Giới trẻ là thuật ngữ chỉ một nhóm người trong xã hội có
những đặc điểm riêng về tâm sinh lý và nhu cầu sinh tồn. Giới trẻ
không hẳn là một bộ phận dân cư đồng nhất, mà đa dạng từ độ tuổi,
giới tính, nghề nghiệp, định hướng giá trị, cách ứng xử. Họ thường
được xem là lớp người năng động, chủ động, tích cực trong việc
chuẩn bị hành trang cho tương lai của bản thân, có đóng góp nhiều
vào lịch sử phát triển của quốc gia - dân tộc. Bên cạnh những ảnh
hưởng do tiếp nhận những sự trao truyền, giáo dục của thế hệ đi
trước, họ luôn có những lựa chọn của riêng mình. Trong thời đại toàn
cầu hoá hiện nay giới trẻ Việt Nam nói chung và giới trẻ sống ở Hà
Nội nói riêng chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố văn hoá, tri thức, kinh
nghiệm, giá trị từ bên ngoài, từ những cá nhân và các cộng đồng khác
trên thế giới.
Giới trẻ là nhóm đối tượng được quan tâm đặc biệt của ngành
Nghiên cứu Văn hoá (Cultural Studies) – một ngành được hình thành
từ những năm 60 của thế kỷ XX và đã tạo nên dấu ấn đặc sắc riêng
bởi cách tiếp cận riêng biệt về những vấn đề văn hoá. Với cách tiếp
cận liên ngành, nhấn mạnh đến yếu tố quyền lực, tính chính trị của
văn hoá và bản sắc nhóm, ngành Nghiên cứu Văn hoá quan tâm đặc
biệt đến giới trẻ như một “tiểu văn hoá” (subculture). Những hình
thức âm nhạc, phong cách thời trang, hoạt động giải trí, những điệu
múa và ngôn ngữ riêng biệt gắn liền với tuổi trẻ đã trở thành những
chủ đề quan trọng từ cách tiếp cận của ngành ở một khía cạnh nào đó,
những “tiểu văn hoá” này được xem nhưnhững thể hiện có tính
kháng cự mang tính biểu tượng đối với trật tự xã hội.
Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, với sự phát triển chung của
kinh tế và xã hội, sự lên ngôi của truyền thông xã hội, tác động của
toàn cầu hoá, giới trẻ bị phân hoá ngày càng rõ ràng và đời sống của
giới trẻ có những biến đổi mạnh mẽ về nhiều mặt, trong đó có đời
sống văn hoá tinh thần. Đặc biệt, những sinh hoạt văn hoá nghệ thuật
và cách thưởng thức, các hình thức giải trí, thị hiếu nghệ thuật.vv
của giới trẻ nói chung và của giới trẻ đang sinh sống và làm việc tại
Hà Nội nói riêng ngày càng đa dạng trong đó có những nhóm chơi
ghi ta.
27 trang |
Chia sẻ: thientruc20 | Lượt xem: 495 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Ghi ta trong đời sống giới trẻ hiện nay tại Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VŨ THỊ THANH TRÀ
GHI TA TRONG ĐỜI SỐNG GIỚI TRẺ HIỆN NAY
TẠI HÀ NỘI
Chuyên ngành: VĂN HOÁ HỌC
Mã số: 62 31 06 40
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SỸ VĂN HOÁ HỌC
Hà Nội - 2017
Công trình được hoàn thành tại:
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Phạm Quỳnh Phương
TS. Đỗ Lan Phương
Phản biện 1: PGS.TS. Bùi Hoài Sơn
Phản biện 2: PGS.TS. Trần Đức Ngôn
Phản biện 3: PGS.TS. Bùi Huyền Nga
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện
họp tại: Học viện Khoa học Xã hội
Vào hồi ......... giờ.........ngày.........tháng.........năm 2017
Có thể tìm thấy luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện Học viện Khoa học Xã hội
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giới trẻ là thuật ngữ chỉ một nhóm người trong xã hội có
những đặc điểm riêng về tâm sinh lý và nhu cầu sinh tồn. Giới trẻ
không hẳn là một bộ phận dân cư đồng nhất, mà đa dạng từ độ tuổi,
giới tính, nghề nghiệp, định hướng giá trị, cách ứng xử... Họ thường
được xem là lớp người năng động, chủ động, tích cực trong việc
chuẩn bị hành trang cho tương lai của bản thân, có đóng góp nhiều
vào lịch sử phát triển của quốc gia - dân tộc. Bên cạnh những ảnh
hưởng do tiếp nhận những sự trao truyền, giáo dục của thế hệ đi
trước, họ luôn có những lựa chọn của riêng mình. Trong thời đại toàn
cầu hoá hiện nay giới trẻ Việt Nam nói chung và giới trẻ sống ở Hà
Nội nói riêng chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố văn hoá, tri thức, kinh
nghiệm, giá trị từ bên ngoài, từ những cá nhân và các cộng đồng khác
trên thế giới.
