Từ xưa đến nay, ở Việt Nam và trên thế giới, sự thành công hay thất
bại của công việc hoặc sự tồn vong, suy thịnh của quốc gia, đều phụ thuộc
r ất lớn vào nguồn nhân lực của quốc gia. Trong bối cảnh phát triển mạnh
mẽ của cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, kinh tế trí thức và toàn
cầu hoá, các nước ngày càng chú ý nhiều hơn đến phát triển nguồn nhân
lực chất lượng cao. Nguồn nhân lực đã trở thành lợi thế cạnh tranh của
nhiều quốc gia dân tộc trên thế giới. Phát huy vai trò giáo dục -đào tạo để
phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngày càng được các nước
chú trọng nhằm phát huy nội lực đất nước trước sự cạnh tranh quyết liệt và
gay gắt giữa các quốc gia dân tộc trên thế giới trong không gian toàn cầu
hóahiện nay.
Hơn hai mươi lăm năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, cách
mạng Việt Nam đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Đất nước đã thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế -xã hội, chuyển sang thời
kỳ phát triển mới: đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, vững
bước đi lên trên con đường xã hội chủ nghĩa. Những thành tựu đó tạo điều
kiện căn bản và đòi hỏi phải phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân
lực chất lượng cao để đất nước bước vào thời kỳ phát triển mới.
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, nguồn nhân lực chất lượng cao
nước ta có sự phát triển nhanh, đóng góp quan trọng vào những thành tựu
to lớn có ý nghĩa lịch sử của đất nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội. Giáo dục -đào tạo đã góp phần đặc biệt quan trọng quyết định trực
tiếp đến sự phát triển nguồn nhân lực ấy của đất nước. Nghị quyết Trung
ương 2 khoá VIII của Đảng đã đề ra quan điểm lớn: “Phát triển giáo dục
và đào tạo là quốc sách hàng đầu”, nhằm đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng
với yêu cầu mới. Đại hội XI của Đảng đã xác định đột phá chiến lược:
“Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là ngồn nhân lực chất lượng cao,
2
tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân;
gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa
học, công nghệ” [49, 106].
Trong những năm qua, nền giáo dục
-đào tạo Việt Nam nói chung,
các trường đại học ở nước ta nói riêng đã đào tạo ra được một đội ngũ kỹ
sư, cử nhânkhoa học giỏi, những thạc sĩ, tiến sĩ trên các lĩnh vực kinh tế,
chính trị, giáo dục và đào tạo, văn hóa, xã hội đáp ứng nhu cầu về nguồn
nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước. Tuy nhiên, giáo dục -đào tạo ở Việt Nam hiện nay còn
nhiều hạn chế. Nội dung, chương trình, phương pháp giảng dạy, lực
lượng quản lý, giảng dạy, cơ chế, chính sách, cũng như môi trường, điều
kiện, trang thiết bị phục vụ giáo dục -đào tạo phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn.
Chất lượng giáo dục -đào tạo, nhất là ở bậc đại học -trực tiếp đào tạo
nguồn nhân lực chất lượng cao nhìn chung còn thấp. Trình độ, năng lực
chuyên môn của sinh viên sau khi ra trường còn nhiều hạn chế, khả năng
thích nghi với thực tế chưa cao; nguồn nhân lực chất lượng cao nước ta
còn thiếu về số lượng, hạn chế về chất lượng, bất cập về cơ cấu. Điều đó
phản ánh những hạn chế, bất cập của nền giáo dục - đào tạo nước ta,
chưa thể hiện tốt vai trò của mình trong phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao
27 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1943 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt luận án Giáo dục -Đào tạo với việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
LƯƠNG CÔNG LÝ
gi¸o dôc - ®µo t¹o víi viÖc
ph¸t triÓn nguån nh©n lùc chÊt lîng cao
ë viÖt nam hiÖn nay
Chuyên ngành : CNDVBC & CNDVLS
Mã số : 62 22 80 05
tãm t¾t LuËn ¸n tiÕn sÜ triÕt häc
Hµ Néi - 2014
C«ng tr×nh ®îc hoµn thµnh
t¹i Häc viÖn ChÝnh trÞ - Hµnh chÝnh Quèc gia Hå ChÝ Minh
Ngêi híng dÉn khoa häc: PGS.TS vò hång s¬n
Ph¶n biÖn 1:
Ph¶n biÖn 2:
Ph¶n biÖn 3:
LuËn ¸n sÏ ®îc b¶o vÖ tríc Héi ®ång chÊm luËn ¸n cÊp Häc
viÖn häp t¹i Häc viÖn ChÝnh trÞ - Hµnh chÝnh Quèc gia Hå ChÝ Minh.
