Trong quá trình hội nhập vào “Thế giới phẳng” theo xu hướng toàn cầu hoá, môi trường kinh
doanh truyền thống ngày càng có nhiều đối thủ tham gia, thay đổi nhanh hơn và ngày càng trở nên
khó lường hơn bao giờ hết (Thomas Friedman, 2005). Tuy nhiên, việc môi trường kinh doanh
thay đổi đem lại cả nguy cơ lẫn cơ hội cho các doanh nghiệp cũng như các ngành kinh tế. Doanh
nghiệp đứng trước sự lựa chọn hoặc là tự đào thải, hoặc là thay đổi để kịp nhịp phát triển: thay đổi
về cấu trúc doanh nghiệp, về chiến lược cũng như triết lý quản trị; điều này làm cho doanh nghiệp
ngày càng thích ứng tốt hơn, đáp ứng được nhu cầu của khách hàng nhanh hơn thông qua các
quyết định kịp thời (Langfield-Smith & ctg, 2009).
27 trang |
Chia sẻ: lecuong1825 | Lượt xem: 3437 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Các nhân tố tác động đến việc vận dụng kế toán quản trị trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại việt nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
TRẦN NGỌC HÙNG
CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC VẬN DỤNG
KẾ TOÁN QUẢN TRỊ TRONG CÁC
DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TẠI VIỆT NAM
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2016
2
Công trình này được hoàn thành tại: Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh
Người hướng dẫn khoa học:
1. TS. TRẦN VĂN THẢO
2. TS. ĐOÀN NGỌC QUẾ
Phản biện 1:
Phản biện 2:
Phản biện 3:
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp nhà nước họp tại: Trường Đại học
Kinh tế TP. Hồ Chí Minh, vào hồi giờ, ngày tháng năm 2016
Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện Quốc gia hoặc thư viện Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ
Chí Minh.
3
PHẦN MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trong quá trình hội nhập vào “Thế giới phẳng” theo xu hướng toàn cầu hoá, môi trường kinh
doanh truyền thống ngày càng có nhiều đối thủ tham gia, thay đổi nhanh hơn và ngày càng trở nên
khó lường hơn bao giờ hết (Thomas Friedman, 2005). Tuy nhiên, việc môi trường kinh doanh
thay đổi đem lại cả nguy cơ lẫn cơ hội cho các doanh nghiệp cũng như các ngành kinh tế. Doanh
nghiệp đứng trước sự lựa chọn hoặc là tự đào thải, hoặc là thay đổi để kịp nhịp phát triển: thay đổi
về cấu trúc doanh nghiệp, về chiến lược cũng như triết lý quản trị; điều này làm cho doanh nghiệp
ngày càng thích ứng tốt hơn, đáp ứng được nhu cầu của khách hàng nhanh hơn thông qua các
quyết định kịp thời (Langfield-Smith & ctg, 2009).
Khi bắt đầu xu hướng hội nhập, các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp nhỏ
và vừa (DNNVV) nói riêng đứng trước những cơ hội và thách thức mới. Với quy mô sản xuất
nhỏ, tiếp cận nguồn vốn khó khăn, sử dụng lao động trình độ thấp đặc biệt là chưa quen vận
dụng kế toán quản trị (KTQT) nên các DNNVV gặp nhiều bất lợi khi cạnh tranh với các công ty
lớn, các tập đoàn nước ngoài. Theo các điều khoản chung khi tham gia vào WTO cũng như các tổ
chức thương mại khác như ASEAN, hoặc là việc ký kết hiệp định thương mại tự do giữa VN và
Liên minh kinh tế Á – Âu (vào ngày 29-5-2015 vừa qua) thì theo lộ trình Việt Nam phải dỡ bỏ
dần các hàng rào thuế quan khiến việc giao thương trở nên dễ dàng hơn. Tuy nhiên điều đó cũng
có nghĩa là mức độ cạnh tranh sẽ trở nên gay gắt hơn (Ban Công tác về việc gia nhập WTO của
Việt Nam, 2006). Tuy nhiên một vấn đề đáng quan ngại ở đây là nền kinh tế của Việt Nam lại
chậm đổi mới từ bên trong do đặc thù chuyển đổi từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN. Vì vậy các DNNVV không những không tận dụng được nhiều cơ hội
mà lại phải đối diện với nhiều khó khăn do quá trình hội nhập tạo ra.