Giới trẻ là nhóm đối tượng được quan tâm đặc biệt của ngành
Nghiên cứu Văn hoá (Cultural Studies) – một ngành được hình thành
từ những năm 60 của thế kỷ XX và đã tạo nên dấu ấn đặc sắc riêng
bởi cách tiếp cận riêng biệt về những vấn đề văn hoá. Với cách tiếp
cận liên ngành, nhấn mạnh đến yếu tố quyền lực, tính chính trị của
văn hoá và bản sắc nhóm, ngành Nghiên cứu Văn hoá quan tâm đặc
biệt đến giới trẻ như một “tiểu văn hoá” (subculture). Những hình
thức âm nhạc, phong cách thời trang, hoạt động giải trí, những điệu
múa và ngôn ngữ riêng biệt gắn liền với tuổi trẻ đã trở thành những
chủ đề quan trọng từ cách tiếp cận của ngành ở một khía cạnh nào đó,
những “tiểu văn hoá” này đu ̛ợc xem nhu ̛ những thể hiện có tính
kháng cự mang tính biểu tượng đối với trật tự xã hội.
Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, với sự phát triển chung của
kinh tế và xã hội, sự lên ngôi của truyền thông xã hội, tác động của
toàn cầu hoá, giới trẻ bị phân hoá ngày càng rõ ràng và đời sống của
giới trẻ có những biến đổi mạnh mẽ về nhiều mặt, trong đó có đời
sống văn hoá tinh thần. Đặc biệt, những sinh hoạt văn hoá nghệ thuật
và cách thưởng thức, các hình thức giải trí, thị hiếu nghệ thuật...vv
của giới trẻ nói chung và của giới trẻ đang sinh sống và làm việc tại
Hà Nội nói riêng ngày càng đa dạng trong đó có những nhóm cho ̛i
ghi ta.
Là một ngu ̛ời làm việc trong lĩnh vực nghệ thuật âm nhạc, có
2
nhiều năm cho ̛i và giảng dạy ghi ta, tác giả nhận thấy ghi ta là một
nhạc cụ được một bộ phận giới trẻ lựa chọn sử dụng trong các hoạt
động giải trí của mình, từ môi tru ̛ờng chuyên nghiệp và không
chuyên ở các trung tâm âm nhạc, các câu lạc bộ (CLB) của các
trường Đại học (ĐH). Và không đo ̛n thuần là một hoạt động giải trí,
hoạt động ghi ta đã như một phương tiện hữu hiệu để nhóm trẻ đó thể
hiện mình, đồng thời tạo nên bản sắc nhóm (cùng sở thích).
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Thông qua việc chỉ ra vai trò của ghi ta và các hoạt động xung
quanh cây đàn trong đời sống văn hoá tinh thần của giới trẻ ở Hà
Nội, luận án góp phần khám phá một số khía cạnh trong đời sống của
giới trẻ dưới tác động của toàn cầu hoá, và những thay đổi trong đời
sống xã hội Việt Nam hiện nay.
Vấn đề nghiên cứu chính trong luận án này là tìm hiểu vai trò
của ghi ta trong việc tạo dựng nên văn hoá của một bộ phận giới trẻ
tại Hà Nội.
3. Đối tượng, địa bàn và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của luận án là các hoạt động ghi ta
được thực hành bởi thanh thiếu niên độ tuổi 16 – 30 trong các vai trò:
ngu ̛ời dạy đàn, ngu ̛ời chơi đàn (chuyên nghiệp hay không chuyên
nghiệp), đặc biệt chú ý đến các CLB ghi ta và nhóm học sinh, sinh
viên, công chức.
