1.1. Tự sự học đã tác động mạnh mẽ đến nghiên cứu, phê bình văn học cũng như việc dạy học môn Ngữ văn trong nhà trường nói chung và dạy học tác phẩm tự sự (TPTS) nói riêng; đòi hỏi những thay đổi về mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học.
1.2. Tác phẩm tự sự có một vị trí quan trọng trong chương trình, sách giáo khoa (SGK) ở trường trung học phổ thông (THPT).
1.3. Sự đổi mới mạnh mẽ của mục tiêu giáo dục nói chung và mục tiêu dạy học đọc văn nói riêng. Đi cùng với sự đổi mới về mục tiêu, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đề ra những định hướng đổi mới. Chỉ thị 29/2001/CT- BGD và ĐT đã nhấn mạnh: “Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục và đào tạo ở tất cả các cấp học, bậc học, ngành học theo hướng sử dụng công nghệ thông tin như là một công cụ hỗ trợ đắc lực nhất cho việc đổi mới PPDH ở tất cả các môn học”.
24 trang |
Chia sẻ: lecuong1825 | Lượt xem: 2666 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Dạy học tác phẩm tự sự ở trường trung học phổ thông với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Tự sự học đã tác động mạnh mẽ đến nghiên cứu, phê bình văn học cũng như việc dạy học môn Ngữ văn trong nhà trường nói chung và dạy học tác phẩm tự sự (TPTS) nói riêng; đòi hỏi những thay đổi về mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học.
1.2. Tác phẩm tự sự có một vị trí quan trọng trong chương trình, sách giáo khoa (SGK) ở trường trung học phổ thông (THPT).
1.3. Sự đổi mới mạnh mẽ của mục tiêu giáo dục nói chung và mục tiêu dạy học đọc văn nói riêng. Đi cùng với sự đổi mới về mục tiêu, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đề ra những định hướng đổi mới. Chỉ thị 29/2001/CT- BGD và ĐT đã nhấn mạnh: “Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục và đào tạo ở tất cả các cấp học, bậc học, ngành học theo hướng sử dụng công nghệ thông tin như là một công cụ hỗ trợ đắc lực nhất cho việc đổi mới PPDH ở tất cả các môn học”.
1.4. Thực tế dạy học TPTS ở trường THPT hiện nay chưa đáp ứng được mục tiêu cần đạt cả về kiến thức và kĩ năng. GV và HS gặp nhiều khó khăn trong quá trình dạy và học TPTS. Thực trạng dạy học TPTS với sự hỗ trợ ở THPT của CNTT hiện nay tồn tại nhiều vấn đề cần trao đổi, nghiên cứu.
1.5. Việc dạy học TPTS với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin (CNTT) có những đặc trưng riêng và tỏ ra đắc dụng trên nhiều phương diện.
Xuất phát từ những lí do trên mà tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài: Dạy học tác phẩm tự sự ở trường trung học phổ thông với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích: nhằm đề xuất những định hướng và biện pháp dạy học TPTS có sự hỗ trợ của CNTT một cách phù hợp, tích cực nhằm góp phần giải quyết những khó khăn trong thực tiễn dạy học hiện nay, từ đó nâng cao hiệu quả dạy học, đáp ứng tốt mục tiêu môn học đã đề ra.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: khảo sát, phân tích, tổng hợp, đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài và các vấn đề liên quan; điều tra, khảo sát thực trạng; xác lập cơ sở lí luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu; đề xuất các định hướng và biện pháp dạy học; thực nghiệm sư phạm.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu trung tâm của luận án là vấn đề biện pháp dạy học tác phẩm tự sự ở THPT với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin; không phải là biện pháp dạy học chung chung như trong lí luận dạy học hay trong các công trình nghiên cứu khác mà điểm khác của luận án là “có sự hỗ trợ của CNTT”.
