Vùng ven biển Thanh Hóa có chiều dài 102 km, bao gồm các huyện Nga
Sơn, Hậu Lộc, Hoằng Hóa, Quảng Xương, Tĩnh Gia và thành phố Sầm Sơn, diện
tích đất tự nhiên 99.882 ha, đất nông nghiệp 53.068 ha, chiếm 53,1% diện tích đất
tự nhiên (Cục Thống kê tỉnh Thanh Hóa, 2013). Cây trồng vụ Hè Thu, trên diện
tích canh tác nhờ nước trời người dân trồng đậu xanh và vừng. Cây đậu xanh được
trồng chủ yếu trên đất chuyên màu vùng thấp có độ ẩm tốt trong cơ cấu lạc vụ xuân
- đậu xanh hè - ngô đông hoặc lạc thu đông, rau màu các loại. Tuy nhiên, cho đến
nay người trồng đậu xanh ở Thanh Hóa nói chung và vùng ven biển nói riêng vẫn
chủ yếu đang sử dụng giống đậu xanh địa phương lâu đời (đậu tằm), năng suất thấp
chưa phù hợp cho vùng đất cát ven biển nơi tiềm năng đất đai còn khá lớn.
Bên cạnh đó, đậu xanh chỉ được xem là cây trồng thứ yếu, ít được quan tâm
về các điều kiện canh tác nên năng suất thấp. Mặc dù là cây họ đậu, có khả năng cố
định đạm, nhưng đậu xanh vẫn cần bón bổ sung đạm, lân và kali để hình thành và
cải thiện năng suất (Malik et al., 2003). Trong điều kiện đất cát ven biển, bón phân
đạm sớm có thể kích thích sinh trưởng và thúc đẩy sự hình thành các cơ quan sinh
dưỡng ở thời kỳ sinh trưởng ban đầu, đặc biệt trên đất nghèo vi khuẩn cố định
đạm. Tuy nhiên, bón tập trung lượng phân cùng lúc đối với đất nghèo hữu cơ như
đất cát có thể dẫn đến mất mát do thấm (Nyamangara et al., 2003). Kết quả phân
tích đất cho thấy, đất cát ven biển Thanh Hóa nghèo chất hữu cơ, nghèo đạm và
kali tổng số. Đặc biệt đất cát giữ nước kém và sự thấm chất dinh dưỡng mạnh hơn,
do đó, sử dụng phân bón với liều lượng hợp lý, bón phân nhiều lần và bón vào thời
kỳ sinh trưởng phù hợp là rất cần thiết để nâng cao năng suất đậu xanh trên đất cát.
27 trang |
Chia sẻ: thientruc20 | Lượt xem: 397 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Đánh giá, tuyển chọn giống đậu xanh thích hợp trong điểu kiện nước trời, xây dựng các biện pháp canh tác đậu xanh thích hợp cho vùng đất cát ven biển Thanh Hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
NGUYỄN THẾ ANH
ĐÁNH GIÁ VÀ TUYỂN CHỌN GIỐNG ĐẬU XANH
THÍCH HỢP TRONG ĐIỀU KIỆN NƯỚC TRỜI VÀ XÂY DỰNG
CÁC BIỆN PHÁP CANH TÁC ĐẬU XANH THÍCH HỢP
CHO VÙNG ĐẤT CÁT VEN BIỂN TỈNH THANH HOÁ
Chuyên ngành: Khoa học cây trồng
Mã số: 9 62 01 10
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NHÀ XUẤT BẢN HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP - 2019
2
Công trình hoàn thành tại:
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Vũ Đình Hòa
TS. Nguyễn Thị Chinh
Phản biện 1: PGS.TS. Hà Thị Thanh Bình
Hội Sinh học Việt Nam
Phản biện 2: PGS.TS. Tăng Thị Hạnh
Học viện Nông nghiệp Việt Nam
Phản biện 3: PGS.TS. Trần Thị Trƣờng
Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng Đánh giá luận án cấp Học viện
