Bước vào thế kỷ XXI, sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế tri thức và cuộc
cách mạng khoa học - công nghệ đã không những xác định vị trí của con
người ở hàng đầu trong lực lượng sản xuất mà còn định hình ngày càng rõ
hơn vai trò đặc biệt quan trọng của nguồn lực trí tuệ đối với việc phát triển
nội lực của mỗi quốc gia, dân tộc.
Việt Nam đang ở thời kỳ bước ngoặt của phát triển với việc đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bối cảnh của thế giới và thời đại đang mở ra
những triển vọng, điều kiện thuận lợi cho Việt Nam đồng thời cũng đặt nước
ta trước nhiều nguy cơ, thách thức nghiệt ngã trên tiến trình hội nhập, trong
đó, sự lạc hậu, tụt hậu về trí tuệ là điều đáng sợ nhất.
Với tư cách là cái nôi đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, GDĐH Việt
Nam có trọng trách to lớn trong quá trình tạo lập, phát triển tiềm lực trí tuệ
cho dân tộc. Điều này lý giải tại sao giờ đây, khắc phục điểm nghẽn về nguồn
nhân lực trình độ cao thông qua việc cải biến chất lượng lao động của đội ngũ
trí thức GDĐH được đặt ra như một giải pháp chiến lược cho sự phát triển,
chấn hưng dân tộc mà Việt Nam phải hết sức quan tâm. Đó là kết quả trực tiếp
của sự gia tăng nguồn lực trí tuệ được Việt Nam cũng như các quốc gia đặc biệt
chú trọng trước tính cạnh tranh trong nền kinh tế dựa trên sức mạnh của tri thức,
khoa học và công nghệ.
Vấn đề hệ trọng này còn được cắt nghĩa từ chính những yếu kém kéo dài,
chậm được khắc phục trong chất lượng đào tạo nguồn nhân lực của GDĐH ở
nước ta. Càng đi sâu vào hội nhập, chất lượng đào tạo nguồn nhân lực ở Việt
Nam càng bị chi phối bởi qui luật cạnh tranh và những tác động tiêu cực từ
mặt trái của cơ chế thị trường. Đáng lo ngại là tình trạng bất cập về trình độ,
năng lực và những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, lao động hình
thức, thiếu tận tâm, tận lực của không ít trí thức nhà giáo trước trọng trách vinh
quang của sự nghiệp “trồng người”. Đặc biệt là những thách thức được đặt ra từ
chất lượng nguồn nhân lực được đào tạo đại học chưa đáp ứng tốt yêu cầu thị
trường lao động trong nước và quốc tế. Điều đó xa lạ với bản chất lao động
khoa học sư phạm sáng tạo và phẩm chất cao qúi của nhà giáo, nếu không kịp
thời khắc phục chắc chắn sẽ để lại “di chứng” cho nguồn lực con người không
chỉ hiện hữu ở thực tại mà còn trong tương lai.
Để vượt qua lực cản và thách thức này cần đến những giải pháp đồng bộ,
nhất là những giải pháp mang tính đột phá nhằm cải biến hiện trạng đã nêu.
Chính yêu cầu tìm kiếm chìa khoá cho sự phát triển nguồn nhân lực đã đưa
vấn đề chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH trở thành mối quan
tâm thường trực, hàng đầu của các chủ thể lãnh đạo, quản lý cũng như toàn
xã hội trong quá trình thực hiện cuộc cách mạng về giáo dục. Mặt khác, đó
2
cũng là điều kiện đảm bảo cho sự tồn tại, phát triển bền vững của cơ sở đào
tạo đại học Việt Nam trong bối cảnh cạnh tranh, hội nhập quốc tế, trước
những kỳ vọng của xã hội vào sự cách tân từ các chủ thể giáo dục, từ chương
trình, phương pháp giáo dục đại học mà mục đích cao nhất là cải biến chất
lượng nguồn nhân lực được đào tạo. Đây là đòi hỏi bức xúc của xã hội, là
công việc khó khăn, phức tạp, tốn kém nhiều công sức, thời gian, tâm lực, trí
lực và tiền bạc.