“Hỗ trợ” nghĩa là “giúp đỡ lẫn nhau, giúp đỡ thêm vào”. Với cách hiểu này, CNTT ở đây đóng vai trò chủ yếu là phương tiện, nó không chủ đạo, không thay thế nhưng có thể làm cho việc dạy học TPTS trở nên hấp dẫn, sinh động hơn, nhẹ nhàng hơn và góp phần mang lại hiệu quả cao hơn. Dù là hỗ trợ và là phương tiện nhưng CNTT ở đây không được sử dụng như một sự lắp ghép, kết hợp cơ học mà người nghiên cứu nhấn mạnh đến sự tích hợp giữa dạy TPTS với sự hỗ trợ của CNTT nghĩa là nhấn mạnh đến sự gặp gỡ ở những “miền trung gian”, một sự hòa kết thành chỉnh thể giờ học thống nhất từ trong nội lực, trong bản chất của biện pháp dạy học và CNTT theo nghĩa gốc của thuật ngữ “tích hợp”...
3.2. Phạm vi nghiên cứu: Sách giáo khoa Ngữ văn lớp 10 - 11 - 12, bộ cơ bản; khảo sát thực trạng và thực nghiệm sư phạm ở một số trường THPT ở tỉnh Thừa Thiên Huế, Quảng Bình, Gia Lai, Thanh Hóa, Quảng Nam
4. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp phân tích, tổng hợp; Phương pháp điều tra thực tiễn; Phương pháp thực nghiệm sư phạm, Phương pháp thống kê...
5. Giả thuyết khoa học: Vấn đề dạy học TPTS với sự hỗ trợ của CNTT hiện còn nhiều bất cập, chưa phát huy được những thế mạnh của CNTT cũng như chưa có sự kết hợp, hỗ trợ linh hoạt, hiệu quả giữa các biện pháp dạy học và các tính năng của CNTT vào việc thể hiện đặc trưng bài học và đi đến mục tiêu dạy học một cách tối ưu. Nếu nghiên cứu đề xuất được những định hướng và biện pháp dạy học TPTS với sự hỗ trợ của CNTT một cách phù hợp thì không những góp phần giải quyết các vấn đề bất cập của thực tiễn dạy học mà còn đáp ứng được những yêu cầu mới, nâng cao hiệu quả dạy học TPTS ở trường THPT hiện nay.
NỘI DUNG
Chương 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu về tự sự, tác phẩm tự sự và dạy học tác phẩm tự sự
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về tự sự và tác phẩm tự sự
Đặt nền móng cho những cơ sở ban đầu của lí thuyết tự sự học là trường phái hình thức Nga. Tuy nhiên, phải đến chủ nghĩa cấu trúc thì bộ môn tự sự học mới được ra đời với sự góp mặt của R. Barthes, Tz. Todorov, A. J.Greimas, G. Genette R. Barthes trong Nhập môn phân tích cấu trúc truyện kể (1966) đã đề cập cụ thể những phương diện trọng yếu của nghệ thuật trần thuật trong mối quan hệ với tác phẩm văn chương. T. Todorov với Thi pháp văn xuôi đã quan tâm đến vấn đề tự sự học, từ góc nhìn lí thuyết ứng dụng. Đặc biệt, Gérard Genette đã đề xuất nhiều thuật ngữ quan trọng của lĩnh vực tự sự học qua các công trình Những hình thái (Figures) và tác phẩm Diễn ngôn mới của truyện kể (Những vấn đề như ngôi, giọng điệu, tác giả, người kể chuyện, người nghe chuyện).
