Trong những năm qua, tài trợ sự kiện nhận được nhiều sự quan tâm
của các doanh nghiệp, họ coi như là một chiến lược truyền thông để
tiếp cận công chúng mục tiêu của mình. Nhìn vào số liệu của IEG
(2017), năm 2016 đầu tư trên toàn thế giới cho hoạt động tài trợ
thương mại đạt khoảng 60,1 tỷ USD so với 37,9 tỷ USD trong năm
2007 (IEG, 2017). Dự kiến năm 2017, chi tiêu cho hoạt động tài trợ
thương mại trên toàn cầu ước đạt khoảng 62,8 tỷ USD (IEG 2017).
Hai lý do phổ biến nhất khi các công ty tham gia vào tài trợ sự
kiện là: (1) tăng nhận biết thương hiệu, và (2) thiết lập, tăng cường
hoặc thay đổi hình ảnh thương hiệu (Cornwell và Maignan, 1998;
Gwinner, 1997). Tuy nhiên, các nghiên cứu trước đây lại chủ yếu tập
trung nghiên cứu về ảnh hưởng của tài trợ sự kiện đến nhận biết
thương hiệu của nhà tài trợ. Trong khi đó, nghiên cứu về ảnh hưởng
của hình ảnh sự kiện được tài trợ đến hình ảnh thương hiệu của nhà
tài trợ lại ít được chú ý (Abreu Novais và Arcodia, 2013; Meenaghan
và O'Sullivan, 2001; Lee và cộng sự, 1997; Smith, 2004; Zdravkovic
và Till, 2012). Ngoài ra, các nghiên cứu về hình ảnh thương hiệu chỉ
diễn ra trong lĩnh vực tài trợ thể thao (Grohs và cộng sự, 2004).
Mặc dù, các nghiên cứu trên thế giới đều khẳng định ảnh hưởng
tích cực của hình ảnh sự kiện đến hình ảnh thương hiệu của nhà tài
trợ, tuy nhiên điều này chưa được kiểm chứng tại Việt Nam, với bối
cảnh kinh tế xã hội có những điểm khác biệt với các quốc giá khác.
Đặc biệt, một thương hiệu bia tài trợ sự kiện âm nhạc, văn hóa xã
hội là một thỏa thuận tài trợ khá phổ biến hiện nay không chỉ ở Việt
Nam mà còn ở trên thế giới.
Xuất phát từ những phân tích ở trên, đề tài: “Ảnh hưởng của hình
ảnh sự kiện được tài trợ đến hình ảnh thương hiệu của nhà tài trợ:
nghiên cứu trường hợp Habeco tài trợ cho sự kiện Happy Colour
Run” được lựa chọn để tiến hành nghiên
13 trang |
Chia sẻ: thientruc20 | Lượt xem: 617 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tóm tắt Luận án Ảnh hưởng của hình ảnh sự kiện được tài trợ đến hình ảnh thương hiệu của nhà tài trợ: Nghiên cứu trường hợp Habeco tài trợ cho sự kiện Happy Colour Run, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Lý do lựa chọn đề tài
Trong những năm qua, tài trợ sự kiện nhận được nhiều sự quan tâm
của các doanh nghiệp, họ coi như là một chiến lược truyền thông để
tiếp cận công chúng mục tiêu của mình. Nhìn vào số liệu của IEG
(2017), năm 2016 đầu tư trên toàn thế giới cho hoạt động tài trợ
thương mại đạt khoảng 60,1 tỷ USD so với 37,9 tỷ USD trong năm
2007 (IEG, 2017). Dự kiến năm 2017, chi tiêu cho hoạt động tài trợ
thương mại trên toàn cầu ước đạt khoảng 62,8 tỷ USD (IEG 2017).
Hai lý do phổ biến nhất khi các công ty tham gia vào tài trợ sự
kiện là: (1) tăng nhận biết thương hiệu, và (2) thiết lập, tăng cường
hoặc thay đổi hình ảnh thương hiệu (Cornwell và Maignan, 1998;
Gwinner, 1997). Tuy nhiên, các nghiên cứu trước đây lại chủ yếu tập
trung nghiên cứu về ảnh hưởng của tài trợ sự kiện đến nhận biết
thương hiệu của nhà tài trợ. Trong khi đó, nghiên cứu về ảnh hưởng
của hình ảnh sự kiện được tài trợ đến hình ảnh thương hiệu của nhà
tài trợ lại ít được chú ý (Abreu Novais và Arcodia, 2013; Meenaghan
và O'Sullivan, 2001; Lee và cộng sự, 1997; Smith, 2004; Zdravkovic
và Till, 2012). Ngoài ra, các nghiên cứu về hình ảnh thương hiệu chỉ
diễn ra trong lĩnh vực tài trợ thể thao (Grohs và cộng sự, 2004).