Trên một bình diện cao hơn, thuộc về trách nhiệm, lương tâm xã hội, quan
tâm đến chất lượng lao động của trí thức GDĐH là chăm lo cho sự nghiệp
đào tạo nguồn lực trí tuệ của dân tộc. Để đảm bảo độ tin cậy cho chiến lược
phát triển, bền vững của quốc gia cần thiết phải tìm ra khâu đột phá từ tiềm
lực của con người trên cái giá đỡ vật chất của sự phát triển kinh tế. Cơ sở để tạo
nên nguồn lực trí tuệ không thể nằm ngoài GDĐH mà mấu chốt là ở chất lượng
lao động của đội ngũ trí thức nhà giáo.
Chỉ với cái nhìn biện chứng như vậy mới thấy hết tầm quan trọng và tính
bức thiết vì sao phải đổi mới GDĐH, bắt đầu từ những cải biến trong chất
lượng lao động của đội ngũ cán bộ quản lý cũng như các thế hệ giảng viên
đại học. Luận giải, khảo sát vấn đề này để tìm giải pháp phát triển không chỉ
có ý nghĩa lý luận mà còn góp phần thực hiện chủ trương kiểm định chất
lượng các trường đại học theo hệ tiêu chuẩn của Bộ Giáo dục và Đào tạo
nhằm “đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục” theo tinh thần Nghị quyết
Trung ương 8 khóa XI của Đảng.
28 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1548 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt luận án Chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
TRẦN THỊ LAN
chÊt lîng lao ®éng cña ®éi ngò trÝ thøc
gi¸o dôc ®¹i häc ViÖT NAM hiÖn nay
Chuyên ngành : Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số : 62 22 85 01
tãm t¾t LuËn ¸n tiÕn sÜ triÕt häc
Hµ Néi - 2014
C«ng tr×nh ®îc hoµn thµnh
t¹i Häc viÖn ChÝnh trÞ Quèc gia Hå ChÝ Minh
Ngêi híng dÉn khoa häc: GS.TS hoµng chÝ b¶o
Ph¶n biÖn 1:
Ph¶n biÖn 2:
Ph¶n biÖn 3:
LuËn ¸n sÏ ®îc b¶o vÖ tríc Héi ®ång chÊm luËn ¸n cÊp Häc viÖn
häp t¹i Häc viÖn ChÝnh trÞ Quèc gia Hå ChÝ Minh.
Vµo håi giê ngµy th¸ng n¨m 2014
Cã thÓ t×m hiÓu luËn ¸n t¹i: Th viÖn Quèc gia
vµ Th viÖn Häc viÖn ChÝnh trÞ Quèc gia Hå ChÝ Minh
1MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bước vào thế kỷ XXI, sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế tri thức và cuộc
cách mạng khoa học - công nghệ đã không những xác định vị trí của con
người ở hàng đầu trong lực lượng sản xuất mà còn định hình ngày càng rõ
hơn vai trò đặc biệt quan trọng của nguồn lực trí tuệ đối với việc phát triển
nội lực của mỗi quốc gia, dân tộc.
Việt Nam đang ở thời kỳ bước ngoặt của phát triển với việc đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bối cảnh của thế giới và thời đại đang mở ra
những triển vọng, điều kiện thuận lợi cho Việt Nam đồng thời cũng đặt nước
ta trước nhiều nguy cơ, thách thức nghiệt ngã trên tiến trình hội nhập, trong
đó, sự lạc hậu, tụt hậu về trí tuệ là điều đáng sợ nhất.
Với tư cách là cái nôi đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, GDĐH Việt
Nam có trọng trách to lớn trong quá trình tạo lập, phát triển tiềm lực trí tuệ
cho dân tộc. Điều này lý giải tại sao giờ đây, khắc phục điểm nghẽn về nguồn
nhân lực trình độ cao thông qua việc cải biến chất lượng lao động của đội ngũ
trí thức GDĐH được đặt ra như một giải pháp chiến lược cho sự phát triển,
chấn hưng dân tộc mà Việt Nam phải hết sức quan tâm. Đó là kết quả trực tiếp
của sự gia tăng nguồn lực trí tuệ được Việt Nam cũng như các quốc gia đặc biệt
chú trọng trước tính cạnh tranh trong nền kinh tế dựa trên sức mạnh của tri thức,
khoa học và công nghệ.
