë Việt Nam Trước năm 1975, một số trường đại học chịu ảnh hưởng của Mỹ tại Miền Nam Việt Nam đã áp dụng học chế tín chỉ như Viện Đại học Cần Thơ, Viện Đại học Thủ Đức … Quá trình “Đổi mới” ở nước ta được tiến hành từ cuối năm 1986, chúng ta chuyển dịch nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, GDĐH ở nước ta cũng có nhiều thay đổi. Hội nghị Hiệu trưởng các trường đại học tại Nha Trang hè 1987 đã đưa ra nhiều chủ trương đổi mới GDĐH, trong đó có chủ trương triển khai trong các trường đại học qui trình đào tạo 2 giai đoạn và môdun-hoá kiến thức. Theo chủ trương đó, học chế “học phần” đã ra đời và được triển khai trong toàn bộ hệ thống các trường đại học và cao đẳng nước ta từ năm 1988 đến nay. Học chế học phần được xây dựng trên tinh thần tích lũy dần kiến thức theo các môđun (môn học) trong quá trình học tập, tức là cùng theo ý tưởng của học chế tín chỉ xuất phát từ Mỹ. Tuy nhiên, về một số phương diện, học chế học phần chưa thật sự mềm dẻo như học chế tín chỉ của Mỹ, do đó nó được gọi là “sự kết hợp niên chế với tín chỉ”, tuy nhiên những khó khăn về đời sống trong xã hội nói chung và trong các trường đại học nói riêng lúc đó chưa cho phép đặt vấn đề thực hiện học chế môđun hóa triệt để. Vào năm 1993, khi những khó khăn chung của đất nước và của các trường đại học dịu bớt, Bộ GD&ĐT chủ trương tiến thêm một bước, thực hiện học chế học phần triệt để hơn, theo mô hình học chế tín chỉ của Mỹ. Trường Đại học Bách khoa TP HCM là nơi đầu tiên áp dụng học chế tín chỉ từ năm 1993, sau đó là các trường Đại học Đà Lạt, Đại học Cần Thơ, Đại học Thủy sản Nha Trang v..v.. và một số trường đại học khác áp dụng từ năm 1994 và các năm sau đó. Hiện nay có gần 10 trường trong cả nước áp dụng học chế tín chỉ với các sắc thái và mức độ khác nhau. Một số đặc điểm của phương thức đào tạo theo niên chế và tín chỉ Đào tạo theo niên chế là phương thức đào tạo theo chương trình định sẵn, bố trí chương trình học tập cụ thể cho sinh viên theo một quy trình được cho là tối ưu với mục tiêu đào tạo đã xác định. Chương trình này được nhà trường sắp xếp dựa trên trình độ chuyên môn cao của giáo viên và kinh nghiệm đào tạo tốt của trường. Sinh viên tiếp thu một cách thụ động chương trình đào tạo đã quy định. Nói cách khác, tổ chức đào tạo đã vạch cho sinh viên một tuyến đường để đi tới mục tiêu đào tạo mà nhất định sinh viên phải theo. Các tổ chức Đoàn, Hội sinh viên được sinh hoạt theo khoá. Một chương trình đào tạo đại học gồm 210 đơn vị học trình. Môn học có thể gồm 1 hay vài học phần (học phần có thể là bắt buộc, lựa chọn hoặc tự do). Kết quả học tập của học phần tự do không được dùng để tích luỹ và tính điểm trung bình chung học tập. Với phương thức đào tạo này, sinh viên chủ yếu tiếp thu kiến thức trên lớp, từ bài giảng của thầy. Đào tạo theo hệ thống tín chỉ có một số đặc điểm chủ yếu sau: + Về phương pháp dạy - học: Coi trọng việc tự học và năng lực thực hành, thực tiễn, nghiên cứu của người học được kiểm tra, đánh giá và tích luỹ vào kết quả học tập của môn học. + Chương trình đào tạo được chia thành các mô đun kiến thức, kỹ năng và có tính tự chọn cao. + Về tổ chức đào tạo: Theo phương thức tích luỹ tín chỉ, tạo thuận lợi cho người học trong việc điều chỉnh mục tiêu, nội dung và thiết kế kế hoạch học tập riêng. Phương thức đào tạo theo tín chỉ trình bày các mục tiêu đào tạo có thể có trong một phạm vi chuyên môn nhất định về khoa học và công nghệ, chỉ dẫn các con đường đi khác nhau để đạt tới mục tiêu này. Sinh viên được phép lựa chọn nội dung, phương thức học tập, kế hoạch học để đạt tới mục tiêu đã chọn. Trong quá trình học có thể tuỳ yêu cầu của xã hội, sở thích và khả năng của mình, sinh viên có thể thay đổi mục tiêu, nội dung, phương pháp học tập. Nhà trường giữ vai trò hướng dẫn, sinh viên giữ quyền tự