Mặc dù, các nghiên cứu trên thế giới đều khẳng định ảnh hưởng
tích cực của hình ảnh sự kiện đến hình ảnh thương hiệu của nhà tài
trợ, tuy nhiên điều này chưa được kiểm chứng tại Việt Nam, với bối
cảnh kinh tế xã hội có những điểm khác biệt với các quốc giá khác.
Đặc biệt, một thương hiệu bia tài trợ sự kiện âm nhạc, văn hóa xã
hội là một thỏa thuận tài trợ khá phổ biến hiện nay không chỉ ở Việt
Nam mà còn ở trên thế giới.
2
Xuất phát từ những phân tích ở trên, đề tài: “Ảnh hưởng của hình
ảnh sự kiện được tài trợ đến hình ảnh thương hiệu của nhà tài trợ:
nghiên cứu trường hợp Habeco tài trợ cho sự kiện Happy Colour
Run” được lựa chọn để tiến hành nghiên cứu.
1.2. Mục tiêu, câu hỏi nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu nghiên cứu
- Một là, phát triển thang đo ảnh hưởng của hình ảnh sự kiện
được tài trợ đến hình ảnh thương hiệu của nhà tài trợ.
- Hai là, xác định mức độ ảnh hưởng của từng khía cạnh chức
năng, biểu tượng và trải nghiệm của hình ảnh sự kiện được tài trợ
đến từng khía cạnh chức năng, biểu tượng và trải nghiệm của hình
ảnh thương hiệu nhà tài trợ.
Dựa vào kết quả nghiên cứu về tác động nói trên, đề xuất một số
gợi ý cho các nhà quản trị nhằm nâng cao hình ảnh thương hiệu của
nhà tài trợ khi tham gia tài trợ sự kiện.
1.2.2 Câu hỏi nghiên cứu:
• Hình ảnh sự kiện được tài trợ có ảnh hưởng như thế nào tới hình
ảnh thương hiệu nhà tài trợ?
• Những khía cạnh nào của hình ảnh sự kiện (chức năng, biểu tượng,
trải nghiệm) sẽ tác động mạnh nhất tới những khía cạnh hình ảnh
thương hiệu (chức năng, biểu tượng, trải nghiệm) của nhà tài trợ?
• Thái độ đối với tài trợ và sự phù hợp nhận thức ảnh hưởng như
thế nào tới tác động của hình ảnh sự kiện được tài trợ đến hình ảnh
thương hiệu nhà tài trợ?
1.2.3 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan tình hình nghiên cứu ở trong nước và ngoài nước
về: hình ảnh sự kiện, hình ảnh thương hiệu; xem xét tác động của
3
hình ảnh sự kiện được tài trợ đến hình ảnh thương hiệu của nhà tài
trợ trên các khía cạnh chức năng, biểu tượng và trải nghiệm.
- Xây dựng, kiểm định mô hình nghiên cứu về ảnh hưởng của hình
ảnh sự kiện được tài trợ đến hình ảnh thương hiệu của nhà tài trợ
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Vấn đề nghiên cứu: Ảnh hưởng của hình ảnh sự kiện được tài
trợ đến hình ảnh thương hiệu của nhà tài trợ (trường hợp nghiên cứu
Habeco tài trợ cho sự kiện Happy Colour Run).
- Về thời gian: tiến hành nghiên cứu từ tháng 6 năm 2016 đến
tháng 6 năm 2017.
1.4. Cách tiếp cận nghiên cứu
- Phân tích dữ liệu thứ cấp: (1) Tổng hợp số liệu thống kê và phân
tích; (2) Phân tích và tổng hợp lý thuyết; (3) Phân loại và hệ thống hóa
lý thuyết; (4) mô hình hóa; (5) tư duy khoa học diễn dịch và quy nạp.
- Dữ liệu định tính: gỡ băng, xử lý thủ công (tổng hợp ý kiến, đếm
tần suất số từ quan trọng, ghi chép những câu trả lời quan trọng.)