Vấn đề hệ trọng này còn được cắt nghĩa từ chính những yếu kém kéo dài,
chậm được khắc phục trong chất lượng đào tạo nguồn nhân lực của GDĐH ở
nước ta. Càng đi sâu vào hội nhập, chất lượng đào tạo nguồn nhân lực ở Việt
Nam càng bị chi phối bởi qui luật cạnh tranh và những tác động tiêu cực từ
mặt trái của cơ chế thị trường. Đáng lo ngại là tình trạng bất cập về trình độ,
năng lực và những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, lao động hình
thức, thiếu tận tâm, tận lực của không ít trí thức nhà giáo trước trọng trách vinh
quang của sự nghiệp “trồng người”. Đặc biệt là những thách thức được đặt ra từ
chất lượng nguồn nhân lực được đào tạo đại học chưa đáp ứng tốt yêu cầu thị
trường lao động trong nước và quốc tế. Điều đó xa lạ với bản chất lao động
khoa học sư phạm sáng tạo và phẩm chất cao qúi của nhà giáo, nếu không kịp
thời khắc phục chắc chắn sẽ để lại “di chứng” cho nguồn lực con người không
chỉ hiện hữu ở thực tại mà còn trong tương lai.
Để vượt qua lực cản và thách thức này cần đến những giải pháp đồng bộ,
nhất là những giải pháp mang tính đột phá nhằm cải biến hiện trạng đã nêu.
Chính yêu cầu tìm kiếm chìa khoá cho sự phát triển nguồn nhân lực đã đưa
vấn đề chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH trở thành mối quan
tâm thường trực, hàng đầu của các chủ thể lãnh đạo, quản lý cũng như toàn
xã hội trong quá trình thực hiện cuộc cách mạng về giáo dục. Mặt khác, đó
2cũng là điều kiện đảm bảo cho sự tồn tại, phát triển bền vững của cơ sở đào
tạo đại học Việt Nam trong bối cảnh cạnh tranh, hội nhập quốc tế, trước
những kỳ vọng của xã hội vào sự cách tân từ các chủ thể giáo dục, từ chương
trình, phương pháp giáo dục đại học mà mục đích cao nhất là cải biến chất
lượng nguồn nhân lực được đào tạo. Đây là đòi hỏi bức xúc của xã hội, là
công việc khó khăn, phức tạp, tốn kém nhiều công sức, thời gian, tâm lực, trí
lực và tiền bạc.
Trên một bình diện cao hơn, thuộc về trách nhiệm, lương tâm xã hội, quan
tâm đến chất lượng lao động của trí thức GDĐH là chăm lo cho sự nghiệp
đào tạo nguồn lực trí tuệ của dân tộc. Để đảm bảo độ tin cậy cho chiến lược
phát triển, bền vững của quốc gia cần thiết phải tìm ra khâu đột phá từ tiềm
lực của con người trên cái giá đỡ vật chất của sự phát triển kinh tế. Cơ sở để tạo
nên nguồn lực trí tuệ không thể nằm ngoài GDĐH mà mấu chốt là ở chất lượng
lao động của đội ngũ trí thức nhà giáo.
Chỉ với cái nhìn biện chứng như vậy mới thấy hết tầm quan trọng và tính
bức thiết vì sao phải đổi mới GDĐH, bắt đầu từ những cải biến trong chất
lượng lao động của đội ngũ cán bộ quản lý cũng như các thế hệ giảng viên
đại học. Luận giải, khảo sát vấn đề này để tìm giải pháp phát triển không chỉ
có ý nghĩa lý luận mà còn góp phần thực hiện chủ trương kiểm định chất
lượng các trường đại học theo hệ tiêu chuẩn của Bộ Giáo dục và Đào tạo
nhằm “đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục” theo tinh thần Nghị quyết
Trung ương 8 khóa XI của Đảng.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, tác giả chọn vấn đề “Chất lượng lao
động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam hiện nay” làm đề tài
luận án tiến sĩ của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu của luận án
Xác định một quan niệm có tính hệ thống về chất lượng lao động của trí
thức GDĐH để xây dựng luận cứ khoa học đánh giá thực trạng vấn đề này ở
Việt Nam, qua đó đề ra những giải pháp chủ yếu góp phần nâng cao chất
lượng hoạt động nghề nghiệp của đội ngũ trí thức GDĐH Việt Nam trong
những thập kỷ đầu thế kỷ XXI.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Để đạt được mục đích nêu trên, ngoài việc tổng quan tình hình nghiên cứu có
liên quan đến vấn đề trí thức, trí thức GDĐH, luận án tập trung giải quyết những
nhiệm vụ cơ bản sau:
- Làm rõ cơ sở lý luận về chất lượng lao động của trí thức GDĐH Việt Nam
từ quan niệm chung đến việc chỉ ra những đặc điểm lao động, tiêu chí đánh
giá và tính tất yếu nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH ở
nước ta hiện nay.