quyết. Nói một cách hình tượng là, tổ chức đào tạo đã vạch cho sinh viên một bản đồ trên đó có những hướng đi khác nhau mà sinh viên có thể chọn để đi tới mục tiêu đào tạo. Lớp học của phương thức đào tạo theo tín chỉ được tổ chức theo môn học. Sinh viên học theo thời khoá biểu do mình đăng ký. Với phương thức đào tạo theo tín chỉ, một chương trình đào tạo đại học gồm từ 120 đến 140 tín chỉ (chương trình của các trường đào tạo 4 năm với 2 học kỳ mỗi năm theo kiểu Mỹ), riêng ngành Y có thể lên đến 290 tín chỉ, Nha khoa 255 tín chỉ với tổng số thời gian học dài hơn, (ë §HQGHN lµ 120-170 tÝn chØ). Môn học có thể là bắt buộc hoặc tuỳ ý lựa chọn đối với sinh viên. Kết quả môn học mà sinh viên đã chọn vẫn được tính vào điểm trung bình chung học tập. Sinh viên vừa tiếp thu kiến thức trên lớp thông qua bài giảng của giảng viên, vừa thảo luận, làm bài tập trên lớp và tìm kiếm, tích luỹ kiến thức ở ngoài lớp học (qua các tài liệu mà giảng viên yêu cầu đọc, qua các bài tập, thí nghiệm mà giảng viên giao, tự học ở nhà, thư viện…) và phải tích luỹ cho đủ số lượng tín chỉ để tốt nghiệp. 1.1.2. Ưu điểm và nhược điểm của phương thức đào tạo tín chỉ và hiện trạng áp dụng phương thức đào tạo tín chỉ ở Việt Nam * Các ưu điểm của phương thức đào tạo tín chỉ Thứ nhất, hiệu quả trong gi¸o dôc vµ ®µo t¹o Học chế tín chỉ cho phép ghi nhận kịp thời tiến trình tích luỹ kiến thức và kỹ năng của sinh viên để dẫn đến văn bằng. Với học chế này, sinh viên được chủ động thiết kế kế hoạch học tập cho mình, được quyền lựa chọn cho mình tiến độ học tập thích hợp với khả năng, sở trường và hoàn cảnh riêng của mình. Điều đó đảm bảo cho quá trình đào tạo trong các trường đại học trở nên mềm dẻo hơn, đồng thời cũng tạo khả năng cho việc thiết kế chương trình liên thông giữa các cấp đào tạo đại học và giữa các ngành đào tạo khác nhau. Học chế tín chỉ cho phép ghi nhận cả những kiến thức và khả năng tích luỹ được ngoài trường lớp để dẫn tới văn bằng, khuyến khích sinh viên từ nhiều nguồn gốc khác nhau có thể tham gia học đại học một cách thuận lợi. Thứ hai, tính mềm dẻo và khả năng thích ứng cao Với học chế tín chỉ, sinh viên có thể chủ động ghi tên học các học phần khác nhau dựa theo những quy định chung về cơ cấu và khối lượng của từng lĩnh vực kiến thức. Nó cho phép sinh viên dễ dàng thay đổi ngành chuyên môn trong tiến trình học tập khi thấy cần thiết mà không phải học lại từ đầu. Với học chế tín chỉ, các trường đại học có thể mở thêm ngành học mới một cách dễ dàng khi nhận được tín hiệu về nhu cầu của thị trường lao động và tình hình lựa chọn ngành nghề của sinh viên. Học chế tín chỉ cung cấp cho các trường đại học một ngôn ngữ chung, tạo thuận lợi cho sinh viên khi cần chuyển trường cả trong nước cũng như ngoài nước. Thứ ba, đạt hiệu quả cao về mặt quản lý và giảm giá thành đào tạo Với học chế tín chỉ, kết quả học tập của sinh viên được tính theo từng học phần chứ không phải theo năm học, do đó việc hỏng một học phần nào đó không cản trở quá trình học tiếp tục, sinh viên không bị buộc phải quay lại học từ đầu. Chính vì vậy giá thành đào tạo theo học chế tín chỉ thấp hơn so với đào tạo theo niên chế. Nếu triển khai học chế tín chỉ các trường đại học lớn đa lĩnh vực có thể tổ chức những môn học chung cho sinh viên nhiều trường, nhiều khoa, tránh các môn học trùng lặp ở nhiều nơi; ngoài ra sinh viên có thể học những môn học lựa chọn ở các khoa khác nhau. Cách tổ chức nói trên cho phép sử dụng được đội ngũ giảng viên giỏi nhất và phương tiện tốt nhất cho từng môn học. Kết hợp với học chế tín chỉ, nếu trường đại học tổ chức thêm những kỳ thi đánh giá kiến thức và kỹ năng của người học tích luỹ được bên ngoài nhà trường hoặc bằng con đường tự học để cấp cho họ một tín chỉ tương đương, thì sẽ tạo thêm cơ hội cho họ đạt văn bằng đại học. ở Mỹ trê