họp tại:
Học viện Nông nghiệp Việt Nam
Vào hồi giờ phút, ngày tháng năm 2019
Có thể tìm hiểu luận án tại:
Thư viện Quốc gia Việt Nam
Trung tâm Thông tin - Thư viện Lương Định Của (HVN)
1
PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Vùng ven biển Thanh Hóa có chiều dài 102 km, bao gồm các huyện Nga
Sơn, Hậu Lộc, Hoằng Hóa, Quảng Xương, Tĩnh Gia và thành phố Sầm Sơn, diện
tích đất tự nhiên 99.882 ha, đất nông nghiệp 53.068 ha, chiếm 53,1% diện tích đất
tự nhiên (Cục Thống kê tỉnh Thanh Hóa, 2013). Cây trồng vụ Hè Thu, trên diện
tích canh tác nhờ nước trời người dân trồng đậu xanh và vừng. Cây đậu xanh được
trồng chủ yếu trên đất chuyên màu vùng thấp có độ ẩm tốt trong cơ cấu lạc vụ xuân
- đậu xanh hè - ngô đông hoặc lạc thu đông, rau màu các loại. Tuy nhiên, cho đến
nay người trồng đậu xanh ở Thanh Hóa nói chung và vùng ven biển nói riêng vẫn
chủ yếu đang sử dụng giống đậu xanh địa phương lâu đời (đậu tằm), năng suất thấp
chưa phù hợp cho vùng đất cát ven biển nơi tiềm năng đất đai còn khá lớn.
Bên cạnh đó, đậu xanh chỉ được xem là cây trồng thứ yếu, ít được quan tâm
về các điều kiện canh tác nên năng suất thấp. Mặc dù là cây họ đậu, có khả năng cố
định đạm, nhưng đậu xanh vẫn cần bón bổ sung đạm, lân và kali để hình thành và
cải thiện năng suất (Malik et al., 2003). Trong điều kiện đất cát ven biển, bón phân
đạm sớm có thể kích thích sinh trưởng và thúc đẩy sự hình thành các cơ quan sinh
dưỡng ở thời kỳ sinh trưởng ban đầu, đặc biệt trên đất nghèo vi khuẩn cố định
đạm. Tuy nhiên, bón tập trung lượng phân cùng lúc đối với đất nghèo hữu cơ như
đất cát có thể dẫn đến mất mát do thấm (Nyamangara et al., 2003). Kết quả phân
tích đất cho thấy, đất cát ven biển Thanh Hóa nghèo chất hữu cơ, nghèo đạm và
kali tổng số. Đặc biệt đất cát giữ nước kém và sự thấm chất dinh dưỡng mạnh hơn,
do đó, sử dụng phân bón với liều lượng hợp lý, bón phân nhiều lần và bón vào thời
kỳ sinh trưởng phù hợp là rất cần thiết để nâng cao năng suất đậu xanh trên đất cát.
Để góp phần vào việc mở rộng diện tích, hình thành vùng sản xuất hàng hoá
tập trung cho cây đậu xanh trên vùng đất cát nói chung và đất cát ven biển nói riêng
tại tỉnh Thanh Hóa, thì việc tuyển chọn những giống đậu xanh có nhiều đặc điểm tốt,
có thời gian sinh trưởng ngắn, chịu thâm canh, năng suất khá, phổ thích nghi rộng và
kỹ thuật canh tác phù hợp là rất cần thiết.
1.2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1.2.1. Mục tiêu tổng quát
Xác định được một số giống đậu xanh và các biện pháp canh tác thích hợp
cho năng suất và hiệu quả kinh tế cao trong điều kiện canh tác nước trời ở vụ Hè
trên vùng đất cát ven biển tỉnh Thanh Hóa.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Xác định được yếu tố hạn chế chính trong sản xuất đậu xanh trên vùng đất
cát biển tỉnh Thanh Hóa.