- Dữ liệu định lượng: xử lý bằng phương pháp thống kê, phân tích
EFA, CFA, Phân tích cấu trúc tuyến tính (SEM) để kiểm định độ phù
hợp mô hình và các gả thuyết với phần mềm SPSS và AMOS.
1.5. Những đóng góp mới
1.5.1 Những đóng góp mới của luận án về mặt lý luận.
- Luận án này kiểm định ảnh hưởng của hình ảnh sự kiện được tài
trợ đến hình ảnh thương hiệu nhà tài trợ trong sự kiện văn hóa xã hội,
một lĩnh vực có nhiều sự khác biệt so với lĩnh vực thể thao.
- Luận án đã chứng mình ảnh hưởng của hình ảnh sự kiện được tài
trợ đến hình ảnh thương hiệu nhà tài trợ trên cả ba khía cạnh chức năng,
biểu tượng và trải nghiệm.
4
- Cũng trong bối cảnh sự kiện văn hóa xã hội, thái độ đối với tài
trợ và sự phù hợp nhận thức giữa sự kiện được tài trợ với thương
hiệu nhà tài trợ là một yếu tố quan trọng trong quá trình chuyển đổi
hình ảnh từ sự kiện được tài trợ sang thương hiệu nhà tài trợ. Luận án
còn kiểm định sự tác động đồng thời của hai yếu tố trên đến quá trình
chuyển đổi hình ảnh.
1.5.2 Những đóng góp mới của luận án về mặt thực tiễn
- Nhà quản trị thương hiệu nên biết rõ hình ảnh sự kiện khi quyết
định tham gia vào tài trợ sự kiện, mục tiêu định vị thương hiệu có thể
được hoàn thành một phần thông qua tài trợ sự kiện.
- Nhà quản trị thương hiệu nếu muốn nâng cao hình ảnh thương hiệu
ở khá cạnh nào cũng cần xem xét khía cạnh nào của hình ảnh sự kiện sẽ
có tác động mạnh nhất tới hình ảnh thương hiệu.
- Nhà quản trị thương hiệu cần quan tâm đến sự phù hợp nhận
thức giữa sự kiện với thương hiệu cũng như thái độ đối với tài trợ.
1.6. Bố cục của luận án
Luận án được trình bày thành 5 chương với những nội dung như sau: Giới
thiệu chung về nghiên cứu; Tổng quan nghiên cứu; Bối cảnh và phương pháp
nghiên cứu; Kết quả nghiên cứu; Kết luận và hàm ý với nhà quản trị
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN NGHIÊN
CỨU VỀ ẢNH HƯỞNG CỦA HÌNH ẢNH SỰ KIỆN ĐƯỢC TÀI
TRỢ ĐẾN HÌNH ẢNH THƯƠNG HIỆU CỦA NHÀ TÀI TRỢ
2.1 Cơ sở lý thuyết về tài trợ sự kiện
2.1.1. Khái niệm về sự kiện và hình ảnh sự kiện
2.1.1.1 Khái niệm về sự kiện
Sự kiện hay sự kiện đặc biệt được định nghĩa như là “nghi lễ, lễ
kỷ niệm, buổi biểu diễn hay chương trình đặc biệt, với mục đích tạo
5
ra để đánh dấu một hoạt động hay một thời điểm cụ thể, hoặc để đạt
mục đích xã hội, văn hóa hay mục đích của công ty, bao gồm các
hoạt động văn hóa, hoạt động thể thao, giới thiệu sản phẩm, lễ hội
âm nhạc,...” (Getz, 2005).
2.1.1.2 Hình ảnh sự kiện
Tương tự như thương hiệu, các sự kiện thể thao, văn hóa, âm
nhạc, nghệ thuật và triển lãm nghệ thuật, ... cũng chia sẻ những đặc
điểm và những liên kết nhất định (Grohs và Reisinger, 2014). Theo
đó, dựa vào định nghĩa về hình ảnh thương hiệu của Keller (1993),
Grohs và Reisinger (2014) đã định nghĩa hình ảnh sự kiện là “những
nhận thức về một sự kiện được phản ảnh bởi những liên hệ sự kiện
trong tâm trí người tiêu dùng.”