Ở Việt Nam, một trong những người đầu tiên quan tâm và có những công trình nghiên cứu lớn về tự sự học là GS. Trần Đình Sử. Tác giả đã không chỉ hệ thống, khái lược những vấn đề về lí thuyết tự sự mà còn cắt nghĩa những khái niệm thuộc về trần thuật học như vấn đề người kể chuyện và chủ thể trần thuật; điểm nhìn trong văn bản; mô hình tự sự (công trình Dẫn luận thi pháp học). Đặc biệt, Tự sự học (Trần Đình Sử - chủ biên), tập 1 - 2 là công trình tập hợp được nhiều bài viết của nhiều nhà nghiên cứu cả trên lĩnh vực lí thuyết cũng như ứng dụng. Công trình này đã lược dịch, lí giải, làm rõ quan điểm của những nhà lí luận trên thế giới về tự sự học và TPTS như vấn đề điểm nhìn, người kể chuyện, cấu trúc tự sự Ở công trình này còn có một số bài viết đã sử dụng lí thuyết tự sự để soi chiếu vào văn bản tác phẩm cụ thể.
Ngoài ra, các cuốn Tự sự học: một số vấn đề lí luận và lịch sử (Trần Đình Sử chủ biên) hay bài viết Tiếp cận Genette qua một vài khái niệm trần thuật (Lê Phong Tuyết) đã góp phần làm sáng tỏ một số phương diện cụ thể của lí thuyết tự sự học.
Giáo trình Lí luận văn học (Trần Đình Sử), tập 2, phần Tác phẩm và thể loại: nghiên cứu về vấn đề khái niệm, phân loại, đặc trưng của truyện và tiểu thuyết. Giáo trình còn đề cập đến các vấn đề cơ bản khác của TPTS như sự kiện, cốt truyện, trần thuật và các yếu tố của trần thuật: người kể chuyện, ngôi trần thuật, vai trần thuật, điểm nhìn trần thuật, lược thuật, dựng cảnh, miêu tả chân dung, phân tích, bình luận và giọng điệu. Chương Nhân vật văn học với các nội dung như khái niệm, đặc trưng, chức năng và các yếu tố của nhân vật cũng là một vấn đề lí luận quan trọng về TPTS.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu về dạy học tác phẩm tự sự
- Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể - Trần Thanh Đạm (chủ biên).
- Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương (Theo loại thể) và Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương trong nhà trường của PGS.TS. Nguyễn Viết Chữ.
Ngoài ra, những giáo trình, những nghiên cứu về phương pháp dạy học Ngữ văn ở phổ thông của các tác giả khác như Phan Trọng Luận, Nguyễn Thanh Hùng, Nguyễn Thị Thanh Hương, dù không trực tiếp bàn về vấn đề dạy học TPTS hoặc chỉ đề cập đến như một đối tượng trong phân môn đọc hiểu nhưng trong những đề xuất về phương pháp dạy học tác phẩm văn học nói chung cũng đã có lưu ý về thể loại nên cũng là những gợi ý làm cơ sở quý giá cho việc nghiên cứu của đề tài.
Dạy học TPTS còn là một vấn đề quan tâm của nhiều nghiên cứu sinh, học viên cao học, sinh viên cũng như các thầy cô giáo đang trực tiếp đứng lớp giảng dạy môn Ngữ văn ở THPT.
Tóm lại, có rất nhiều công trình nghiên cứu về dạy học TPTS của nhiều đối tượng khác nhau. Nhìn chung, những công trình này đều tập trung đi vào đặc trưng cơ bản của thể loại để đề xuất những định hướng, những cách thức dạy học tương ứng nhằm nâng cao hiệu quả dạy học. Đây cũng là những gợi ý khá sát với đề tài, từ đó người nghiên cứu có thể vận dụng, phát triển theo hướng phối hợp với sự hỗ trợ của CNTT nhằm đưa ra những định hướng, biện pháp vừa có tính khái quát cho loại hình tự sự nói chung vừa có tính cụ thể cho vấn đề sử dụng công nghệ một cách hiệu quả, phù hợp với các văn bản tự sự trong SGK ở THPT, đáp ứng những yêu cầu và đặc trưng của dạy học đổi mới.
1.2. Tình hình nghiên cứu vấn đề khai thác công nghệ, công nghệ thông tin hỗ trợ dạy học
1.2.1. Trên thế giới
- Teaching tips - Những “bí quyết” dạy học (McKeachie - chủ biên).