3.2. Địa bàn và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu này chọn địa bàn là Hà Nội, cụ thể là nội thành Hà
Nội.
4. Phương pháp luận và phưo ̛ng pháp nghiên cứu của luận án
Chúng tôi sử dụng cách tiếp cận văn hoá học có tính liên ngành
như quan tâm đến khía cạnh nghệ thuật học, lịch sử, tâm lý học, tiếp
cận dân tộc học...
Chúng tôi sử dụng các phu ̛ơng pháp cụ thể sau:
nghiên cứu tài
liệu thứ cấp; Phương pháp nghiên cứu định tính, thông qua điền dã
dân tộc học, quan sát tham dự và phỏng vấn sâu.
Với đặc thù nghề nghiệp là thiên về thực hành ít viết, ít lý luận.
Cùng với những bỡ ngỡ, thiếu kinh nghiệm khi lần đầu làm công tác
nghiên cứu, đã gặp một số khó khăn này sinh trong quá trình khảo sát
như: khó có thể xác nhận được số thành viên trong các CLB, khó
3
khăn về nguồn tài liệu Tuy vậy tôi cũng đã cố gắng khắc phục
tham gia và gặp gỡ nhiều hơn, trao đổi thông tin và cảm nghĩa của
mình gợi ra những vấn đề mang tính tranh luận từ những thông tin
phỏng vấn khác. Từ đó các cuộc phỏng vấn – nói chuyện sẽ có được
những thông tin sâu hơn, phong phú hơn
5. Đóng góp của luận án
- Luận án là công trình đầu tiên tìm hiểu vai trò của nhạc cụ
ghi ta từ góc nhìn văn hoá học. Luận án đã phác thảo chiều dài lịch
sử du nhập của ghi ta và vai trò của nó trong đời sống lịch sử, văn
hoá, xã hội của Việt Nam. Đặc biệt, thông qua việc phân tích vai trò
của ghi ta trong đời sống của một bộ phận giới trẻ Hà Nội, luận án
góp thêm một khía cạnh phác hoạ sự phong phú và đa dạng của đời
sống giới trẻ Việt Nam hiện nay và những biến đổi của đời sống giới
trẻ trong bối cảnh toàn cầu hoá và những thay đổi xã hội đang diễn ra
nhanh chóng.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Luận án là một nghiên cứu trường hợp, góp thêm luận cứ cho
thấy vai trò của âm nhạc và giải trí trong việc tạo dựng đời sống văn
hoá của giới trẻ.
- Luận án có thể làm nguồn tài liệu tham khảo cho sinh viên,
giảng viên những nhà nghiên cứu văn hoá học, những ngu ̛ời quan
tâm đến giới trẻ và âm nhạc nói chung và những người yêu thích
nhạc ghi ta ở Việt Nam nói riêng.
7. Co ̛ cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận
án được kết cấu thành 4 chu ̛ơng sau đây:
Chu ̛ơng 1: Tổng quan cơ sở lý luận và vấn đề nghiên cứu
Chu ̛ơng 2: Ghi ta và sự du nhập vào Việt Nam
Chương 3: Những hoạt động ghi ta của giới trẻ tại Hà Nội
Chu ̛ơng 4: Ghi ta - sự kết nối và tạo dựng bản sắc giới trẻ
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ VẤN ĐỀ
NGHIÊN CỨU
1.1. Những khái niệm cơ bản
1.1.1.Khái niệm giới trẻ
“Giới trẻ” là một thuật ngữ đu ̛ợc hiểu theo nhiều nghĩa (về
mặt sinh học hay văn hoá), nhu ̛ng thu ̛ờng được xem là để chỉ những
ngu ̛ời ở độ tuổi thanh thiếu niên. Theo pháp luật Việt Nam, vị thành
4
niên là dưới 18 tuổi nhưng theo điều lệ Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh, thanh niên là ngu ̛ời có độ tuổi từ 15-30 nhu ̛ng có thể sinh
hoạt Đoàn tới năm 35 tuổi. Vì vậy, nhiều nghiên cứu thu ̛ờng giới hạn