2.1.1.3 Các nhóm công chúng của sự kiện
Mối một sự kiện sẽ có những công chúng rất khác nhau. Theo
Coppetti và cộng sự (2004), công chúng có thể được phân loại theo
các nhóm sau: công chúng xem trực tiếp so với công chúng xem phát
lại; công chúng tại sự kiện và không tại sự kiện; sự gắn kết của công
chúng với sự kiện.
2.1.2. Khái niệm về tài trợ sự kiện
Tài trợ sự kiện đã được định nghĩa dưới nhiều góc độ khác nhau
(ví dụ, Bruhn, 2004; Derbaix và cộng sự, 1994; Drees, 1992;
Meenaghan, 1983; Sandler và Shani, 1989). Từ những khái niệm, có
thể thấy tài trợ sự kiện liên quan đến hai chủ thể chính: Nhà tài trợ và
chủ thể nhận tài trợ
Ngoài ra, trong số các định nghĩa được các tác giả đưa ra ở trên,
có thể chia thành hai nhóm chính (Hermanns và Marwitz, 2008): một
nhóm tiếp cận định nghĩa theo hướng quy trình (Bruhn, 2004) và
6
nhóm còn lại tiếp cận định nghĩa theo hướng truyền thông (Drees,
1992; Sandler và Shani, 1989).
2.1.3. Mục tiêu tài trợ sự kiện của nhà tài trợ
Những lý do cam kết tài trợ của nhà tài trợ đã được thảo luận
nhiều trong các tài liệu và được kiểm chứng thông qua các điều tra
thực nghiệm. Nhìn chung có bảy mục tiêu chính của tài trợ sự kiện
đối với nhà tài trợ (Meenaghan, 1983; Bruhn, 1986; Drees, 1989;
Crowley, 1991): Nâng cao nhận biết /nhận thức thương hiệu; Thay
đổi hoặc nâng cao hình ảnh thương hiệu; Thể hiện lòng mến khách;
Chứng minh sự đổi mới và tính năng sản phẩm; Xúc tiến bán; Nâng
cao tính thần của nhân viên; Mục tiêu cá nhân.
2.2 Cơ sở lý thuyết về thương hiệu và hình ảnh thương hiệu
2.2.1 Khái niệm về thương hiệu
Có rất nhiều định nghĩa về thương hiệu. Tuy nhiên, hầu hết những
định nghĩa đều đứng trên hai quan điểm chính: quan điểm thứ nhất tập
trung vào vấn đề chuyên môn từ khía cạnh của chủ sở hữu và quan
điểm thứ hai tập trung vào khía cạnh tác động của thương hiệu đến
tâm trí của người tiêu dùng (Esch và Langner, 2001). Với quan điểm
đầu tiên, Aaker (1991) cho rằng “Thương hiệu là biểu tượng hay tên
gọi (chẳng hạn logo, tên hay thiết kế) nhằm mục đích xác định hàng
hóa và dịch vụ của một hoặc một nhóm người bán này với hàng hóa
và dịch vụ của đối thủ cạnh tranh”.
Trong khi đó, quan điểm dựa vào tác động, lại xem xét những gì
thương hiệu sẽ gợi lên trong tâm trí của người tiêu dùng và làm thế
nào thương hiệu ảnh hưởng tới hành vi của họ. Từ quan điểm đó,
thương hiệu có thể được mô tả như là “tập hợp những nhận thức
trong tâm trí của người tiêu dùng” (Feldwick, 1996).
7
2.2.2 Tài sản thương hiệu dựa vào khách hàng
Tài sản thương hiệu là một trong những chủ đề marketing nóng
nhất trong những thập kỷ qua. Keller (1993) đã định nghĩa tài sản
thương hiệu “như là những tác động khác nhau của kiến thức thương
hiệu đến những phản hồi của người tiêu dùng đối với hoạt động
marketing của thương hiệu.”
Bên cạnh đó, theo Aaker (1991), tài sản thương hiệu bao gồm
năm thành tố chính là nhận biết thương hiệu, liên kết thương hiệu,
trung thành thương hiệu, chất lượng cảm nhận và những tài sản khác
gắn với thương hiệu, như bằng sáng chế, phát minh .
Như vậy, tài sản thương hiệu theo mô tả của Aaker (1991) và Keller
(1993) bao gồm bốn yếu tố chính: nhận biết thương hiệu, hình ảnh thương
hiệu, lòng trung thành thương hiệu và chất lượng cảm nhận.