Một khi môi trường kinh doanh thay đổi theo xu hướng hội nhập toàn cầu, một thách thức lớn đặt
ra cho các nhà quản trị Việt Nam là phải vận dụng các công cụ kỹ thuật quản trị mới để ứng phó,
nhằm gia tăng lợi thế cạnh tranh của DN mình. Chính vì vậy, hơn bao giờ hết các DNNVV cần
phải nhanh chóng vận dụng KTQT để giúp các nhà quản trị có được các thông tin kịp thời và
thích hợp, hữu hiệu, hiệu quả nhằm hỗ trợ quá trình ra quyết định. Tuy nhiên, với lịch sử hình
thành kinh tế thị trường muộn so với các nước trên thế giới, việc giảng dạy đào tạo KTQT tại Việt
Nam mới chỉ bắt đầu từ những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ 20, do đó hiện nay phần lớn bộ
phận kế toán công tác tại các DNNVV tại Việt Nam vẫn còn bỡ ngỡ ít nhiều đối với việc vận
dụng KTQT. Qua khảo sát sơ bộ của tác giả cũng như những nghiên cứu trước đây, cho đến nay
việc vận dụng KTQT vào hoạt động quản trị trong các DNNVV vẫn còn nhiều vướng mắc, hệ quả
tất yếu là thực trạng tỷ lệ vận dụng KTQT trong các DNNVV nói chung còn thấp, các công cụ kỹ
thuật KTQT được vận dụng hầu hết là công cụ kỹ thuật truyền thống và hiệu quả đóng góp cho
công tác quản trị chưa cao. Tuy nhiên trong thực tế việc vận dụng KTQT chịu sự tác động của
4
nhiều nhân tố bên trong lẫn bên ngoài doanh nghiệp, và các nhân tố này có thể làm gia tăng tính
khả thi của việc vận dụng KTQT trong các DNNVV tại Việt Nam hoặc ngược lại. Do đó việc
nghiên cứu nhằm nhận diện và lượng hóa mức độ tác động của từng nhân tố đến việc vận dụng
KTQT trong các DNNVV tại Việt Nam là chủ đề rất quan trọng và hữu ích. Chính vì vậy, tác giả
đã lựa chọn nội dung nghiên cứu “Các nhân tố tác động đến việc vận dụng kế toán quản trị
trong các DNNVV tại Việt Nam” để thực hiện luận án của mình.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Luận án được thực hiện nhằm xác định các nhân tố tác động và mức độ tác động của từng nhân tố
đến việc vận dụng KTQT trong các DNNVV tại Việt Nam. Từ việc nhận diện nhân tố tác động và
mức độ tác động của chúng, luận án gợi ý một số chính sách cần thiết nhằm nâng cao tính khả thi
của việc vận dụng KTQT trong các DNNVV tại Việt Nam, để từ đó có thể giúp các DNNVV tại
Việt Nam hoàn thiện và nâng cao năng lực cạnh tranh của mình trong sân chơi hội nhập quốc tế.
Để đạt được mục tiêu trên, tác giả đặt ra hai câu hỏi nghiên cứu như sau:
Q
1
: Thực trạng của việc vận dụng KTQT trong các DNNVV tại Việt Nam trong thời gian
qua?
Q
2
: Các nhân tố nào tác động đến việc vận dụng KTQT trong các DNNVV tại Việt Nam, mức
độ tác động của từng nhân tố và mối tương quan giữa chúng với nhau?
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu của luận án là các DNNVV tại Việt Nam đã, đang hoặc sẽ có ý định vận
dụng dụng KTQT. Qua đối tượng nghiên cứu này, luận án sẽ nhận diện các nhân tố nào tác động
đến việc vận dụng KTQT trong các DNNVV tại Việt Nam, mức độ tác động của từng nhân tố và
mối tương quan giữa chúng với nhau
4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Có nhiều nhóm nhân tố tác động đến việc vận dụng KTQT trong các DN nói chung và DNNVV
tại Việt Nam. Tuy nhiên, tác sẽ sẽ chọn lọc những nhóm nhân tố phù hợp hoặc mang tính chất đặc
thù với nền kinh tế thị trường mới mở cửa của Việt Nam. Ngoài ra do hạn chế về thời gian và
nguồn lực thực hiện của luận án, tác giả giới hạn phạm vi tiến hành khảo sát các DNNVV chủ yếu
nằm tập trung ở hai thành phố lớn như TP HCM, Hà Nội và các tỉnh lân cận hai thành phố đó,
mục đích để đa dạng hóa sự khác biệt về nhân tố văn hóa, cơ cấu tổ chức, chiến lược kinh doanh
giữa các vùng miền đặc trưng của Việt Nam. Bên cạnh đó tác giả sẽ lựa chọn ngẫu nhiên một
số DNNVV tại các tỉnh, thành phố nhỏ có nền kinh tế chậm phát triển trên cả nước để đa dạng
hóa sự khác biệt các đặc trưng cơ bản về quy mô, trình độ lực lượng lao độngThời gian khảo
sát trong vòng 12 tháng kể từ tháng 01 năm 2015.