3- Đánh giá thực trạng chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH Việt
Nam và những vấn đề đặt ra.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng lao động của
đội ngũ trí thức GDĐH Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, phát triển
kinh tế tri thức và đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu về chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH ở
Việt Nam trong điều kiện của đổi mới, của đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước,
với tác động của xu thế hội nhập quốc tế và sự phát triển mạnh mẽ của kinh
tế tri thức.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH có nội dung rất rộng.
Tuy nhiên, luận án chỉ giới hạn nghiên cứu trên ba phương diện chủ yếu:
giảng dạy; NCKH; quản lý giáo dục của đội ngũ trí thức GDĐH ở các trường
Đại học công lập của Việt Nam.
- Về thời gian, luận án khảo sát thực trạng chất lượng lao động của đội ngũ trí
thức GDĐH Việt Nam giai đoạn 2000 - 2013 và xây dựng giải pháp nâng cao
chất lượng lao động của đội ngũ đó cho những năm tới.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước về trí thức, trí thức giáo dục, trí thức GDĐH; về vấn đề lao
động và động lực lao động nói chung.
Luận án còn kế thừa hợp lý những kết quả nghiên cứu có liên quan đến luận
án của các tác giả trong và ngoài nước.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử đồng thời chú trọng sử dụng phương
pháp logic - lịch sử cùng các phương pháp có tính liên ngành như phân tích, tổng
hợp, điều tra xã hội học, so sánh, khái quát hoá.
5. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
- Luận án nghiên cứu một cách hệ thống vấn đề chất lượng lao động của trí
thức GDĐH dưới góc độ triết học - chính trị - xã hội - giáo dục.
- Luận án xây dựng tiêu chí đánh giá đối với chất lượng lao động của trí
thức GDĐH trong hoạt động nghề nghiệp.
- Luận án đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng
lao động của đội ngũ trí thức GDĐH Việt Nam trong điều kiện của đổi
mới, của đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, trước tác động của xu thế hội
nhập, toàn cầu hóa và phát triển kinh tế tri thức.
46. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Luận án góp phần phát triển hướng nghiên cứu mới về lý luận và thực tiễn
đối với vấn đề chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH Việt Nam từ sự
kết hợp cách tiếp cận triết học - chính trị - xã hội và giáo dục.
- Luận án góp phần củng cố vững chắc luận cứ khoa học làm cơ sở cho
việc hoạch định đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác trí
thức GDĐH trong điều kiện mới.
- Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy
những chuyên đề liên quan đến trí thức, trí thức GDĐH.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận
án gồm 4 chương, 11 tiết.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở TRONG NƯỚC CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1.1.1. Những công trình nghiên cứu tiêu biểu bàn luận trực tiếp đến trí thức
Trước bối cảnh gia tăng mối quan tâm về các nguồn lực phát triển đất nước
trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, có rất nhiều các đề tài khoa học cấp Nhà
nước, các công trình chuyên khảo và các luận án cùng với không ít bài báo
khoa học luận giải về các khía cạnh khác nhau của vấn đề trí thức. Tiếp tục
làm rõ bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin và nhận
thức đúng đắn của Đảng ta trong quan điểm về trí thức, những công trình
nghiên cứu đã có sự luận giải xác đáng về vai trò, nhiệm vụ của trí thức trong
sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Từ các kiến giải về tiềm năng của
trí thức Việt Nam, với thái độ tôn trọng trí thức, các tác giả đã đề xuất những
giải pháp thiết thực nhằm phát huy vai trò của đội ngũ này đáp ứng yêu cầu
hội nhập và phát triển kinh tế tri thức.