Tài sản thương hiệu dựa vào khách hàng có thể được đo lường dựa
trên hai phương pháp tiếp cận cơ bản (Keller, 1993): phương pháp tiếp
cận trực tiếp và phương pháp tiếp cận gián tiếp. Trong bối cảnh tài trợ,
phương pháp tiếp cận gián tiếp để đo lường tài sản thương hiệu là hữu
ích hơn, khi kiến thức của người tiêu dùng đối với việc tham gia tài trợ
của công ty trở thành một phần của tài sản thương hiệu của họ.
2.2.3 Hình ảnh thương hiệu
Keller (1993) đã định nghĩa hình ảnh thương hiệu như là “những
nhận thức về một thương hiệu được phản ảnh bởi những liên kết
thương hiệu trong tâm trí người tiêu dùng.”
Ngoài ra, theo Wu và Wang (2014) hình ảnh thương hiệu có thể
được chia thành ba cấu trúc: chức năng, biểu tượng và trải nghiệm và
được chi tiết như sau:
(1) Hình ảnh về mặt chức năng: chức năng sản phẩm có thể giúp
8
người tiêu dùng giải quyết những vấn đề và ngăn chặn những vấn đề
tiềm tàng của họ.
(2) Hình ảnh về mặt biểu tượng: Thương hiệu có thể thỏa mãn
những mong muốn nội tại của người tiêu dùng chẳng hạn như nâng
cao giá trị bản thân, địa vị xã hội, sự tự thừa nhận, ...
(3) Hình ảnh về mặt trải nghiệm: thương hiệu có thể làm thỏa
mãn những theo đuổi và những kích thích đa dạng của người tiêu
dùng nhằm cung cấp cho họ những niềm vui được trải nghiệm.
2.3 Tổng quan nghiên cứu về ảnh hưởng của hình ảnh sự kiện
được tài trợ đến hình ảnh thương hiệu của nhà tài trợ
2.3.1 Những khía cạnh nghiên cứu về tài trợ sự kiện
Walliser (2003) đã xác định được năm luồng nghiên cứu chủ yếu
về tài trợ sự kiện: (1) bản chất của tài trợ sự kiện, (2) khía cạnh quản
trị của tài trợ sự kiện, (3) đánh giá ảnh hưởng của tài trợ sự kiện, (4)
sử dụng chiến lược tài trợ sự kiện, (5) xem xét về khía cạnh luật pháp
và đạo được trong tài trợ sự kiện.
2.3.2 Chuyển đổi hình ảnh trong tài trợ sự kiện
2.3.2.1 Chuyển đổi hình ảnh từ sự kiện được tài trợ sang hình ảnh
thương hiệu của nhà tài trợ
Xuất phát từ nghiên cứu người bảo chứng nổi tiếng, khái niệm
chuyển đổi hình ảnh đã được McCracken (1989) định nghĩa như là
“sự tồn tại có ý nghĩa của người nổi tiếng và được chuyển đổi một
phần cho thương hiệu hay sản phẩm thông qua quảng cáo thực
chứng.” Gwinner (1997) đã mở rộng phạm vi ứng dụng của chuyển
đổi hình ảnh thương hiệu trong các sự kiện bằng việc lập luận rằng
một sự kiện được tài trợ cũng có những thuộc tính và ý nghĩa như
9
những người bảo chứng nổi tiếng, có thể chuyển đổi một phần và
gián tiếp đến thương hiệu của nhà tài trợ.
2.3.2.2 Chuyển đổi hình ảnh từ thương hiệu nhà tài trợ sang sự kiện
được tài trợ
Hầu hết các nghiên cứu đều liên quan đến chuyển đổi hình ảnh từ
chủ thể nhận tài trợ sang nhà tài trợ. Tuy nhiên, một vài tác giả lựa chọn
nghiên cứu chuyển đổi hình ảnh ngược lại để điều tra xem nếu hình ảnh
thương hiệu của nhà tài trợ thực sự có thể chuyển đổi tới hình ảnh của
chủ thể nhận tài trợ hay không (Chẳng hạn, Charbonneau và Garland,
2010; Henseler và cộng sự, 2009).
2.3.3 Mô hình nghiên cứu ảnh hưởng của hình ảnh sự kiện được
tài trợ đến hình ảnh thương hiệu nhà tài trợ.