5
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Luận án đã được thực hiện theo một quá trình xuyên suốt và áp dụng kết hợp hai phương pháp
nghiên cứu định tính và định lượng như sau:
- Phương pháp định tính: dùng công cụ phỏng vấn kết hợp với xin ý kiến chuyên gia để xác định
các nhóm nhân tố có thể tác động đến việc vận dụng KTQT trong các DNNVV tại Việt Nam. Từ
nội dung trao đổi, tác giả sẽ sử dụng kết quả thảo luận cuối cùng để làm cơ sở để xây dựng bảng
câu hỏi phục vụ cho công tác khảo sát.
- Phương pháp định lượng: dùng công cụ khảo sát để tập hợp các dữ liệu bằng cách chọn mẫu và
gửi bảng khảo sát trực tiếp đến các đối tượng có liên quan đến việc vận dụng KTQT trong các
DNNVV tại Việt Nam, từ đó tiếp tục dùng công cụ phần mềm SPSS để kiểm định dữ liệu được
tập hợp từ các cuộc khảo sát để kiểm tra lại độ tin cậy của các thang đo các nhân tố tác động đến
việc vận dụng KTQT trong các DNNVV tại Việt Nam, đồng thời tìm ra các nhân tố mới và đo
lường mức độ tác động của chúng. Các công cụ sử dụng bao gồm Chi bình phương (Chi-square),
Conbach’s Alpha, phân tích nhân tố khám phá (EFA), phân tích hồi quy đa biến.
6. NHỮNG ĐIỂM MỚI VÀ CÁC ĐÓNG GÓP KHOA HỌC CỦA LUẬN ÁN
6.1. Những điểm mới của luận án
Xem xét và đối chiếu với những nghiên cứu đã được các nhà khoa học trong nước thực hiện trước
đây thì luận án đã thực hiện được một số điểm mới như sau:
- Thứ nhất, khám phá thêm các nhân tố tác động đến việc vận dụng KTQT trong các DNNVV tại
Việt Nam.
- Thứ hai, đo lường mức độ tác động của các nhân tố tác động đến việc vận dụng KTQT trong các
DNNVV tại Việt Nam bằng các phương pháp định tính và định lượng.
- Thứ ba, từ những khám phá đó tác giả đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm làm gia tăng tính
khả thi của việc vận dụng KTQT trong các DNNVV tại Việt Nam.
6.2. Các đóng góp khoa học của luận án
Luận án là một công trình nghiên cứu khoa học nghiêm túc của tác giả. Kết quả nghiên cứu của
luận án đã đóng góp khoa học một số điểm cơ bản như sau:
- Một là, thông qua việc tổng hợp thực tiễn vận dụng KTQT trong các DNNVV tại một số quốc
gia và khu vực, rút ra được những bài học kinh nghiệm cho việc vận dụng KTQT trong các
DNNVV tại Việt Nam.
- Hai là, thông qua kết quả nghiên cứu, tác giả đã đề xuất các giải pháp đồng bộ để góp phần làm
gia tăng tính khả thi của việc vận dụng KTQT trong các DNNVV tại Việt Nam.
6
- Ba là, kết quả nghiên cứu này cũng góp phần làm tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích cho các
nghiên cứu khoa học liên quan khác cũng như áp dụng trong thời gian tới tại những cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ở Việt Nam.
7. KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN
Chương 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu có liên quan đến luận án.
Chương 2: Cơ sở lý thuyết về kế toán quản trị và các nhân tố tác động đến việc vận dụng
kế toán quản trị vào DNNVV.