- Đánh giá các giống đậu xanh về khả năng chịu hạn trong điều kiện gây hạn
nhân tạo; đánh giá năng suất và tính ổn định năng suất của các giống trên điều kiện
đồng ruộng.
- Tuyển chọn được 1 đến 2 giống đậu xanh có thời gian sinh trưởng (TGST)
ngắn hoặc trung ngày, năng suất cao, chín tập trung thích hợp với điều kiện canh
2
tác nước trời vùng đất cát ven biển tỉnh Thanh Hoá.
- Xác định biện pháp canh tác tổng hợp đậu xanh cho vùng đất cát ven biển
tỉnh Thanh Hoá cho giống được tuyển chọn.
1.3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1.3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu gồm 12 giống đậu xanh, trong đó 11 giống cải tiến thu
nhận từ Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển đậu đỗ, Viện Khoa học Nông nghiệp
Việt Nam và một giống địa phương (Tằm Thanh Hóa) được sử dụng làm đối chứng.
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung đánh giá khả năng chịu hạn ở giai đoạn nảy mầm và cây non
của một số giống đậu xanh, ảnh hưởng của điều kiện hạn đến một số chỉ tiêu sinh
lý và năng suất một số giống đậu xanh trong điều kiện hạn nhân tạo trong nhà có
mái che, tuyển chọn được giống đậu xanh có khả năng chịu hạn, phù hợp với điều
kiện nước trời và xác định biện pháp kỹ thuật canh tác thích hợp (phân bón, thời vụ
trồng, mật độ gieo) cho giống triển vọng ở vùng đất cát biển tỉnh Thanh Hoá. Đồng
thời đánh giá hiệu quả kinh tế của mô hình ứng dụng đồng bộ các biện pháp kỹ
thuật trong sản xuất.
Các thí nghiệm về đánh giá đặc điểm nông sinh học và tuyển chọn giống;
xác định các biện pháp kỹ thuật canh tác và xây dựng mô hình trình diễn được triển
khai tại 3 huyện Nga Sơn, Hoằng Hóa và Tĩnh Gia của tỉnh Thanh Hóa. Các thí
nghiệm đánh giá khả năng chịu hạn trong điều kiện nhân tạo được tiến hành tại
Khoa Nông học, Học viện Nông nghiệp Việt Nam.
Các thí nghiệm được tiến hành từ năm 2011 đến năm 2013/2014.
1.4. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI
- Đề tài xác định các yếu tố hạn chế đến sự phát triển sản xuất đậu xanh ở
vùng đất cát ven biển tỉnh Thanh Hóa, gồm: 1) Thiếu bộ giống có năng suất cao,
chịu điều kiện canh tác nhờ nước trời, ngắn ngày; 2) Quy trình canh tác đậu xanh
phù hợp với điều kiện sinh thái, thời tiết và thổ nhưỡng của vùng đất cát ven biển
chưa hoàn thiện; 3) Đất canh tác đậu xanh là đất nghèo chất hữu cơ, đạm tổng số
và đạm dễ tiêu trong khi đó lượng mưa phân bố không đều trong quá trình sinh
trưởng và phát triển của cây đậu xanh.
- Tuyển chọn được hai giống đậu xanh ĐX16 và ĐX208 thích hợp với vùng
đất cát ven biển tỉnh Thanh Hoá. Giống ĐX208 có thời gian sinh trưởng trong vụ
Xuân và Hè tương ứng là 68 và 63 ngày, năng suất tương ứng là 12,8 và 15,9 tạ/ha.
Giống ĐX16 có thời gian sinh trưởng rất ngắn (61 ngày trong vụ Xuân và 56 ngày
trong vụ Hè), năng suất vụ Xuân đạt 12,2 tạ/ha và vụ Hè đạt 15,2 tạ/ha rất thích hợp
trong cơ cấu luân canh cây trồng của địa phương.