- Teaching with Technology - Dạy học với công nghệ (Simon Hooper - College of Education University of Minnesota and Lloyd P. Rieber Department of Instructional Technology - The University of Georgia.
- Implementing seven principles - technology as lever (Arthur. V.Chickering and Stephen. C. Ehrmann) (Triển khai thực hiện bảy nguyên tắc: Công nghệ như là đòn bẩy). Đặc biệt, nhiều trang web của nhiều trường đại học trên thế giới có hẳn những diễn đàn tập hợp rất nhiều bài viết, bài nghiên cứu về vấn đề sử dụng CNTT vào dạy và học. Tất cả các bài viết đều khẳng định sự cần thiết của việc ứng dụng công nghệ vào dạy học cũng như khẳng định những ưu điểm nổi bật của nó, đề xuất những cách thức ứng dụng hỗ trợ cho hoạt động dạy và học. Những bài viết này cũng đã đề cập đến những khó khăn hay những hạn chế thường gặp phải khi ứng dụng công nghệ vào dạy học, đó là mất nhiều thời gian, HS dễ lạc hướng, công nghệ dễ “dẫn GV đến các khu nghỉ dưỡng để sao lưu”; công nghệ thay đổi nhanh chóng đòi hỏi GV và HS phải cập nhật liên tục
1.2.2. Ở Việt Nam
Điểm qua các công trình nghiên cứu cho thấy việc sử dụng CNTT vào dạy học hiện nay đã được các nhà khoa học, các nhà giáo dục quan tâm nghiên cứu và đưa vào sử dụng trong thực tế dạy học ở nhiều bộ môn khác nhau, với nhiều đối tượng khác nhau; đồng thời cũng khẳng định việc sử dụng CNTT vào dạy học là một hướng đi đúng đắn để góp phần nâng cao hiệu quả dạy học, mang lại diện mạo mới, chất lượng mới cho nền giáo dục nước nhà.
1.3. Tình hình nghiên cứu vấn đề khai thác công nghệ thông tin hỗ trợ dạy học Ngữ văn và dạy học tác phẩm tự sự với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin
1.3.1. Tình hình nghiên cứu vấn đề khai thác công nghệ thông tin hỗ trợ dạy học Ngữ văn
1.3.1.1. Trên thế giới
Lược qua các bài viết trên có thể thấy những vấn đề được thống nhất như sau:
- Các bài viết đều khẳng định những ưu điểm nổi trội, các tính năng CNTT hỗ trợ dạy học văn. Ngoài ra, các bài viết cũng nhấn mạnh đến ưu điểm của CNTT trong việc phát huy năng lực và vai trò chủ thể tích cực của người học...
- Các bài viết cũng chỉ ra một số hình thức hỗ trợ của CNTT đối với dạy học văn, đặc biệt nhấn mạnh ưu thế của hình thức sử dựng webquest; đề xuất một số dự án có thể thực hiện trong quá trình dạy học Văn với sự hỗ trợ của CNTT theo từng thể loại như tiểu thuyết, thơ; đề xuất các chiến lược khai thác CNTT hỗ trợ đọc hiểu Tóm lại, những bài viết trên đã đề xuất rất nhiều các ưu điểm cũng như những hình thức hỗ trợ của CNTT đối với dạy học văn nói chung và dạy học TPTS nói riêng (tiểu thuyết), từ những hình thức hỗ trợ việc tổ chức dạy học trực tiếp ở lớp (cung cấp tài nguyên điện tử, hỗ trợ hình thức trình bày, kích thích động cơ, hứng thú học tập) đến những hình thức học tập trực tuyến qua webquest, blog
Đây là những gợi ý hết sức hiện đại cho tác giả luận án để có thể tiếp thu trong phạm vi dạy học TPTS ở trong nhà trường THPT và trong điều kiện thực tiễn nhà trường ở Việt Nam.