độ tuổi của “giới trẻ” khác nhau như: (Bùi Hoài Sơn 2006, Phan Thị
Oanh 2013), Phạm Hồng Tung (2008), Nguyễn Thị Như Thuỷ
(2014:34) thì “trên thế giới và ở nước ta khi nói đến giới trẻ là nói
đến những người trong độ tuổi thanh thiếu niên, năng động, sáng tạo,
thường tò mò, thích khám phá và ham học hỏi”. Tuy nhiên, khái niệm
“giới trẻ” còn có thể nằm ngoài qui định độ tuổi sinh học. “Giới trẻ”
có thể được nhìn nhận từ ba quan điểm: là một phạm trù sinh học,
một nhóm xã hội nổi bật và một cấu trúc văn hoá. Theo Mary
Bucholtz (2002), ngoài việc đưa ra giới hạn độ tuổi của giới trẻ hay
được phân chia theo nhóm tuổi sinh học, ngành nhân học cho rằng
thời thanh niên như một giai đoạn sinh học và tâm lý học trong sự
phát triển của con người,và hơn nữa coi giới trẻ như một phạm trù
văn hoá. Trong nghiên cứu này, do đối tượng khảo sát chính của
chúng tôi là giới học sinh sinh viên, nên “giới trẻ” được hiểu là có độ
tuổi trùng với độ tuổi thanh niên 1 6 -3 0 tuổi, theo luật Thanh niên
được thông qua (29/11/2015) tại kì họp thứ 8 quốc hội khoá XI,
quyết định số 24/2005/L/CTN ngày 9/12/2015.
1.1.2. Khái niệm về “đời sống” và “đời sống giới trẻ”
Theo Từ điển tiếng Việt (2010:454), đời sống “là toàn bộ nói
chung những hoạt động trong một lĩnh vực nào đó của con ngu ̛ời, của
xã hội. Đời sống giới trẻ cũng nằm trong tổng thể đời sống của các
thành viên xã hội hay đời sống của một xã hội.
Trong đề tài này, chúng tôi quan tâm đến đời sống giới trẻ,
với hàm ý mọi khía cạnh hoạt động sống, cả đời sống tinh thần và đời
sống vật chất, của một nhóm những ngu ̛ời trẻ cùng chia sẻ một sở
thích chung, đó là ghi ta.
1.2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
1.2.1 Những nghiên cứu về giới trẻ
Trên thế giới đã có rất nhiều nghiên cứu đề cập tới thanh niên
từ nhiều khía cạnh (Tyyska 2005, Bucholtz 2002, Bassani 2007, Wyn
và Woodman 2006). Theo Mary Bucholtz (2002) trong tác phẩm
Youth and cultural practice (Giới trẻ và thực hành văn hoá), nghiên
cứu về giới trẻ là trọng tâm trong nhân học nửa đầu thế kỷ XX.
Cherylynn Bassani trong tác phẩm Five Dimensions of Social Capital
5
Theory as they Pertain to Youth Studies (Năm khía cạnh của lý thuyết
vốn xã hội có liên quan đến nghiên cứu giới trẻ) (2007) nghiên cứu 5
thành tố của thuyết nguồn vốn xã hội. Wyn và Woodman trong bài
trao đổi Researching Youth in a Context of Social Change: A Reply to
Roberts (Nghiên cứu giới trẻ trong bối cảnh của sự biến đổi xã hội:
trao đổi với Roberts) (2007) sử dụng lăng kính “thế hệ xã hội” để
nhìn nhận về giới trẻ.
Ở Việt Nam, cũng đã có rất nhiều các nghiên cứu tìm hiểu
những vấn đề chung của thanh niên (Đặng Cảnh Khanh 2006, Đặng
Vũ Cảnh Linh 2003), (Đinh Thị Vân Chi 2003, Phan Thanh Tá 1997,
Hu ̛o ̛ng Ly 2008), (Phạm Hồng Tung 2011, Bùi Thị Vân Anh, 2012),
(Bùi Hoài Sơn, Nguyễn Thị Phương Châm 2013, Đặng Cảnh Khanh
2006), (Nguyễn Thị Phương Hoa 2014, Nguyễn Thị Hoa. 2013). Ở
đây chúng tôi sẽ điểm qua một số hướng nghiên cứu này.