- Xác định được biện pháp canh tác tổng hợp đậu xanh cho vùng đất cát ven
biển tỉnh Thanh Hoá cho hai giống đậu xanh ĐX16 và ĐX208 cho năng suất và hiệu
quả kinh tế cao. Đối với giống ĐX16, thời vụ Hè thu thích hợp từ 10-24/06 hàng
năm, mật độ từ 20-25 cây/m2 và liều lượng bón 40kg N + 60kg P2O5 + 40kg K2O
được bón thúc lần 2 sớm hơn vào thời kỳ 1-2 lá thật và 4-5 lá thật. Đối với giống
3
trung ngày ĐX208, thời vụ từ 13-20/06 hàng năm với mật độ trồng 15-20 cây/m2,
liều lượng phân bón 40kg N + 60kg P2O5 + 40kg K2O và bón thúc 2 lần thời kỳ 1-2
lá thật và 6-7 lá thật.
1.5. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.5.1. Ý nghĩa khoa học
Kết quả nghiên cứu của đề tài là những dẫn liệu khoa học trong việc đánh giá
khả năng chịu hạn, đặc tính nông sinh học của các giống đậu xanh cũng như các
biện pháp kỹ thuật canh tác thích hợp để đạt năng suất, hiệu quả kinh tế cao trên
vùng đất cát ven biển tỉnh Thanh Hóa.
Sản phẩm của đề tài là tài liệu khoa học có giá trị phục vụ cho công tác giảng
dạy và nghiên cứu về cây đậu xanh.
1.5.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài đã tuyển chọn được hai giống đậu xanh (ĐX16
và ĐX208) ngắn ngày, có năng suất cao, ổn định ở cả hai vụ Xuân và vụ Hè, thích
nghi tốt với môi trường, góp phần vào việc bố trí cơ cấu luân canh cây trồng, mở
rộng diện tích trồng đậu xanh tại vùng đất cát ven biển tỉnh Thanh Hóa.
Hoàn thiện quy trình canh tác đậu xanh thích hợp cho vụ Hè tại vùng đất cát
ven biển tỉnh Thanh Hóa, góp phần tăng năng suất, chất lượng và mang lại hiệu quả
kinh tế cao cho người sản xuất.
Kết quả nghiên cứu của đề tài luận án có khả năng áp dụng cho vùng đất cát
ven biển Thanh Hóa, vùng đất cát ven biển miền Trung và các địa phương có điều
kiện đất đai và khí hậu tương tự.
PHẦN 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. VAI TRÒ VÀ GIÁ TRỊ CỦA CÂY ĐẬU XANH
2.1.1. Vai trò của cây đậu xanh trong hệ thống cây trồng nông nghiệp
Cây đậu xanh đóng vai trò vô cùng quan trọng về mặt sinh học, đó là khả
năng cố định ni tơ khí quyển thành đạm cung cấp cho cây nhờ loài vi khuẩn
Rhirobium virgna cộng sinh ở bộ rễ. Lượng đạm cố định được phụ thuộc vào môi
trường đất tương đương 30-60kg N/ha (Poehlman, 1991). Nghiên cứu của nhiều tác
giả cho rằng cho rằng lượng đạm đậu xanh cố định được dao động từ 58-107kg
N/ha/năm (Firth et al., 1973). Đậu xanh có thể trồng xen với sắn, mía, ngô, lạc, cây
ăn quả Trồng đậu xanh xen sắn cho thu nhập gấp 2,88 lần và lượng đất bị mất đi
trong quá trình canh tác giảm 26,29% so với trồng sắn thuần (Nguyễn Thanh
Phương và cs., 2010). Trồng xen canh đậu xanh với mía, đậu chiều, bạc hà, cây ăn
quả năng suất đậu xanh có thể đạt 0,7-1,0 tấn/ha mà không làm suy giảm năng
suất cây trồng chính (Shanmugasundaran et al., 2004).