1.3.1.2. Ở Việt Nam
Vấn đề khai thác, ứng dụng CNTT hỗ trợ dạy học Ngữ văn được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, tìm hiểu. Tiêu biểu như GS. Phan Trọng Luận với Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học các môn Khoa học xã hội nhân văn; PGS.TS. Đỗ Ngọc Thống với Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học Ngữ Văn đã khẳng định tính tất yếu và tính hiệu quả khi khai thác CNTT hỗ trợ dạy học Ngữ văn nói chung. Tuy nhiên, các tác giả cũng nhấn mạnh cần thận trọng khi UDCNTT vào dạy học tác phẩm văn chương. Khai thác công nghệ thông tin hỗ trợ dạy học Ngữ văn cũng là một chủ đề thu hút được nhiều sự quan tâm của các thầy cô giáo trên các diễn đàn, các trang web của các trường Đại học, THPT. Những bài viết này dưới hình thức chủ yếu là sáng kiến kinh nghiệm của những GV trực tiếp đứng lớp nên đã đúc kết lại những kinh nghiệm của mình trên các phương diện ưu điểm - hạn chế của việc UDCNTT vào dạy học Ngữ văn, một số cách thức ứng dụng cụ thể như cách thiết kế giáo án điện tử, cách khai thác một số thế mạnh của CNTT phục vụ cho các bài dạy học cụ thể, chủ yếu là Tiếng Việt và Làm văn. Đọc văn chủ yếu được ứng dụng cho kiểu văn bản lịch sử văn học, lí luận văn học UDCNTT vào dạy học Ngữ văn cũng là một địa hạt thu hút nhiều nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên.
Có thể nói, những công trình nghiên cứu về UDCNTT vào dạy học Ngữ văn chủ yếu tập trung vào phần Tiếng Việt và Làm văn hoặc các đề tài đề cập một cách chung chung vào dạy học Ngữ văn, dạy học tác phẩm văn học. UDCNTT vào dạy học đọc - hiểu nhìn chung còn nhiều ý kiến e ngại do tính chất cảm xúc đậm đặc của bộ phận kiến thức này. Tác giả mạnh dạn lựa chọn dạy học TPTS với sự hỗ trợ của CNTT bởi tính chất khoa học, logic và nghệ thuật, cảm xúc được thể hiện một cách hài hoà của nó.
1.3.2. Tình hình nghiên cứu vấn đề dạy học tác phẩm tự sự với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin
Kết quả khảo sát ở trên cho thấy có nhiều công trình nghiên cứu về TPTS, dạy học TPTS, UDCNTT vào dạy học, UDCNTT vào dạy học Ngữ văn, dạy học tác phẩm văn chương, dạy học Tiếng Việt Những công trình này ít nhiều đề cập đến việc khai thác, sử dụng CNTT trong dạy học TPTS nhưng chỉ như một nội dung, một bộ phận cấu thành nên môn Ngữ văn. Các tác giả cũng chưa chú trọng đến việc đề xuất hệ thống biện pháp dạy học có sự hỗ trợ của CNTT mà chỉ mới dừng lại những biện pháp, những hình thức UDCNTT vào dạy học; nghĩa là chưa nhấn mạnh đến đặc trưng của nội dung bài học, phương pháp dạy học và khả năng cũng như cách thức tích hợp CNTT vào các biện pháp dạy học cụ thể.
Với đề tài Dạy học tác phẩm tự sự ở trung học phổ thông với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin, tác giả sẽ tập trung nghiên cứu, đề xuất các biện pháp dạy học TPTS với sự hỗ trợ của CNTT. Cốt lõi vấn đề là dạy học TPTS, nhưng không phải là dạy học TPTS chung chung như trong lí luận dạy học mà là dạy học TPTS có sự hỗ trợ của CNTT, trong đó nhấn mạnh và đóng góp chính là cách thức tích hợp CNTT vào các biện pháp dạy học TPTS như thế nào để hỗ trợ việc thực hiện các biện pháp dạy học đó một cách phù hợp với đặc trưng thể loại và đạt mục tiêu hình thành năng lực văn cho HS một cách hiệu quả. Nhìn một cách khái quát thì cho đến nay vẫn chưa có công trình nào trực tiếp, tập trung nghiên cứu cụ thể vấn đề này.