1.2.1.1 Nghiên cứu về lối sống của giới trẻ
Các tác giả Việt Nam viết về chủ đề này cho rằng trong thời
đại mới, thanh niên Việt Nam khá phân hoá, bên cạnh những xu
hướng lành mạnh cũng có những mặt khá tiêu cực. Theo Phạm Hồng
Tung (2011:502) trong tác phẩm Thanh niên và lối sống của thanh
niên Việt Nam trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế, sinh ra và
lớn lên trong bối cảnh đất nước thay đổi, thanh niên Việt Nam luôn
đứng trước nhiều lựa chọn khó khăn, nhiều cơ hội và thách thức mà
các thế hệ trước đó chưa từng gặp. Qua nghiên cứu về tình hình thanh
niên hiện nay tác giả cho rằng bên cạnh phần lớn thanh niên Việt
Nam hướng tới những giá trị tốt đẹp thì vẫn còn không ít những
thanh niên đang chịu ảnh hưởng và theo những xu hướng tiêu cực,
không lành mạnh, sa vào những tệ nạn xã hội. Nhiều bài viết cũng
đồng quan điểm cho rằng trong quá trình hội nhập quốc tế, dưới sự
tác động của nền kinh tế thị trường, sự bùng nổ công nghệ thông tin,
nhiều giá trị sống cũng bị thay đổi làm ảnh hưởng đến đạo đức lối
sống của thanh niên trong bài viết Bàn về đạo đức lối sống của thanh
niên trí thức nước ta hiện nay, với đối tượng hẹp là thanh niên trí
thức, Nguyễn Thị Phương Hoa (2014:50). Một số nghiên cứu khác lại
trăn trở với việc tìm hiểu trách nhiệm xã hội của thanh niên hiện nay
Tác giả Lê Thị Thanh Hương (2014:13) cho rằng thanh niên là lứa
tuổi có nhiều hoài bão, không chỉ muốn khẳng định mình trong cuộc
sống mà còn khát khao được góp sức cho sự phát triển chung của cả
dân tộc, nhân loại: “thanh niên Việt Nam hiện nay về cơ bản thể hiện
6
thái độ chính trị và trách nhiệm xã hội của mình như một lẽ tự thân.
1.2.1.2 Nghiên cứu về giới trẻ từ góc độ nhu cầu giải trí
Nhiều nghiên cứu chỉ ra nhu cầu giải trí của thanh niên rất đa
dạng. Trong tác phẩm Nhu cầu giải trí của thanh niên, tác giả Đinh
Thị Vân Chi (2003:123) khẳng định nhu cầu giải trí là động cơ của
hoạt động giải trí, giải trí là “nhu cầu” của con người vì nó đáp ứng
những đòi hỏi từ cá nhân. Khi đáp ứng và thoả mãn được nhu cầu
giải trí thì đó là một trong những phương tiện giúp con người phát
triển toàn diện, vì thế mà vai trò của giải trí với thanh niên là rất cần
thiết. Dựa trên lý thuyết về thời gian rỗi tác giả đưa ra cái nhìn nhận
chung về các khuôn mẫu giải trí của thanh niên. Và để góp phàn làm
sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận về thời gian rỗi và hoạt động vãn
hoá trong thời gian rỗi, luận văn thạc sĩ văn hoá học “Thời gian rỗi
và hoạt động văn hoá của thanh niên Hà Nội hiện nay” (Phan Thanh
Tá, 1997) đã nghiên cứu nhu cầu hoạt động văn hoá của thanh niên
Hà Nội, khảo sát thực trạng những hoạt động văn hoá chủ yếu của
thanh niên trong thời gian rỗi từ đó đưa ra những giải pháp nâng cao
hiệu quả giáo dục văn hoá cho thanh niên, hiệu quả hoạt động của các
thiết chế văn hoá nhằm thu hút các thế hệ trẻ vào những hoạt động
lành mạnh, bài trừ các tệ nạn, văn hoá độc hại, phát huy bản sắc văn
hoá và truyền thống đạo đức của dân tộc. Đồng tình với quan niệm về
nhu cầu giải trí, trong luận văn thạc sĩ “Múa với đời sống sinh hoạt
văn hoá của sinh viên thủ đô hiện nay ” Nguyễn Thị Hiền Trang
(2014:12) cũng dùng khái niệm về nhu cầu giải trí làm cơ sở cho
nghiên cứu của mình, “nhu cầu giải trí không chỉ nhằm mục đích giải
toả sự căng thẳng tinh thần để đạt tới sự thư dãn, thanh thản trong
tâm hồn. Và ở mức độ cao hơn, những hoạt động đó sẽ tạo nên sự
rung cảm về thẩm mỹ”. Cũng bàn về nhu cầu giải trí trên tạp chí Tâm
lý học, số 5 (2014) có bài: “Thực trạng nhu cầu giải trí của thanh
niên dân tộc thiểu số vùng tây Nam Bộ hiện nay” của tác giả Tô
Thuý Hạnh, tác giả chỉ ra nhu cầu giải trí là một trong những nhu cầu
tinh thần được thanh niên dân tộc thiểu số quan tâm, nội dung rất đa
dạng bên cạnh nhu cầu thuyền thống xem ti vi thì nhu cầu giải trí bên
ngoài cộng đồng, tham gia vào các lễ hội, qua các hình thức mạng xã
hội, truy cập internet hay đi du lịch ... là những hoạt động được các
bạn trẻ quan tâm.