Chuyển đổi hình ảnh là khái niệm trung tâm của các nghiên cứu về
ảnh hưởng của tài trợ sự kiện đến hình ảnh thương hiệu (Ganassali và
Didellon, 1996; Gwinner, 1997), các học giả đã giới thiệu một số mô
hình nhằm chỉ ra tài trợ sự kiện ảnh hưởng đến hình ảnh thương hiệu.
2.3.3.1 Mô hình của Gwinner (1997)
Dựa trên mô hình “Chuyển đổi ý nghĩa trong quá trình bảo
chứng” của McCracken (1989). Gwinner (1997) cho rằng việc mở
rộng khái niệm chuyển đổi ý nghĩa từ nghiên cứu người bảo chứng
nổi tiếng, từ đó ông gợi ý rằng những sự kiện cũng hoạt động theo
cách thức tương tự như người bảo chứng trong chuyển đổi hình ảnh
thương hiệu tài trợ. Thông qua tài trợ, một hình ảnh của sự kiện có
thể khác biệt tương đối so với các nhóm người tiêu dùng khác nhau,
có thể được chuyển đổi thông qua liên kết với sản phẩm tài trợ.
2.3.3.2 Mô hình của Santos và cộng sự (2008)
Santos và cộng sự (2008) cho rằng hiện tài đang có rất ít những
10
nghiên cứu về ảnh hưởng của hình ảnh sự kiện được tài trợ tới hình ảnh
thương hiệu nhà tài trợ trên từ khía cạnh cụ thể của hình ảnh thương
hiệu. Chính vì vậy, Santos và cộng sự (2008) đã phát triển mô hình để
kiểm tra mối quan hệ nhân quả của quá trình chuyển đổi hình ảnh.
2.4 Mô hình và các giả thuyết nghiên cứu
2.4.1 Khoảng trống nghiên cứu
2.4.1.1 Chuyển đổi hình ảnh thương hiệu và phản ứng của người
tiêu dùng đối với tài trợ
Nghiên cứu về ảnh hưởng của hình ảnh sự kiện được tài trợ
đến hình ảnh thương hiệu của nhà tài trợ đang còn rất hạn chế (Abreu
Novais và Arcodia, 2013; Meenaghan và O'Sullivan, 2001; Lee và
cộng sự, 1997; Smith, 2004; Zdravkovic và Till, 2012). Bên cạnh đó,
có rất ít nghiên cứu thực nghiệm về hình ảnh thương hiệu mà hầu hết
chỉ diễn ra trong lĩnh vực tài trợ thể thao (Grohs và cộng sự, 2004).
Đặc biệt, thiếu những nghiên cứu về ảnh hưởng của hình ảnh sự
kiện được tài trợ đến hình ảnh thương hiệu của nhà tài trợ chi tiết theo
từng khía cạnh chức năng, biểu tượng và trải nghiệm của hình ảnh.
2.4.1.2 Những khó khăn trong việc phát hiện và khái quát hóa kết
quả tốt hơn.
Nghiên cứu thực nghiệm về ảnh hưởng của hình ảnh sự kiện được
tài trợ đến hình ảnh thương hiệu của nhà tài trợ chủ yếu diễn ra trong
bối cảnh thể thao, điều này làm hạn chế đến khả năng khái quát
những phát hiện diễn ra trong những bối cảnh khác như văn hóa, âm
nhạc, lễ hội,.. (Abreu Novais và Arcodia, 2013; Olson, 2010; Rowley
và Williams, 2008).
Tuy nhiên, điều này chưa được kiểm chứng tại Việt Nam, với bối
cảnh kinh tế xã hội có những điểm khác biệt với các quốc gia khác.
Từ những phân tích trên có thể thấy, hiện tại có rất ít hiểu biết về
ảnh hưởng của hình ảnh sự kiện được tài trợ đến hình ảnh thương
11
hiệu của nhà tài trợ trên các khía cạnh chức năng, biểu tượng và trải
nghiệm của hình ảnh.
2.4.2 Mô hình nghiên cứu đề xuất
Dựa trên những phân tích tổng quan, những vấn đề của từng mô
hình nêu trên cũng như phân tích một số khoảng trống nghiên cứu về
tài trợ sự kiện. Tác giả quyết định sử dụng mô hình của Santos và cộng
sự (2008) vào cuộc nghiên cứu này.