Chương 2: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ
DẠY HỌC TÁC PHẨM TỰ SỰ Ở TRUNG HỌC PHỔ THÔNG VỚI SỰ HỖ TRỢ CỦA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
2.1. Cơ sở lí luận
2.1.1. Những vấn đề lí thuyết về tự sự và tác phẩm tự sự
2.1.1.1. Khái niệm
Có nhiều cách định nghĩa khác nhau, nhưng chung quy lại tự sự có thể được hiểu là “phương thức tái hiện đời sống” trong “toàn bộ tính khách quan của nó” để “phản ánh hiện thực qua bức tranh mở rộng của đời sống trong không gian, thời gian, qua các sự kiện, biến cố xảy ra trong cuộc đời con người”. Theo đó, có thể hình dung một cách khái quát tác phẩm tự sự là những tác phẩm văn học sử dụng phương thức phản ánh hiện thực cuộc sống một cách khách quan thông qua hệ thống sự kiện, biến cố, hành vi con người
2.1.1.2. Phân loại tác phẩm tự sự
Phân loại TPTS là một vấn đề phức tạp và có nhiều điểm chưa thống nhất. Luận án phối hợp cả hai tiêu chí phạm trù thi pháp (tương ứng với tiêu chí thời gian) và phương thức phản ánh để xác định ba phạm trù lớn là tự sự dân gian, tự sự trung đại và tự sự hiện đại. Mỗi phạm trù như vậy lại gồm rất nhiều thể loại nhỏ khác như tự sự dân gian gồm: thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích, sử thi, truyện cười, truyện ngụ ngôn Tự sự trung đại gồm các thể loại tiêu biểu như truyện thơ, truyện truyền kì, tiểu thuyết chương hồi. Tự sự hiện đại: truyện ngắn, tiểu thuyết. Ngoài ra, một số thể loại khác như kí, tuỳ bút cũng được xếp vào tự sự. Trong phạm vi đề tài này luận án chỉ xét đến những thể loại điển hình của tự sự có văn bản được học trong SGK THPT.
2.1.1.3. Đặc điểm TPTS góc nhìn tiềm năng khai thác sự hỗ trợ của CNTT trong dạy học
a) Tác phẩm tự sự tái hiện đời sống trong toàn bộ tính khách quan: Chính đặc điểm này mà việc sử dụng CNTT hỗ trợ dạy học các văn bản tự sự càng phù hợp và hiệu quả. Nếu như TPTS là cuốn phim ghi lại những gì đang xảy ra trong đời sống thì CNTT sẽ giúp chiếu lại cuốn phim đó đến với người xem (người đọc) một cách chân thực, khách quan và sống động, hỗ trợ cho quá trình tiếp nhận TPTS ở lớp học thêm sinh động, hiệu quả.
b) Tác phẩm tự sự phản ánh cuộc sống rộng lớn, phong phú, đa dạng: Với sự hỗ trợ của CNTT, GV có thể giúp HS có thể “nhìn tận mắt” và cảm nhận bằng mọi giác quan cuộc sống rộng lớn và toàn diện đó để có thể rung cảm và chiêm nghiệm bằng nhiều chiều kích.