Chương 3: Thiết kế nghiên cứu.
Chương 4: Kết quả nghiên cứu và bàn luận.
Chương 5: Kết luận và kiến nghị.
CHƯƠNG 1- TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN
1.1. CÁC NGHIÊN CỨU CÔNG BỐ Ở NƯỚC NGOÀI
1.1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu
Mặc dù các DNNVV đóng vai trò quan trọng cả về mặt kinh tế và xã hội, tuy nhiên trên thế giới việc
nghiên cứu về KTQT tại DNNVV được đánh giá là chưa đầy đủ (Marriott & Marriott, 2000; Mitchell
& Reid, 2000). Các nghiên cứu liên quan đến việc vận dụng KTQT trong các DNNVV có thể tóm tắt
ở một số mảng như sau:
- Thứ nhất, các nghiên cứu tổng thể liên quan về sự thay đổi và nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi
trong việc vận dụng KTQT trong các DN nói chung qua các giai đoạn phát triển của KTQT.
- Thứ hai, các nghiên cứu liên quan về việc vận dụng KTQT trong các DNVVV.
- Thứ ba, nghiên cứu về các nhân tố tác động đến việc vận dụng KTQT trong các DN nói chung và
DNNVV nói riêng.
1.1.2. Nhận xét
Qua việc nghiên cứu các công trình nghiên cứu trên thế giới, tác giả nhận thấy các nghiên cứu trước
đã chỉ ra được được tiến trình và xu hướng phát triển của KTQT từ việc vận dụng vào DN những
công cụ kỹ thuật quản trị sơ lược ban đầu cho đến những hệ thống hoạch định phát triển phức tạp
ngày nay, những thay đổi của KTQT để có thể đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của DN và các
nguyên nhân dẫn đến những sự thay đổi trong việc vận dụng KTQT vào DN nói trên. Ngoài ra, mặc
dù trước đây chưa nhiều các nhà nghiên cứu quan tâm đến thực trạng vận dụng KTQT trong các
DNNVV, tuy nhiên với sự gia tăng cạnh tranh do quá trình phẳng hóa thế giới mang lại, ngày càng có
nhiều các nghiên cứu thực trạng vận dụng KTQT trong các DNNVV ở cả các nước đã và đang phát
7
triển. Các khảo sát nghiên cứu không những đã chỉ ra mức độ vận dụng cũng như các công cụ kỹ
thuật được sử dụng trong các DNNVV mà bên cạnh đó, bằng các phương pháp định tính và định
lượng, cũng đã chỉ ra một số các nhân tố tác động đến việc vận dụng KTQT vào DN nói chung và các
DNNVV nói riêng.
1.2. CÁC NGHIÊN CỨU CÔNG BỐ Ở TRONG NƯỚC
1.2.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu
Theo các khảo sát, nghiên cứu về việc áp dụng KTQT vào DN Việt Nam nói chung và DNNVV nói
riêng trong một giai đoạn dài từ 1997 cho đến 2010 (Phạm Văn Dược 1997, Trần Anh Hoa 2003,
Phạm Ngọc Toàn 2010) thì cho đến nay các DN chưa chú trọng đến việc vận dụng các công cụ kỹ
thuật của KTQT vào hoạt động quản lý DN, thậm chí ở một số các DNNVV còn chưa có khái niệm về
vận dụng KTQT hoặc chưa có bộ máy KTQT riêng biệt để phục vụ cho nhu cầu quản trị của DN.
1.2.2. Nhận xét
Tại Việt Nam, qua một quá trình nghiên cứu về lịch sử hình thành và phát triển KTQT tại Việt Nam,
các tác giả đã đề xuất các phương hướng về vận dụng và xây dựng KTQT tại các DN Việt Nam. Việc
phân tích chi tiết và đưa ra các mô hình KTQT cho mỗi loại hình DN khác nhau về ngành nghề (sản
xuất, thương mại), về quy mô (DNNVV, DN lớn) đã giúp cho việc vận dụng KTQT vào các DN có
được hướng đi rõ ràng hơn.
Tuy nhiên cho đến nay tại Việt Nam vẫn còn thiếu các khảo sát chỉ ra các nhân tố tác động đến việc
vận dụng KTQT trong các DNNVV tại Việt Nam theo phương pháp định tính và định lượng, để từ đó
có thể đưa ra các giải pháp nhằm gia tăng mức độ khả thi của việc vận dụng KTQT trong các
DNNVV.