1.1.2. Những công trình nghiên cứu về trí thức giáo dục đại học, đặc
điểm và chất lượng lao động của trí thức giáo dục đại học
Một là, những công trình nghiên cứu khái quát về trí thức GDĐH:
Xuất phát từ quan điểm coi trí thức GDĐH là nhân tố quyết định trực tiếp
đến chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, nhiều nhà nghiên cứu đã tập trung
luận giải vị trí, vai trò của trí thức GDĐH, đồng thời tìm ra hệ thống giải
pháp cơ bản tạo động lực lao động cho đội ngũ nhà giáo ở bậc đại học.
Hai là, những công trình nghiên cứu bước đầu bàn luận trực tiếp về đặc
điểm lao động của trí thức GDĐH, tiêu biểu là:
Bài viết “Đặc điểm lao động của giáo viên đại học và dạy nghề”, Tạp chí
5Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, số 5/2000 của Tác giả Đỗ Văn Phức chủ
yếu nhấn mạnh đến lao động sáng tạo, lao động trí óc, với một số yếu tố độc
hại và những căng thẳng đặc thù của trí thức GDĐH.
Xác định tính chất lao động của trí thức GDĐH, PGS, TS Nguyễn Thị Mỹ
Lộc và TS Đặng Xuân Hải với chuyên đề “Người dạy ở bậc đại học và giao
tiếp sư phạm”, “Phương pháp dạy học ở bậc đại học” trong tài liệu bồi
dưỡng “Giáo dục học đại học”, Hà Nội, 2003 đã đưa ra quan niệm: Ở đại
học, sự sáng tạo sư phạm đi liền với sự sáng tạo khoa học”.
PGS, TS Phạm Hồng Quang - tác giả cuốn sách “Môi trường giáo dục”, Nxb
Giáo dục, 2006 khẳng định: chức năng lao động sư phạm là tái sản xuất sức lao
động cho xã hội; đó là dạng thức lao động trí óc chuyên nghiệp.
Khi luận giải “Bản chất của hoạt động sáng tạo trong nghiên cứu khoa
học” (tài liệu nghiên cứu), Hà Nội, 2006, GS, TS Hoàng Chí Bảo nhấn mạnh,
GDĐH gắn liền giảng dạy với NCKH và phục vụ sản xuất. Lao động của trí
thức GDĐH thể hiện rõ tính sáng tạo với những sắc thái biểu hiện phong
phú, đa dạng và phức tạp của nó.
Tiếp cận đặc điểm của GDĐH, TS Nguyễn Bá Cần với Luận án tiến sĩ Kinh
tế: “Hoàn thiện chính sách phát triển Giáo dục đại học Việt Nam hiện nay”, Hà
Nội, 2009 đã cho rằng, sản phẩm dịch vụ GDĐH có tính đặc thù - đó là những
người công dân có trách nhiệm với gia đình, xã hội và quốc gia.
Ba là, những công trình nghiên cứu bước đầu đề cập đến chất lượng lao
động của trí thức GDĐH, đáng chú ý là:
Đề tài trọng điểm cấp Đại học Quốc gia Hà Nội, 2006, mã số:
QGTĐ.02.06: “Nghiên cứu xây dựng các tiêu chí đánh giá hoạt động giảng
dạy đại học và NCKH của giảng viên trong Đại học Quốc gia” do GS, TS
Nguyễn Đức Chính và PGS, TS Nguyễn Phương Nga chủ trì và đã nghiệm
thu; Báo cáo“GDĐH và kỹ năng cho tăng trưởng”, 2008 của Phòng Phát
triển con người Khu vực Đông Á và Thái Bình Dương của Ngân hàng thế giới.
Đây là những nghiên cứu về lĩnh vực đo lường và đánh giá hiệu quả thực hiện
chức trách, nhiệm vụ của đội ngũ nhà giáo do các chuyên gia thực hiện nên kết
quả nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng trong việc gợi mở hướng đánh giá tổng
thể chất lượng lao động của trí thức GDĐH ở nước ta hiện nay.