2.1.2. Giá trị dinh dƣỡng của cây đậu xanh
Đậu xanh là cây thực phẩm ngắn ngày có giá trị dinh dưỡng cao. Hạt đậu
xanh giàu hydratcacbon, protein và các loại vitamin khác. Protein đậu xanh chứa
đầy đủ các axit amin không thay thế và tương đối phù hợp với tiêu chuẩn dinh
dưỡng dành cho trẻ em được tổ chức Nông lương và y tế thế giới đưa ra (Khatik et
al., 2007).
4
Hạt đậu xanh được chế biến thành rất nhiều sản phẩm khác nhau như làm giò,
bánh đậu xanh, đồ xôi, nấu chè, làm miến, làm giá, chế biến bột dinh dưỡng...
(Đường Hồng Dật, 2006).
2.2. NHU CẦU VỀ ĐIỀU KIỆN NGOẠI CẢNH CỦA CÂY ĐẬU XANH
Đậu xanh là cây trồng có nguồn gốc nhiệt đới và nhiệt đới của vùng Trung
, nên khả năng thích ứng với nhiệt độ dao động trong phạm vi rộng từ 16-360C.
Các thời kỳ sinh trưởng phát triển của đậu xanh nhìn chung mẫn cảm với chế độ
chiếu sáng. Hầu hết các giống đậu xanh đều mẫn cảm với phản ứng số lượng (phản
ứng với ngày ngắn). Đậu xanh thích hợp nhất với môi trường pH đạt giá trị trung
tính (6,2-7,2) (Oplinger et al., 1990). Tuy là cây họ đậu, có khả năng cố định đạm
khí trời nhưng đậu xanh vẫn cần bón bổ sung đạm, lân và kali để hình thành và cải
thiện năng suất (Malik et al., 2003). Trong thực tế, liều lượng, sự phối hợp NPK,
thời điểm và số lần bón phụ thuộc nhiều vào loại đất và thành phần cơ giới của đất
(Nguyễn Quốc Khương và cs., 2014). Trên đất thịt pha cát khi bón liều lượng 90kg
N và 120kg P2O5 (Sadeghipour et al., 2010) hoặc bón 90kg K2O trên nền 50-75kg N
và P2O5 (Hussain, 2011) cho 1ha năng suất đậu xanh đạt cao nhất, trong khi đó với
điều kiện đất sét đạt năng suất cao nhất khi bón 70kg N/ha (Azadi et al., 2013).
Trong điều kiện đất cát ven biển, bón phân đạm sớm có thể kích thích sinh trưởng
và thúc đẩy sự hình thành các cơ quan sinh dưỡng ở thời kỳ sinh trưởng ban đầu,
đặc biệt trên đất nghèo vi khuẩn cố định đạm.
2.3. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT ĐẬU XANH TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM
Diện tích đậu xanh thế giới trên 6 triệu héc ta (Nair et al., 2014), trong đó
90% ở châu , sản lượng đậu xanh toàn cầu là 3 triệu tấn. Trong đó, Ấn Độ là
quốc gia sản xuất đậu xanh lớn nhất, theo sau là Trung Quốc, Pakistan và
Myanmar. Ở Ấn Độ, đậu xanh được trồng với diện tích là 3,5 triệu ha và đạt sản
lượng hạt khoảng 1,2 triệu tấn (Nair et al., 2013). Sau Ấn Độ, quốc gia sản xuất
đậu xanh lớn thứ hai trên thế giới là Trung Quốc. Diện tích trồng đậu xanh của
Trung Quốc đạt trên 700.000 ha với sản lượng đậu xanh đạt 980.000 tấn (Nair et
al., 2013). Tại Pakistan diện tích trồng đậu xanh của Pakistan năm 2009 là 231.100
ha với sản lượng 157.400 tấn, năng suất trung bình 0,72 tấn/ha (Aslam et al.,
2013). Ở Myanmar và một số quốc gia như Bangladesh, Sri Lanka cây đậu xanh
cũng là cây trồng quan trọng trong hệ thống nông nghiệp (Ranawake et al., 2012).