1.3. KHE HỔNG NGHIÊN CỨU VÀ ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ
1.3.1. Xác định khe hổng nghiên cứu
Từ việc xem xét, đánh giá các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài tác
giả nhận thấy việc vận dụng KTQT cho các DNNVV tại Việt Nam mặc dù có ý nghĩa hết sức quan
trọng, góp phần tạo nên sự thành công cho DNNVV tại Việt Nam trong kinh doanh nhưng còn vướng
mắc là mặc dù tính cấp thiết cao nhưng hiện nay qua các cuộc khảo sát từ trước đến nay tỷ lệ vận
dụng KTQT trong DNNVV lại thấp, đặc biệt là đối với DN nhỏ và siêu nhỏ.
Hiện nay tại Việt Nam mặc dù đã có những nghiên cứu về việc vận dụng KTQT vào các DNNVV, tuy
nhiên chưa có những nghiên cứu sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng với độ tin
cậy cao, có tính khách quan về các nhân tố tác động đến việc vận dụng KTQT trong các DNNVV
tại Việt Nam. Thay vào đó, các công trình chỉ mới tập trung vào việc xây dựng định hướng, xây dựng
các mô hình vận dụng KTQT cho các loại hình DN khác nhau trên quan điểm và kinh nghiệm của
các tác giả.
1.3.2. Định hướng nghiên cứu của tác giả
Từ việc xác định khe hổng nghiên cứu nói trên, trên quan điểm kế thừa và tiếp tục nghiên cứu về việc
vận dụng KTQT trong các DNNVV tại Việt Nam, luận án sẽ tiếp tục nghiên cứu một cách trực tiếp và
8
có hệ thống, đầy đủ về các nhân tố tác động đến việc vận dụng KTQT trong các DNNVV tại Việt
Nam. Bên cạnh đó, tác giả cũng sẽ tiến hành đo lường mức độ tác động của các nhân tố đến việc vận
dụng KTQT vào các DNNVV tại Việt Nam. Tác giả lần lượt thực hiện các bước nghiên cứu như sau:
Thứ nhất, khảo sát về thực trạng vận dụng KTQT trong các DNNVV tại Việt Nam hiện nay.
Thứ hai, khảo sát và tổng hợp các nhân tố tác động đến việc vận dụng KTQT trong các DNNVV tại
Việt Nam.
Thứ ba, đo lường độ tin cậy và mức độ tác động của các nhân tố tác động đến việc vận dụng KTQT
trong các DNNVV tại Việt Nam.
Thứ tư, đưa ra định hướng và giải pháp, kiến nghị nhằm gia tăng tính khả thi của việc vận dụng
KTQT trong các DNNVV tại Việt Nam.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
CHƯƠNG 2 - CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ KẾ TOÁN QUẢN TRỊ VÀ CÁC NHÂN TỐ TÁC
ĐỘNG ĐẾN VIỆC VẬN DỤNG KẾ TOÁN QUẢN TRỊ VÀO DNNVV
2.1. TỔNG QUAN VỀ KTQT
2.1.1. Các khái niệm về KTQT
Hầu hết các cuộc cách mạng về sự thay đổi khái niệm KTQT có thể phát triển dựa trên ba trường phái
chính; đó là việc phát triển từ các khái niệm của Viện KTQT Hoa Kỳ (IMA), Viện điều lệ KTQT
(CIMA) và Hiệp hội kế toán quốc tế (IFAC).
Vào năm 1981, IMA đưa ra khái niệm đầu tiên của mình về KTQT dựa trên sự phản ánh về nhu cầu
thay đổi của DN đối với thông tin kế toán; tuy nhiên gần đây nhất vào 2008, IMA đưa ra khái niệm về
công việc của KTQT là: “ một công việc chuyên nghiệp có liên quan đến việc tham gia vào quá
trình ra quyết định, đề ra kế hoạch và hệ thống thực hiện, đồng thời cung cấp những báo cáo tài
chính chuyên nghiệp, giúp các nhà quản trị kiểm soát trong việc tạo lập và thực hiện chiến lược của
tổ chức” (Anthony A.Atkinson et al., 2012). Sự thay đổi về mặt khái niệm KTQT của IMA phản ánh
xu hướng thay đổi vai trò của KTQT ngày càng thể hiện vai trò là một nhân tố của chiến lược kinh
doanh nhằm giúp DN quản trị hiệu suất DN, lập kế hoạch và dự toán, quản trị rủi ro, kiểm soát nội bộ,
lập báo cáo tài chính ở những thời điểm có sự thay đổi lớn, và thể hiện vai trò chuyên gia trong các
phương pháp quản trị chi phí (IMA, 2008).