Ngoài ra còn nhiều bài viết độc lập của các nhà khoa học nghiên cứu về
chất lượng GDĐH nói chung, tiêu biểu như: Nguyễn Đức Chính, Nguyễn
Phương Nga: “Nghiên cứu xây dựng bộ tiêu chí đánh giá chất lượng đào tạo
đại học”, Tạp chí Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, 2000, số 7; Tạ Thị
Thu Hiền: “Hệ thống đảm bảo chất lượng trong trường đại học theo quan
điểm của mạng lưới các trường đại học khu vực Đông Nam Á”, Tạp chí Lý
luận chính trị và Truyền thông, số 8/2011; Lê Hữu Ái, Lâm Bá Hòa: “Giáo
dục đại học ở Việt Nam hiện nay - Thực trạng và giải pháp nâng cao chất
lượng”, Tạp chí Triết học, 2010, số 9; Phạm Ngọc Trung: “Chất lượng giáo
6dục trong các trường đại học ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị và
Truyền thông, 2011, số 8.
Thông qua việc nghiên cứu những quan niệm khác nhau về chất lượng
trong các lĩnh vực, các tác giả đã đưa ra quan niệm chung về chất lượng
GDĐH .Trên cơ sở đó, xác định tiêu chí đánh giá và đề xuất một số giải pháp
nâng cao hiệu quả lao động của trí thức GDĐH ở nước ta hiện nay.
1.2. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU NƯỚC NGOÀI LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN
Ở hầu hết các quốc gia, trí thức GDĐH được nhà nước rất coi trọng. Nhiều
chủ thể nghiên cứu thường nhận thấy sự cần thiết phải quan tâm đến trí thức
nhà giáo, nhất là đội ngũ giảng viên. Tiêu biểu cho hướng nghiên cứu này có
thể kể đến: J.Vial trong cuốn “Lịch sử và Thời sự về các phương pháp sư
phạm”, 1993; J.A Centra với các công trình nghiên cứu: “Tự đánh giá của
giảng viên đại học: Một so sánh với đánh giá của sinh viên”, Tạp chí Đánh giá
Giáo dục, số 13 năm 1973; Ph.N.Gônôbôlin: “Những phẩm chất tâm lý của
người giáo viên”, Nxb Giáo dục, 1979; Franz Emanuel Weinert : “Sự phát triển
nhận thức học tập và giảng dạy”, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1998; Đặc biệt,
UNESCO đã tổ chức những hoạt động tập trung trí tuệ nhân loại suy nghĩ về
một nền giáo dục cho thế kỷ XXI mà đỉnh cao là “Higher Education in the
Twenty - First Century - vision and Action”, World Conference on Higher
Education, Paris, October, 1998. Tổng hợp những công trình nghiên cứu nêu
trên đã xác định một quan điểm mới về đặc điểm lao động của trí thức nhà giáo
ở bậc đại học. Theo đó, chất lượng GDĐH được hình dung là một khái niệm đa
chiều, bao trùm mọi chức năng và hoạt động của nhà trường.
1.3. NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN TIẾP TỤC
LÀM SÁNG TỎ
Từ tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến luận án, tác giả xin
đưa ra những đánh giá khái quát như sau:
Một là, các công trình nghiên cứu đã vạch ra một hệ thống phương pháp
tiếp cận về trí thức và trí thức GDĐH. Đáng chú ý là những quan điểm xem
trí thức như một lực lượng xã hội, một nhóm xã hội - nghề nghiệp được nhận
diện và phân định bởi tính chất lao động trí óc, sáng tạo và phức tạp.
Hai là, những nghiên cứu lý luận về trí thức, trí thức GDĐH là khá phong
phú nhưng chưa có công trình nghiên cứu chuyên khảo hay các đề án,
chương trình nghiên cứu khoa học cấp nhà nước, chưa có luận án, luận văn
nào trực tiếp đi sâu luận giải một cách có hệ thống về vấn đề chất lượng lao
động của trí thức GDĐH ở Việt Nam.
Ba là, dưới các góc độ, bình diện, phạm vi nghiên cứu khác nhau, những
công trình nghiên cứu đã đề cập đến đặc điểm lao động của giảng viên ở từng
khía cạnh cụ thể, chủ yếu luận bàn đến chức trách, nhiệm vụ, đối tượng, công
cụ tác động, tính chất lao động của giảng viên và nhà khoa học.