Về nhu cầu tiêu thụ đậu xanh tăng từ 22% lên 66% ở các quốc gia khác nhau. Lợi
nhuận tăng thêm hàng năm từ đậu xanh tại Parkistan từ 3,51-4,21 triệu USD
(Shanmugasundaram et al., 2009).
Diện tích sản xuất đậu xanh của Việt Nam qua 4 năm 2012 và 2015 biến
động từ 88.180-98.200ha, diện tích sản xuất đậu xanh năm 2015 giảm so với năm
2012 là 7.250ha. Năng suất đậu xanh bình quân của Việt Nam qua 4 năm biến
động từ 1.026-1.098 kg/ha. Năng suất đậu xanh bình quân của cả nước có xu
hướng tăng dần qua các năm và năng suất đạt cao nhất năm 2015 là 1.098 kg/ha
(Viện Quy hoạch và Thiết kế nông nghiệp, 2016).
5
2.4. BIỆN PHÁP KỸ THUẬT CANH TÁC ĐẬU XANH
Trên thế giới, cây đậu xanh được quan tâm nghiên cứu ở các trung tâm đặt ở
nhiều quốc gia, tập trung ở châu . Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Rau màu
châu (Trung tâm Rau thế giới - AVRDC) và các trung tâm vùng như Trung tâm
vùng châu (Bangkok, Thái Lan), Trung tâm vùng châu Phi (Arusha, Tanzania),
Trung tâm vùng Nam (Hyderabad, Ấn Độ) đã và đang tiến hành nghiên cứu khá
toàn diện về cây đậu xanh. Kết quả nghiên cứu và đánh giá nguồn gen đậu xanh
đáng chú ý nhất trong thời gian gần đây đã được thực hiện bởi sự hợp tác giữa các
Trung tâm Nghiên cứu Nông nghiệp Nhiệt đới (Nhật Bản), Trung tâm Nghiên cứu
Cây trồng Chinat (Thái Lan), Viện Tài nguyên Cây trồng Quốc gia Nhật Bản và
AVRDC. Trong chương trình nghiên cứu này có 497 mẫu đã được sử dụng cho việc
đánh giá kiểu sinh trưởng, 651 mẫu cho việc đánh giá đặc điểm hạt và 590 mẫu cho
việc đánh giá sự đa dạng protein. Hầu hết các mẫu giống này đều được cung cấp bởi
các ngân hàng gen của AVRDC, Trường Đại học Tokyo và Viện Tài nguyên Cây
trồng Quốc gia Nhật Bản. Thời vụ gieo trồng đậu xanh phụ thuộc vào rất nhiều yếu
tố như điều kiện sinh thái, thổ nhưỡng, cơ cấu cây trồng, giống...
Thời vụ gieo trồng thích hợp là một trong các tác nhân tạo điều kiện cho đậu
xanh đạt được năng suất tối ưu (Shanmugasundaran et al., 2004). Thời vụ gieo
trồng đậu xanh khác nhau giữa các nước, thậm chí khác nhau giữa các vùng khí
hậu trong mỗi nước (Lawn and Ahn, 1985). Ở Việt Nam, thời vụ gieo đối với đậu
xanh tuỳ thuộc vào vùng sinh thái. Đối với các tỉnh miền Bắc trong vụ Xuân gieo
trong tháng 3, từ phía Nam Thanh Hoá trở vào ấm hơn nên có thể gieo từ cuối
tháng 2 để tránh gió lào tháng 4. Vụ Hè nên gieo đậu xanh từ đầu đến giữa tháng 5,
vụ Thu Đông tốt nhất là trong tháng 8 (Lê Khả Tường, 2000; Đồng Văn Đại,
1997).