c) Cốt truyện, tình huống truyện, nhân vật và trần thuật là những yếu tố cơ bản của tác phẩm tự sự: công nghệ thông tin có khả năng giúp HS khắc sâu ấn tượng thông qua những hiệu ứng, màu sắc, hình ảnh, qua những liên kết liên hệ, mở rộng, những sơ đồ hay mô hình. Từ đó, các em có thể nắm, nhớ được hệ thống chi tiết, cốt truyện, nhân vật một cách sâu sắc và hệ thống; công nghệ thông tin cũng có khả năng hiện thực hóa những tình huống truyện thông qua những đoạn phim (nếu tác phẩm được chuyển thể thành phim) hoặc thông qua những mô hình, sơ đồ xác lập mối quan hệ của những yếu tố tạo nên tình huống; Công nghệ thông tin với các tính năng có thể tạo nên những điểm nhấn, tái tạo hình tượng trực quan sẽ hỗ trợ đắc lực trong việc đưa nhân vật đến với người học, đến với cuộc đời một cách sinh động và ý nghĩa.
Trần thuật và các yếu tố của trần thuật: Nghệ thuật trần thuật và các yếu tố trần thuật chính là điểm mới của tự sự học so với truyện kể truyền thống. Công nghệ thông tin là sự lựa chọn phù hợp để giúp GV và HS tự cập nhật kiến thức lí luận, tự phát triển tiềm lực và nâng cao trình độ, trang bị tri thức đọc hiểu cũng như giúp người học tiếp cận văn bản đúng với đặc trưng của nó.
Như vậy, những đặc điểm cơ bản như trên của TPTS cho thấy rằng, từ trong bản chất và cấu trúc nó đã có nhiều yếu tố phù hợp và cần thiết có sự hỗ trợ của CNTT.
2.1.1.4. Một số vấn đề cơ bản về đọc hiểu và dạy học đọc hiểu văn bản
a) Quan niệm về đọc hiểu, dạy học đọc hiểu văn bản: Khái niệm đọc hiểu không chỉ được hiểu một cách giản đơn theo nghĩa tổng cộng của hai từ “đọc” và “hiểu” mà là một khái niệm có ý nghĩa khái quát cao, chỉ toàn bộ quá trình tiếp nhận văn bản và phải huy động nhiều kĩ năng khác nhau để có thể hiểu, cảm thụ, lí giải, ý nghĩa của văn bản đó, là “là quá trình lao động sáng tạo mang tính thẩm mĩ nhằm phát hiện ra những giá trị tác phẩm trên cơ sở phân tích đặc trưng văn bản”. Theo đó, dạy học đọc hiểu văn bản chính là dạy cách tiếp nhận văn bản, cách đọc hiểu văn bản; là GV tổ chức, hướng dẫn HS sử dụng các kĩ năng cụ thể đọc hiểu văn bản thông qua các kĩ năng, thao tác cụ thể.
b) Mục tiêu dạy học đọc hiểu văn bản: Có thể thấy, mục tiêu dạy học đọc hiểu nhằm đào tạo con người phát triển toàn diện cả về kiến thức, kĩ năng và nhân cách để có thể tự học và học tập suốt đời; phát triển và tự phát triển, thích ứng với xu thế của thời đại.
c) Phương pháp dạy học đọc hiểu văn bản: Phương pháp dạy học đọc hiểu đặc biệt nhấn mạnh vai trò của bạn đọc – học sinh, tiếp thu quan điểm của lí thuyết tiếp nhận xem người đọc là bạn đọc sáng tạo, kiến tạo nên ý nghĩa của văn bản. Để thực hiện vai trò tích cực này, HS phải là chủ thể của các kĩ năng, các hoạt động đọc hiểu cơ bản như theo quan niệm của PGS.TS. Nguyễn Thị Thanh Hương bao gồm: Huy động tích cực những tri thức, trải nghiệm đọc hiểu; Giải mã văn bản; Dự đoán; Xác định mục tiêu đọc; Tạo kết nối trong và sau quá trình đọc văn bản; Hình dung, tưởng tượng; Suy luận, cắt nghĩa; Đặt câu hỏi; Tổng hợp đánh giá và vận dụng; Giám sát việc hiểu của bản thân. Trong giờ học