Vµo håi giê ngµy th¸ng n¨m 2014
Cã thÓ t×m hiÓu luËn ¸n t¹i: Th viÖn Quèc gia
vµ Th viÖn Häc viÖn ChÝnh trÞ - Hµnh chÝnh Quèc gia Hå ChÝ Minh
1MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ xưa đến nay, ở Việt Nam và trên thế giới, sự thành công hay thất
bại của công việc hoặc sự tồn vong, suy thịnh của quốc gia, đều phụ thuộc
rất lớn vào nguồn nhân lực của quốc gia. Trong bối cảnh phát triển mạnh
mẽ của cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, kinh tế trí thức và toàn
cầu hoá, các nước ngày càng chú ý nhiều hơn đến phát triển nguồn nhân
lực chất lượng cao. Nguồn nhân lực đã trở thành lợi thế cạnh tranh của
nhiều quốc gia dân tộc trên thế giới. Phát huy vai trò giáo dục - đào tạo để
phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngày càng được các nước
chú trọng nhằm phát huy nội lực đất nước trước sự cạnh tranh quyết liệt và
gay gắt giữa các quốc gia dân tộc trên thế giới trong không gian toàn cầu
hóa hiện nay.
Hơn hai mươi lăm năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, cách
mạng Việt Nam đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Đất nước đã thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, chuyển sang thời
kỳ phát triển mới: đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, vững
bước đi lên trên con đường xã hội chủ nghĩa. Những thành tựu đó tạo điều
kiện căn bản và đòi hỏi phải phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân
lực chất lượng cao để đất nước bước vào thời kỳ phát triển mới.
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, nguồn nhân lực chất lượng cao
nước ta có sự phát triển nhanh, đóng góp quan trọng vào những thành tựu
to lớn có ý nghĩa lịch sử của đất nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội. Giáo dục - đào tạo đã góp phần đặc biệt quan trọng quyết định trực
tiếp đến sự phát triển nguồn nhân lực ấy của đất nước. Nghị quyết Trung
ương 2 khoá VIII của Đảng đã đề ra quan điểm lớn: “Phát triển giáo dục
và đào tạo là quốc sách hàng đầu”, nhằm đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng
với yêu cầu mới. Đại hội XI của Đảng đã xác định đột phá chiến lược:
“Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là ngồn nhân lực chất lượng cao,
2tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân;
gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa
học, công nghệ” [49, 106].
Trong những năm qua, nền giáo dục - đào tạo Việt Nam nói chung,
các trường đại học ở nước ta nói riêng đã đào tạo ra được một đội ngũ kỹ
sư, cử nhân khoa học giỏi, những thạc sĩ, tiến sĩ trên các lĩnh vực kinh tế,
chính trị, giáo dục và đào tạo, văn hóa, xã hội… đáp ứng nhu cầu về nguồn
nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước. Tuy nhiên, giáo dục - đào tạo ở Việt Nam hiện nay còn
nhiều hạn chế. Nội dung, chương trình, phương pháp giảng dạy, lực
lượng quản lý, giảng dạy, cơ chế, chính sách, cũng như môi trường, điều
kiện, trang thiết bị phục vụ giáo dục - đào tạo phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn.
Chất lượng giáo dục - đào tạo, nhất là ở bậc đại học - trực tiếp đào tạo
nguồn nhân lực chất lượng cao nhìn chung còn thấp. Trình độ, năng lực
chuyên môn của sinh viên sau khi ra trường còn nhiều hạn chế, khả năng
thích nghi với thực tế chưa cao; nguồn nhân lực chất lượng cao nước ta
còn thiếu về số lượng, hạn chế về chất lượng, bất cập về cơ cấu. Điều đó
phản ánh những hạn chế, bất cập của nền giáo dục - đào tạo nước ta,
chưa thể hiện tốt vai trò của mình trong phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao.