7
1.2.1.3 Nghiên cứu bản sắc giới trẻ trong bối cảnh công nghệ và toàn
cầu hoá
Trong các công trình, các tác giả chỉ ra rằng văn hoá nghe nhìn hay
những tiến bộ của khoa học, đặc biệt là internet, đều là hình thức văn
hoá mới của xã hội công nghiệp hiện đại bởi những tiện ích cũng như
sức hấp dẫn do các phương tiện đó mang lại vô cũng to lớn (Đỗ Nam
Liên chủ biên 2005, Bùi Hoài Sơn 2006, Nguyễn Thị Phương Châm
2013). “Giới trẻ với những đặc điểm về phát triển tâm lý có những
nhu cầu riêng và là người tiếp nhận tích cực những tiến bộ khoa học
kỹ thuật, đồng thời cũng chịu sự tác động của các phương tiện nghe
nhìn nhiều nhất trên cả hai phương diện tích cực và tiêu cực. Văn hoá
nghe nhìn đã trở thành một phần không thể thiếu các phương tiện này
đã đưa lại một phong cách, một nhịp sống mới, khác với những gì thế
hệ ông cha họ đã từng trải qua” (Đỗ Nam Liên chủ biên, 2005:343).
Hơn nữa, internet đã và đang tạo ra không gian mới cho sự kết nối và
thể hiện của giới trẻ, không chỉ vậy không gian internet còn mở ra
một không gian bản sắc rất đa chiều và sinh động cho giới trẻ.
(Nguyễn Thị Phương Châm, 2013).
1.2.1.4 Nghiên cứu về vai trò của âm nhạc nghệ thuật trong việc kiến
tạo bản sắc giới trẻ
Bài báo của hai tác giả Tracy Shildrick & Robert MacDonald:
In Defence of Subculture; Young People, Leisure anh Social
Divisions (Các quan điểm ủng hộ tiểu văn hoá: Giới trẻ, giải trí và sự
phân chia xã hội) đưa ra một quan điểm cho rằng trọng tâm đặc biệt
của thời kỳ hậu tiểu văn hoá về âm nhạc, nghệ thuật nhảy và phong
cách đã phủ nhận một sự khám phá đầy đủ và chính xác về các bản
sắc văn hoá và các trải nghiệm của phần lớn thanh niên. Một trong
những luận điểm trung tâm của bài báo là: để hiểu một cách đúng đắn
và toàn diện về giới trẻ, cần quan sát kỹ đời sống văn hoá và giải trí
của họ giao thoa với các khía cạnh trong tiểu sử của họ như thế nào.
Một nghiên cứu của Fred Blake (2007) về Trung Quốc - Love songs
and the Great Leap: the role of a youth culture in the
revolutionaryphase of China's economic development (Những bản
tình ca và bước đại nhảy vọt: Vai trò của văn hóa trẻ trong giai đoạn
cách mạng phát triển kinh tế Trung Hoa) chỉ ra rằng, âm nhạc được
sử dụng trong việc truyền bá các thông điệp chính trị đến giới trẻ.