Còn theo CIMA (CIMA, 1986, 10) thì đưa ra khái niệm về KTQT như là việc cung cấp thông tin cho
các nhà quản trị nhằm các mục đích: tạo lập các chính sách, hoạch định và kiểm soát các hoạt động
của DN, ra quyết định dựa trên các lựa chọn khác nhau, việc chuẩn bị các báo cáo tài chính cho các
nhóm đối tượng bên ngoài như cổ đông, chủ nợ, các cơ quan thuế Sau này trong quá trình hiệu
chỉnh lại các thuật ngữ KTQT (CIMA, 2005, 18) thì vai trò của KTQT đã có nhiều bước tiến và thể
hiện một vai trò rộng hơn. Nó được khái niệm lại như là việc áp dụng các nguyên lý kế toán và quản
trị tài chính nhằm tạo ra, bảo vệ, duy trì lâu dài và gia tăng giá trị của cổ động và các bên có liên quan
trong các DN hoạt động vì lợi nhuận và phi lợi nhuận, trong khu vực tư nhân hay khu vực công. Theo
9
đó, CIMA đã khái niệm lại KTQT một cách chi tiết hơn, nhấn mạnh rằng KTQT là một phần quan
trọng của quá trình quản trị trong đó bao gồm việc nhận diện, tạo ra, trình bày, diễn giải các thông tin
thích hợp. Sự thay đổi về khái niệm KTQT của CIMA thể hiện rằng KTQT đã tiến đến gần hơn mối
quan tâm của các nhà quản trị cấp cao về việc tập trung vào tính hiệu quả, hoạch định chiến lược và
tạo ra giá trị. Và đến nay, xu hướng của năm 2015 thì CIMA đã đưa ra khái niệm KTQT đơn giản là
bao hàm kế toán, tài chính và quản trị với những công cụ quản lý hàng đầu (CIMA, 2015).
Tương tự IFAC đưa ra khái niệm lần đầu vào năm 1989 thì KTQT “ là một quá trình nhận diện, đo
lường, tổng hợp, phân tích, chuẩn bị, diễn giải và truyền đạt các thông tin (cả về tài chính lẫn hoạt
động) được sử dụng bởi các nhà quản lý nhằm mục đích hoạch định, đo lường và kiểm soát một tổ
chức, và để đảm bảo rằng nguồn lực của tổ chức đó được sử dụng một cách phù hợp và có trách
nhiệm”. Khái niệm này cũng tương tự như khái niệm truyền thống ban đầu của các tổ chức khác như
IMA. Tuy nhiên sau đó 9 năm, vào năm 1998 thì IFAC đã hiệu chỉnh lại, mở rộng đáng kể vai trò của
KTQT trong khái niệm mới của mình. Theo đó, KTQT được xem xét như các hoạt động gắn bó, đan
xen với tất cả các hoạt động quản trị của tổ chức. Hay nói cách khác, KTQT hướng đến vai trò quản
trị nhằm tập trung vào việc tạo ra giá trị cho tổ chức bằng cách sử dụng hiệu quả các nguồn lực với
các con người năng động trong những tình huống cạnh tranh. Và sau này theo khái niệm mới về
KTQT của IFAC (2002) thì “KTQT hướng về các quá trình xử lý và kỹ thuật, tập trung vào việc sử
dụng một cách có hiệu quả và hiệu suất những nguồn lực của tổ chức, giúp hỗ trợ các nhà quản lý
hoàn thành nhiệm vụ gia tăng giá trị cho khách hàng cũng như cổ đông” (Langfield-Smith & ctg.,
2009, 6).
Theo luật kế toán Việt Nam, KTQT được định nghĩa là “việc thu thập, xử lý, phân tích và cung cấp
thông tin kinh tế, tài chính theo yêu cầu quản trị và quyết định kinh tê