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao tùy thuộc vào nhiều yếu tố,
trong đó vai trò của giáo dục - đào tạo có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Vấn
đề đã cấp bách đặt ra đối với giáo dục - đào ở nước ta nói chung, đối với
các trường đại học nói riêng là làm thế nào để có được nguồn nhân lực
chất lượng cao đủ sức đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế trong thời kỳ mới, góp phần thực
hiện mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản là một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại, xây dựng thành công xã hội dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh như Đảng ta xác định.
3Những vấn đề đó đã đặt ra một cách rất cấp bách đối với nước ta hiện
nay cả về lý luận và thực tiễn, đòi hỏi phải được nghiên cứu thấu đáo. Với
ý nghĩa đó, tác giả lựa chọn vấn đề “Giáo dục - đào tạo với việc phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay ” làm đề tài nghiên
cứu luận án tiến sĩ.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản và thực trạng vai trò của
giáo dục - đào tạo với việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; đề
xuất một số phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của
giáo dục - đào tạo với việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt
Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và
vai trò của giáo dục - đào tạo với việc phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao ở Việt Nam hiện nay.
- Làm rõ thực trạng vai trò của giáo dục - đào tạo đối với việc phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất một số phương hướng, giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai
trò của giáo dục - đào tạo với việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu làm rõ vai trò của giáo dục - đào tạo với
việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận án không nghiên cứu toàn bộ vấn đề phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao và toàn bộ vấn đề giáo dục - đào tạo, mà nghiên cứu vai trò
của giáo dục - đào tạo với việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở
nước ta; tập trung nghiên cứu vấn đề này ở các trường đại học của Việt
Nam hiện nay.
4- Khảo sát thực tiễn vai trò của giáo dục - đào tạo với việc phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao ở một số trường đại học ở Việt Nam hiện nay.
- Về thời gian, nghiên cứu vai trò của giáo dục - đào tạo với việc phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà n ước
về chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo, phát triển nguồn nhân lực,
nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam. Sử dụng phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kết hợp chặt chẽ lý
luận và thực tiễn, sử dụng đúng đắn, phù hợp các phương pháp phân tích
và tổng hợp, lôgích và lịch sử, điều tra xã hội học, tổng kết thực tiễn là
những phương pháp chủ đạo được áp dụng trong nghiên cứu đề tài luận án.
5. Những đóng góp mới của luận án
- Luận án lý giải rõ hơn vai trò của giáo dục - đào tạo với việc phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay.
- Từ những thành tựu, hạn chế và một số vấn đề đặt ra trong thực
trạng, đề xuất một số phương hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm
phát huy vai trò của giáo dục - đào tạo với việc phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận của luận án
Lý giải rõ hơn lý luận về nguồn nhân lực, nguồn nhân lực chất lượng cao
và vai trò của giáo dục - đào tạo với việc phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao ở Việt Nam hiện nay. Góp phần cung cấp cơ sở khoa học cho việc
thực hiện phương hướng và giải pháp phát huy vai trò của giáo dục - đào tạo
với việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận án
- Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tư liệu tham khảo
trong việc hoạch định, thực thi chính sách phát triển vai trò của giáo dục -
đào tạo ở các trường đại học, cao đẳng ở Việt Nam hiện nay.
5- Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho các giảng viên, nhà quản
lý giáo dục và học sinh, sinh viên trong các trường đại học, cao đẳng ở
Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu của luận án
Luận án được kết cấu gồm: phần mở đầu, 4 chương, 9 tiết, kết luận,
danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH
NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến nguồn nhân lực và
vai trò của giáo dục - đào tạo nguồn nhân lực
Vấn đề nguồn nhân lực chất lượng cao và giáo dục - đào tạo nguồn
nhân lực hiện nay thu hút nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu của các
nước trên nhiều lĩnh vực khoa học quan tâm nghiên cứu. Một số công
trình nghiên cứu tiêu biểu ở Trung Quốc có liên quan: Lương Dụ Giai
(2006), Sách Quản lý nhân tài, Nhà xuất bản Đại học Trung Sơn, Quảng
Đông, Trung Quốc; Thẩm Vĩnh Hoa và Ngô Quốc Diệu (2008), Sách Tôn
trọng trí thức, tôn trọng nhân tài, kế lớn trăm năm chấn hưng đất nước,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội; Vương Huy Diệu (2010), Sách
Chiến lược quốc gia nhân tài biến đổi thế giới , Nhà xuất bản Nhân dân;
Lưu Tiểu Bình (2011), Sách Lý luận và phương pháp đánh giá nguồn nhân
lực, Nhà xuất bản Đại học Vũ Hán; Vương Xung (2012), Sách Chất lượng
tăng trưởng kinh tế khu vực phía Tây Trung Quốc với việc khai thác nguồn
nhân lực nông thôn, Nhà xuất bản Nhân dân, Trung Quốc. Ở các nước
khác tiêu biểu có Ôkuhura Yasuhiro (1994), Sách Chính trị và kinh tế Nhật
Bản, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội; Jang Ho Kim (2005), Sách
Khung mẫu mới về phát triển nguồn nhân lực: các sáng kiến của chính
phủ để phát triển kinh tế để hội nhập xã hội tại Hàn Quốc, Nhà xuất bản
KRIVET Seoul, 135949, Hàn Quốc; cuốn Tuyển 40 năm chính luận của Lý
6Quang Diệu (1994), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội; Luận án
Tiến sĩ Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý kinh tế của
Đảng và Nhà nước Lào hiện nay, Học viện Chính trị quốc gia, Hà Nội
(2003), của Xinh Khăm-Phôm Ma Xay... Những khái niệm, đặc điểm, vai
trò nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân tài, tài năng, trí thức, tầm quan
trọng của giáo dục - đào tạo, cũng như các vấn đề về sử dụng, trọng dụng
nhân tài, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, được các công trình
trên đề cập khá toàn diện. Đây là cơ sở cho phép tác giả có thể tiếp thu, kế
thừa và tiếp tục nghiên cứu làm rõ trong luận án của mình.
Ở Việt Nam, có khá nhiều công trình liên quan đến nguồn nhân lực
chất lượng cao và vai trò của giáo dục - đào tạo nguồn nhân lực, tiêu biểu
như: Phạm Minh Hạc, (Chủ nhiệm - 1996), Đề tài Vấn đề con người trong
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ; Phạm Tất Dong
(2005), Sách Trí thức Việt Nam thực tiễn và triển vọng, chủ biên, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Đắc Hưng (2007), Sách Phát triển
nhân tài chấn hưng đất nước, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội;
Nguyễn An Ninh (2009), Sách Phát huy tiềm năng trí thức khoa học xã
hội Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội; Vũ Văn Phúc,
Nguyễn Duy Hùng (Đồng chủ biên - 2012), Phát triển nguồn nhân lực đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
1.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến thực trạng nguồn
nhân lực chất lượng cao
Phạm Tất Dong, (Chủ nhiệm - 2005), Đề tài Luận cứ khoa học cho các
chính sách nhằm phát huy năng lực lao động sáng tạo của giới trí thức và
sinh viên, Đề tài khoa học cấp Bộ; Lê Du Phong, (Chủ biên - 2006), Sách
Nguồn lực và động lực phát triển trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nhà xuất bản Lý luận chính trị; Ngô Huy
Tiếp, (Chủ biên - 2009), Sách Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với trí thức nước ta hiện nay , Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội;
7Nguyễn Văn Khánh, (Chủ biên - 2012), Sách Nguồn lực trí tuệ Việt Nam,
lịch sử, hiện trạng và triển vọng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội;
Đường Vĩnh Sường (2012), Bài Giáo dục, đào tạo với phát triển nguồn
nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Tạp chí Cộng
sản, số (833).
1.3. Các công trình nghiên cứu liên quan đến phương hướng và
giải pháp phát huy vai trò của giáo dục - đào tạo với việc phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao
Có khá nhiều công trình khoa học, với cách tiếp cận và phạm vi khác
nhau nghiên cứu phương hướng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao và vai trò của giáo dục - đào tạo nguồn nhân lực ở nước ta.