Chủ nghĩa cộng sản Trung Hoa cho rằng phát triển kinh tế phải gắn
8
chặt việc những người trẻ cam kết với những giá trị văn hóa hay
chính trị nhất định. Ở Việt Nam, những câu chuyện về âm nhạc Việt
Nam cũng cho chúng ta hiểu được giới trẻ ở những giai đoạn thời kỳ
lịch sử. Tác giả Jason Gibbs (2008) đã đề cập đến những câu chuyện
trong lịch sử âm nhạc Việt Nam từ góc nhìn văn hoá. Trong bài viết
“Điệu Rumba trên dòng Cửu Long: Bolero - một dạng ca khúc phổ
thông Việt Nam”, tác giả chỉ ra khiêu vũ được du nhập vào Việt Nam
thông qua tầng lớp thanh niên con nhà quyền thế du học ở Tây. “Tuy
nhiên, những tầng lớp thấp hơn thông qua thị trường âm nhạc đã tìm
thấy một phép màu của khiêu vũ ở vũ trường mà họ có thể thưởng
thức được - đầu tiên là mambo, nhưng quan trọng hơn cả là điệu
rumba/bolero. Bolero có thể hoà nhập vào giới bình dân mà không
băn khoăn chuyện học hội với vũ sư. (Gibbs, 2008:141). . Bên cạnh
đó cho thấy họ là những nhạc sĩ, ca sĩ, hay những người thưởng thức
âm nhạc đặc biệt là những thế hệ trẻ, họ không tạo ra dòng nhạc phổ
thông mà tạo ra âm nhạc Việt Nam. Họ băn khoăn suy nghĩ về âm
nhạc của đất nước mình đang có nguy cơ không tiến lên mà sẽ có thể
ngày một mất đi. Với sức trẻ, đầy nhiệt huyết, họ đã và đang rất tận
tâm với việc giữ gìn và phát huy âm nhạc truyền thống làm sao có
được tiến bộ trong bối cảnh xã hội hiện nay.
1.2.2.Những nghiên cứu về ghi ta
Có thể kể một số cuốn sách như: Lê Xuân Tùng- Nhất
Phương (2002), Phương pháp chơi đàn ghi ta lead của Gary Turner
(Việt Thư dịch, 2007); Kĩ thuật solo ghi ta của Hoàng Hạc (2010)....
Gần đây, có luận văn thạc sĩ âm nhạc học như: Nguyễn Thúy
Anh (2010), Vi Minh Huy (2006), Lương Đức Thắng (2006), Nguyễn
Thị Hà (2007), Nguyễn Thị Hà (2010), Nguyễn Quang Tùng (2013),
Nguyễn Thị Hà (2017), Nguyễn Văn Phúc (2011), Nguyễn Văn Phúc
(2014), Nguyễn Văn Phúc (2015), Cao Sỹ Anh Tùng (2014), Cao Sỹ
Anh Tùng, (2015) ...thường đề cập đến nhiều về tình hình cũng nhu ̛
phương pháp, phu ̛ơng hu ̛ớng giảng dạy tại các co ̛ sở đào tạo trên theo
chuyên môn của ngu ̛ời viết luận văn, do đó mà yếu tố văn hóa không
được chú ý.
Đặc biệt, trong năm 2013, cuốn sách Nghệ thuật trình tấu ghi
ta cổ điển tại Hà Nội do Vũ Bảo Lâm, Trịnh Minh Cu ̛ờng, Nguyễn
Trung, Cao Minh Khanh biên soạn đã giới thiệu chân dung cũng nhu ̛
cuộc đời của những cây đại thụ ghi ta đầu tiên của Hà Nội,
9
1.3. Cơ sở lý luận
Theo Tyyska (2005) trong bài viết Conceptualizing and
Theorizing Youth: Global Perspectives, (Khái niệm hoá và lý thuyết
hoá giới trẻ: những khía cạnh toàn cầu), đã có nhiều lý thuyết liên
quan đến giới trẻ ví dụ nhu ̛ cách tiếp cận sinh học-xã hội (socio-
biology), tiếp cận chức năng cấu trúc (structural functionalism), và
tiếp cận chu kỳ cuộc đời (life-course), nhưng các cách tiếp cận này
đều có hạn chế là đặ