Ở Ấn độ, đậu xanh trồng trong mùa khô (mùa Hè) mật độ thích hợp là (50
cây/m2 (khoảng cách gieo là 20 cm x 10 cm) còn trong mùa mưa mật độ gieo thích
hợp là 33 cây/m2 (khoảng cách 30 cm x 10 cm) (Ahlawat and Rana, 2002). Tại
Bangladesh, trong mùa mưa thời tiết thuận lợi cho sự sinh trưởng phát triển của
cây đậu xanh do đó gieo với khoảng cách 30 cm x 10 cm cho năng suất hạt cao hơn
so với khoảng cách 20 cm x 20 cm hoặc 40 cm x 30 cm (Kabir and Sarkar, 2008).
Ở Pakistan, khoảng cách giữa các hàng là 20cm thì đậu xanh đạt năng suất cao
nhất. Ở Philippines, khoảng cách giữa hàng được khuyến cáo là 50-70cm. Phạm
Văn Thiều (1999) khuyến cáo mật độ gieo theo đặc điểm sinh trưởng của giống
đậu xanh. Những giống thấp cây, ít cành cần được gieo dày 40-50 cây/m2, nhưng
những giống cây cao, nhiều cành cần được trồng thưa hơn 30-40 cây/m2. Hầu hết
các giống đậu xanh mới có tiềm năng năng suất cao đều sinh trưởng, phát triển
thích hợp ở mật độ 25 - 30 cây/m2. Khi trồng với mật độ quá thưa hoặc quá dày
đều cho năng suất thấp hơn (Đường Hồng Dật, 2006).
Sekhon et al. (1987) cho rằng, bón phân đạm với liều lượng 15 kg/ha ở giai
đoạn làm hạt có thể làm tăng năng suất hạt tới 18%, ngược lại, bón đạm vào giai
đoạn trước khi ra hoa chỉ làm tăng sự sinh trưởng thân lá. Sadeghipour et al.
6
(2010) báo cáo rằng bón 90kg N và 120kg P2O5/ha, năng suất đậu xanh đạt cao
nhất. Nghiên cứu của nhiều tác giả cho thấy bên cạnh việc tăng năng suất, phân
lân làm tăng số quả/cây (Dhage et al., 1984) khối lượng 1000 hạt và số lượng nốt
sần (Khatik et al., 2007). Nguyễn Ngọc Quất và cs. (2014) đã khuyến cáo lượng
phân bón thích hợp cho cây đậu xanh cho các vùng trồng chính để đạt năng suất
và hiệu quả kinh tế cao. Đối với vùng đất bãi ven sông ở các tỉnh phía Bắc (giống
ĐX14) bón phân NPK theo tỷ lệ 40:60:40 ở mật độ 20 cây/m2. Đối với các tỉnh
duyên hải Nam Trung Bộ (giống NBT02 - D22), bón phân cho đậu xanh theo tỷ lệ
20N:30P:30K và gieo trồng đậu xanh ở mật độ 25 cây/m2 đậu xanh cho năng suất
thực thu cao nhất. Đối với các tỉnh Đồng bằng Sông Cửu Long (giống HLĐX10),
lượng phân bón thích hợp là 40N + 60 P2O5 + 60 K2O + 300kg vôi/ha + 5-10 tấn
phân chuồng hoặc phân hữu cơ vi sinh kết hợp phun bổ sung phân bón lá 3 lần
trước, trong và sau khi ra hoa 7 ngày sẽ đạt năng suất thực thu đậu xanh cao nhất.