Tiêu biểu là: Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Nghị quyết Hội nghị lần
thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X “Về xây dựng đội ngũ trí thức
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”; Nguyễn
Mạnh Hưởng, (Chủ nhiệm - 2012), Đề tài Xây dựng đội ngũ trí thức quân
đội trong thời kỳ mới, Đề tài khoa học cấp Bộ Quốc phòng; Nguyễn Duy
Bắc, (Chủ nhiệm - 2013), Đề tài khoa học cấp Bộ Đặc điểm của con người
Việt Nam với việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta hiện
nay, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia; Tạ Ngọc Tấn (Chỉ đạo biên
soạn - 2012), Phát triển giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực, nhân tài,
Một số kinh nghiệm của thế giới, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội;
Bùi Mạnh Nhị (2012), Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo
Việt Nam, Tạp chí Thông tin Lý luận Chính trị, Bản tin của Hội đồng Lý
luận Trung ương, số (49) (122).
Các công trình nghiên cứu cho thấy bức tranh khá đầy đủ và toàn diện
cả lý luận và thực tiễn về nguồn nhân lực chất lượng cao, phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao, đặc biệt về giáo dục - đào tạo với việc phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta qua các thời kỳ, nhất là thời k ỳ
đổi mới. Những kết quả trên sẽ được tác giả kế thừa, vận dụng và phát
triển trong công trình của mình. Nó giúp tác giả có thêm cơ sở khoa học để
làm sáng tỏ các nội dung nghiên cứu của luận án. Tuy nhiên, do cách tiếp
8cận và phạm vi nghiên cứu của từng công trình, mà chưa có công trình nào
trình bày một cách có hệ thống, toàn diện và cụ thể vấn đề giáo dục - đào
tạo với việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện
nay. Khoảng trống về mặt lý luận, đặc biệt là về mặt thực tiễn này, cũng
như tầm quan trọng của vấn đề nghiên cứu trong bối cảnh mới đã đặt ra
một cách cấp thiết và thôi thúc tác giả lựa chọn vấn đề: “Giáo dục - đào
tạo với việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện
nay” làm đề tài nghiên cứu của luận án.
Chương 2
NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO VÀ VAI TRÒ CỦA
GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN
LỰC CHẤT LƯỢNG CAO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Nguồn nhân lực chất lượng cao và tầm quan trọng của việc
phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay
2.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực, nguồn nhân lực chất lượng cao
và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
* Khái niệm nguồn nhân lực
Luận án xuất phát từ phương pháp xem xét, tiếp cận tổng hợp, toàn
diện về con người và nhân tố con người và trên c ơ sở một số quan niệm đã
có, đưa ra khái niệm: Nguồn nhân lực là dạng đặc biệt của nguồn lực nói
chung, là nguồn lao động, gồm tổng thể các yếu tố tạo nên sức mạnh của
con người và cộng đồng xã hội; là tổng thể số lượng, chất lượng con
người và cơ cấu với các tiêu chí về thể lực, trí lực và tâm lực tạo nên năng
lực có thể huy động vào phát triển kinh tế - xã hội.
Nguồn nhân lực bao gồm những người đang lao động, trong độ tuổi
lao động; trong độ tuổi lao động sức khỏe bình thường, chưa có việc làm;
những người chuẩn bị đến tuổi lao động, ở dạng dự trữ, với các tiêu chí cụ
thể về thể lực, trí lực, tâm lực có khả năng huy động vào quá trình kinh tế -
xã hội. Người không có khả năng lao động không nằm trong nội hàm khái
niệm này.
9Nguồn nhân lực có vai trò to lớn vừa là động lực vừa là mục tiêu của
sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia.
* Khái niệm và tiêu chí nguồn nhân lực chất lượng cao
- Khái niệm:
Dựa trên khái niệm nguồn nhân lực và thực tiễn, luận án đưa ra khái
niệm: Nguồn nhân lực chất lượng cao là bộ phận chất lượng cao của
nguồn nhân lực, thể hiện sức mạnh và vai trò "đầu tàu", nòng cốt trong
mọi hoạt động kinh tế - xã hội của đất nước, vùng, địa phương và lĩnh vực
trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể .
- Tiêu chí đánh giá (định tính, định lượng) n guồn nhân lực chất lượng
cao ở nước ta hiện nay.
Căn cứ vào quan điểm của Đảng và tình hình nguồn nhân lực hiện
nay, có thể xem xét nguồn nhân lực chất lượng cao nước ta gồm: Những
cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi; đội ngũ chuyên gia, quản trị doanh nghiệp
giỏi; những lao động lành nghề; các cán bộ khoa học, công nghệ. Số lượng
là “cốt vật chất”, nói lên quy mô của nguồn nhân lực. Chất lượng là một
yếu tố có nội dung rộng lớn, nói lên trình độ toàn diện, được thể hiện
thông qua những chỉ tiêu chủ yếu về chất lượng con người, phẩm chất,
năng lực của nhân lực. Cơ cấu là chỉ số quan trọng tạo nên chất lượng, sức
mạnh nguồn nhân lực này.
Về định lượng: Gồm những người có mặt bằng học vấn, trí tuệ, khả
năng lao động cao hơn nguồn nhân lực đất nước nói chung; định l ượng
nguồn nhân lực chất lượng cao phải phù hợp với quy mô của nguồn nhân
lực đất nước.
Về định tính: Nguồn nhân lực chất lượng cao hiện nay là những người
có trình độ học vấn từ đại học, hoặc lao động lành nghề từ trung học nghề
trở lên; có trình độ nghiệp vụ, chuyên môn kỹ thuật giỏi, cao hơn mức
trung bình của nguồn nhân lực đất nước; có phẩm chất, năng lực thực tế
tốt, sáng tạo, linh hoạt, có khả năng làm nòng cốt, lôi kéo và dẫn dắt tập
thể, cộng đồng trong các hoạt động lao động sản xuất, khoa học và chính
10
trị, xã hội; có sức khỏe tốt đáp ứng yêu cầu hoạt động trong các lĩnh vực
của xã hội; có cơ cấu hợp lý theo yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Các vấn đề định lượng và định tính nêu trên quan hệ chặt chẽ với
nhau, nói lên chất lượng toàn diện và cao hơn của nguồn nhân lực này so
với số còn lại của nguồn nhân lực đất nước. Tuy nhiên trong thực tiễn, các
dấu hiệu tiêu chí trên cần phải được xem xét linh hoạt, cụ thể đối với từng
loại nguồn nhân lực trong từng lĩnh vực cụ thể, để xác định ai là người nằm
trong nội hàm nguồn nhân lực chất lượng cao; tránh phiến diện, máy móc.
* Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
Luận án quan niệm: Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là tổng
thể hoạt động của Đảng, Nhà nước, toàn xã hội và người lao động, với
những nội dung, hình thức, biện pháp, cơ chế, chính sách thích ứng, đặc biệt
là giáo dục - đào tạo, nhằm tạo nên nguồn nhân lực chất lượng cao với số
lượng đáp ứng yêu cầu, chất lượng ngày càng cao và cơ cấu phù hợp, đồng
thời khơi dậy và phát huy vai trò của nguồn nhân lực chất lượng cao trong
sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới.
Đây là một quá trình biện chứng: thứ nhất, là quá trình giáo dục - đào
tạo và bồi dưỡng để phát triển từng người và cả nguồn nhân lực chất lượng
cao; thứ hai, là quá trình sử dụng, quản lý và bổ sung những nội dung mới
trong nguồn nhân lực chất lượng cao theo yêu cầu nhiệm vụ; thứ ba, là quá
trình khơi dậy, huy động, phát huy vai trò nguồn nhân lực này trong thực
tiễn. Mục đích nội dung phát triển nhằm tạo nên nguồn nhân lực chất
lượng cao đáp ứng yêu cầu; đồng thời, khơi dậy và phát huy vai trò của
nguồn nhân lực này. Nội dung phát triển toàn diện về số lượng, chất lượng
và cơ cấu. Hình thức, biện pháp gồm các hoạt động quy hoạch, tạo nguồn,
giáo dục, đào tạo, quản lý, sử dụng; khen thưởng, kỷ luật; tạo môi trường;
thực hiện cơ chế, chính sách và chế độ đãi ngộ ; phát huy vai trò, trách
n