Đặc biệt, do tác giả muốn nghiên cứu chi tiết những ảnh hưởng
của các khía cạnh chức năng, biểu tượng và trải nghiệm của hình ảnh
sự kiện được tài trợ đến các khía cạnh chức năng, biểu tượng và trải
nghiệm của hình ảnh thương hiệu của nhà tài trợ, tác giả đã quyết
định sử dụng khái niệm hình ảnh thương hiệu của Wu và Wang (2014).
Hình 2.5: Mô hình nghiên cứu đề xuất
2.4.3 Các giả thuyết nghiên cứu
H1: Mức độ gắn kết với sự kiện có tác động thuận chiều đến
tiếp xúc với sự kiện.
Gắn kết với
sự kiện
Tiếp xúc
với sự kiện
H1
H3 H
2
H
HH
Hình ảnh sự kiện
Kinh nghiệm trước
đó với thương hiệu
Sự phù
hợp nhận
Trải nghiệm
Biểu tượng
Chức năng
Hình ảnh thương hiệu
Chức năng
Biểu tượng
Trải nghiệm
Thái độ đối
với tài trợ
H3.1
H3.2
H3.3
12
H2: Mức độ tiếp xúc với sự kiện được tài trợ có tác động thuận
chiều đến hình ảnh sự kiện.
H3: Hình ảnh sự kiện được tài trợ có tác động thuận chiều đến hình ảnh
thương hiệu của nhà tài trợ.
H3.1: Khía cạnh chức năng, biểu tượng và trải nghiệm của
hình ảnh sự kiện có tác động thuận chiều tới khía
cạnh chức năng của hình ảnh thương hiệu nhà tài trợ.
H3.2: Khía cạnh chức năng, biểu tượng và trải nghiệm của
hình ảnh sự kiện có tác động thuận chiều tới khía cạnh
biểu tượng của hình ảnh thương hiệu nhà tài trợ.
H3.3: Khía cạnh chức năng, biểu tượng và trải nghiệm của
hình ảnh sự kiện có tác động thuận chiều tới khía cạnh
trải nghiệm của hình ảnh thương hiệu nhà tài trợ.
H4: Kinh nghiệm trước đó với thương hiệu có tác động thuận
chiều đến hình ảnh thương hiệu.
H5: Thái độ đối với tài trợ càng tích cực sẽ làm cho sự tác
động của hình ảnh sự kiện được tài trợ đến hình ảnh
thương hiệu nhà tài trợ càng cao.
H6: Sự phù hợp nhận thức giữa sự kiện và thương hiệu càng
cao sẽ làm cho sự tác động của hình ảnh sự kiện được tài trợ
đến hình ảnh thương hiệu nhà tài trợ càng lớn.
H7 (Không thể hiện trong mô hình): ảnh hưởng của hình ảnh
sự kiện được tài trợ đến hình ảnh thương hiệu của nhà tài trợ
giữa các nhóm giới tính khác nhau thì khác nhau.
13
CHƯƠNG 3: BỐI CẢNH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Giới thiệu về trường hợp nghiên cứu
3.1.1 Công ty cổ phần Bia – Rượu – Nước giải khát Hà Nội (Habeco)
Tổng công ty Bia – Rượu – Nước giải khát Hà Nội (Habeco) có
trụ sở chính tại 183 Hoàng Hoa Thám, Ba Đình, Hà Nội được thành
lập ngày 16 tháng 5 năm 2003 theo Quyết định số 75/2003/QĐ –
BCN của Bộ trưởng Bộ Công nghiệp (nay là Bộ Công Thương).
3.1.2 Chiến lược tài trợ các sự kiện văn hóa thể thao của HABECO
Habeco đã tài trợ rất nhiều sự kiện âm nhạc, thể thao và văn hóa.
Những sự kiện này được lựa chọn dựa trên hai tiêu chí cơ bản: tỷ lệ
hoàn vốn – ROI và sự phù hợp của sự kiện với chiến lược.
3.1.3 Sự kiện Happy Colour Run
Happy Colour Run – Đường chạy Sắc màu Tuổi trẻ - Tôi yêu Tổ
quốc tôi do Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh phối hợp với
UBND các tỉnh, thành phố và Công ty DHA tổ chức là một sự kiện
văn hóa, thể thao mang nhiều ý nghĩa, hướng lớp trẻ đến lòng yêu
nước, tự hào dân tộc, xung kích xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; động
viên và ủng hộ thanh niên tình nguyện ra Đảo Thanh niên lập nghiệp,
hỗ trợ xây dựng các công trình xã hội, dân sinh tại 5 Đảo Thanh ni