2.5. KHẢ NĂNG CHỊU HẠN Ở ĐẬU XANH
Đậu xanh được cho là cây rất nhạy cảm với thiếu hụt nước hơn so với các
cây đậu đỗ lấy hạt khác (Pandey et al., 1984). Kumar et al. (2013) đã chỉ ra rằng,
thiếu nước làm giảm diện tích lá, tốc độ sinh trưởng, sự tăng trưởng bộ rễ, số lượng
nốt sần, cường độ quang hợp, hàm lượng chlorophyl và carotenoit, khả năng ra hoa
và hình thành quả, khả năng tích lũy chất khô và năng suất hạt. Các giống (Pusa
Baisakhi và MH-1 K-24) nhạy cảm với khô hạn cho thấy có sự giảm mạnh các chỉ
tiêu sinh lý nêu trên và phục hồi chậm cường độ quang hợp. Giống có khả năng
chịu hạn (T44 và MH-96-1) duy trì cường độ quang hợp, hàm lượng chlorophyl và
carotenoit, tốc độ sinh trưởng cao dưới điều kiện thiếu hụt nước. Ở Việt Nam, mưa
là nguồn cung cấp nước chủ yếu cho sản xuất đậu xanh, chỉ có một số rất ít vùng
có khả năng chủ động nguồn nước tưới (Vũ Ngọc Thắng và cs., 2011). Đánh giá
khả năng chịu hạn của 2 giống đậu xanh ĐX22 và ĐXVN5 ở 3 thời kỳ bắt đầu ra
hoa, ra hoa rộ, quả vào chắc trong điều kiện chậu vại, sử dụng đất phù sa sông
Hồng không được bồi hàng năm cho thấy nếu hạn ở thời kỳ bắt đầu ra hoa cây có
khả năng phục hồi tốt hơn và ảnh hưởng giảm năng suất nhẹ hơn ở các giai đoạn
sau (Vũ Ngọc Thắng và cs., 2012). Sự suy giảm năng suất mạnh nhất khi thiếu
nước ở thời kỳ quả mẩy, giống ĐX22 có khả năng chịu hạn tốt hơn giống ĐXVN5.
Kết quả nghiên cứu này đã góp phần xác định phương pháp đánh giá khả năng chịu
hạn của đậu xanh phù hợp với điều kiện nghiên cứu ở nước ta.
Thách thức lớn với các nhà chọn giống đậu xanh là tạo được giống có khả
năng chịu hạn, có năng suất cao trong điều kiện khô hạn (Naresh et al., 2013). Tại
Philippines, Indonesia và Ấn Độ đã xác định được các giống có tên là BPI Mg7,
Merpati, SML-668 và Pusa Vishal. Đây là những nguồn gen kháng hạn nhưng
đồng thời cũng có tiềm năng năng suất cao với 1.300-1.500 kg/ha, tăng >20% so
với các giống địa phương trong vùng nước trời. Ở Việt Nam, các giống đậu xanh
được công nhận là có khả năng chịu hạn khá bao gồm T135, KPS1, V123 và
KPS1, ĐX14 (Nguyễn Ngọc Quất, 2008).
7
2.6. THỜI TIẾT, KHÍ HẬU, ĐẤT CÁT VEN BIỂN VÀ HIỆN TRẠNG SẢN
XUẤT ĐẬU XANH TẠI THANH HÓA
Hoá có nền nhiệt độ cao, nhiệt độ trung bình năm khoảng 230C - 240C, tổng
nhiệt độ năm vào khoảng 8.5000C - 8.7000C. Độ ẩm trung bình các tháng hàng
năm khoảng 85%. Lượng mưa trung bình năm từ 1.456,6 - 1.762,6 mm, nhưng
phân bố rất không đều giữa hai mùa và lớn dần từ Bắc vào Nam và từ Tây sang
Đông. Tổng số giờ nắng bình quân trong năm từ 1.600 - 1.800 giờ (Trung tâm Khí
tượng thủy văn Thanh Hóa, 2012).
Thanh Hoá có 8 nhóm đất chính với 20 loại đất khác nhau; trong đó, Nhóm
đất cát: Diện tích 20.247 ha, chiếm 1,82% diện tích tự nhiên, phân bố tập trung ở
các huyện ven biển (UBND tỉnh Thanh Hóa, 2015).
Đậu xanh là cây trồng truyền thống của nông dân Thanh Hoá, nhưng diện tích
manh mún, sản xuất mang tính tự cung tự cấp. Nông dân coi cây đậu xanh là cây
trồng thêm