7Bốn là, trên bình diện chất lượng lao động của trí thức GDĐH, những công
trình nghiên cứu đã công bố chủ yếu chỉ chú trọng đánh giá nhiệm vụ giảng viên
theo góc độ tiếp cận giáo dục học. Trên thực tế, lý luận về chất lượng lao động
của trí thức GDĐH chưa được nghiên cứu theo quan điểm toàn diện, hệ thống
với giác độ tiếp cận liên ngành triết học - chính trị - xã hội - giáo dục.
Năm là, nhiều khía cạnh thực tiễn về nâng cao chất lượng lao động của
đội ngũ trí thức GDĐH Việt Nam chưa được làm sáng tỏ như: thực trạng,
những vấn đề đặt ra từ thực trạng; việc qui chế hoá chất lượng lao động của
đội ngũ trí thức GDĐH ở các cơ sở đào tạo trên phạm vi cả nước; cơ chế,
mức độ, hiệu quả tác động của chủ trương, chính sách, pháp luật đến việc
nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ này ở nước ta hiện nay.
Sáu là, việc làm rõ chất lượng lao động của đội ngũ trí thức quản lý giáo
dục ở bậc đại học nước ta còn là vấn đề mới mẻ, chưa có những công trình
nghiên cứu chuyên sâu theo hướng xây dựng thành lý luận và tổng kết thực tiễn
về chất lượng lao động của đội ngũ này đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn
diện GDĐH Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Bảy là, còn có nhiều vấn đề chưa được luận chứng mà tác giả luận án sẽ
tập trung giải quyết như:
- Với phương pháp tiếp cận liên ngành triết học - chính trị - xã hội - giáo
dục, luận án hình thành quan niệm mới có tính hệ thống về chất lượng lao
động của trí thức GDĐH.
- Xây dựng luận cứ khoa học cho tính tất yếu nâng cao chất lượng lao động
của trí thức GDĐH Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.
- Luận án xác lập những tiêu chí đánh giá chất lượng lao động của trí thức
GDĐH làm cơ sở khoa học cho việc khảo sát thực trạng chất lượng lao động của
đội ngũ trí thức GDĐH Việt Nam ở một số trường đại học công lập.
- Luận án chỉ rõ một số vấn đề đặt ra đối với chất lượng lao động của đội
ngũ trí thức GDĐH Việt Nam, từ đó đề xuất những giải pháp chủ yếu nâng
cao chất lượng lao động của đội ngũ này ở nước ta hiện nay.
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG LAO ĐỘNG
CỦA TRÍ THỨC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
2.1. QUAN NIỆM VỀ TRÍ THỨC, TRÍ THỨC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VÀ LAO
ĐỘNG CỦA TRÍ THỨC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
2.1.1. Quan niệm về trí thức
Trí thức là một thuật ngữ, một khái niệm khoa học với những hàm nghĩa
khác nhau. Theo đó, khi xem xét quan niệm về trí thức đòi hỏi phải chú ý đến
tính lịch sử - cụ thể và giác độ tiếp cận. Thống nhất với quan niệm của chủ
nghĩa Mác - Lênin, của Đảng Cộng sản Việt Nam về trí thức, chúng tôi cho
8rằng, trí thức là một tầng lớp xã hội được đặc trưng bởi phương thức lao
động trí óc, sáng tạo. Họ là lực lượng chủ yếu tham gia trực tiếp vào việc
phát kiến, giữ gìn và truyền bá tri thức góp phần thúc đẩy sự phát triển nhận
thức khoa học và sự tiến bộ của xã hội.
Cần nhận diện trí thức ở một số đặc trưng nổi trội sau: Trí thức không phải
là một giai cấp mà là một tầng lớp xã hội đặc biệt và đặc thù; trí thức cần
được xem như một cá thể - chủ thể mang nhân cách sáng tạo; học vấn, học
thức của người trí thức được gây dựng qua đào tạo, được bồi dưỡng và phát
triển không ngừng bằng con đường tự đào tạo, tự trau dồi và hoàn thiện của
cá nhân trong lao động và hoạt động sáng tạo; với trí thức chân chính, hiểu
biết phải gắn liền với cống hiến; lý tưởng chính trị và trách nhiệm xã hội phải
được biểu hiện thông qua lý tưởng nghề nghiệp, qua hoạt động chuyên môn
đặc thù, gắn bó sâu nặng với Tổ quốc và nhân dân.
2.1.2. Quan niệm về trí thức giáo dục đại học Việt Nam
Trí thức GDĐH Việt Na