Ngành Dệt May là ngành sản xuất quan trọng đóng góp cho sự phát triển
kinh tế của Việt Nam. Trong một thời gian dài, mức tăng trưởng xuất khẩu bình
quân của Ngành là 20% năm, đóng góp từ 16% - 18% tổng giá trị công nghiệp
cả nước, chiếm tỷ trọng khoảng 15% trong tổng kim ngạch xuất khẩu, tạo việc
làm cho hơn 2 triệu lao động. Trong Quy hoạch Phát triển Công nghiệp đến năm
2020 - 2030, Ngành Dệt May vẫn tiếp tục là ngành trọng yếu trong cơ cấu công
nghiệp của Việt Nam. Tuy nhiên, các doanh nghiệp trong Ngành, trong đó có
các doanh nghiệp may mặc đang đối mặt với rất nhiều khó khăn và thách thức
trên con đường phát triển.
Hệ thống kiểm soát nội bộ là phương sách quản lý hữu hiệu của các nhà
quản lý doanh nghiệp. Hệ thống này bao gồm các chính sách và thủ tục kiểm
soát được thiết kế nhằm đảm bảo cho doanh nghiệp đạt được các mục tiêu: bảo
vệ tài sản, đảm bảo độ tin cậy của thông tin, đảm bảo hoạt động tuân thủ các quy
định pháp lý, đảm bảo các hoạt động của doanh nghiệp được thực hiện hiệu quả.
Trong thời kỳ hiện đại, vai trò của hệ thống kiểm soát nội bộ không chỉ giới hạn
ở việc đảm bảo mà còn mở rộng sang cả vai trò hỗ trợ và tạo ra giá trị gia tăng
cho tổ chức. Trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, các doanh nghiệp may
mặc Việt Nam đang đối mặt với thực tế hệ thống kiểm soát nội bộ chưa được
hoàn thiện. Các doanh nghiệp luôn phải đối mặt với sự biến động lao động lớn
gây khó khăn cho sản xuất. Hoạt động sản xuất chủ yếu theo phương thức gia
công xuất khẩu theo đơn đặt hàng của khách hàng thể hiện sự lệ thuộc quá lớn
của doanh nghiệp may Việt Nam vào các bạn hàng nước ngoài ở cả đầu vào và
đầu ra của sản phẩm, đồng thời kéo theo hiệu quả kinh doanh thấp, tính tự chủ
trong kinh doanh không cao. Hệ thống thông tin tiềm ẩn nhiều hạn chế không
thực sự hữu dụng cho quá trình ra quyết định và điều hành doanh nghiệp của nhà
quản lý. Trên thị trường quốc tế, hàng may mặc Việt Nam luôn phải đối mặt với
sự cạnh tranh gay gắt từ hàng may mặc của các nước có ngành dệt và may phát
triển như Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan, . Các rào cản thương mại luôn được
các nước nhập khẩu dựng lên để hạn chế lượng lớn hàng may mặc từ các nước
đang phát triển trong đó có Việt Nam
25 trang |
Chia sẻ: thientruc20 | Lượt xem: 489 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ trong các doanh nghiệp may mặc Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BÙI THỊ MINH HẢI
HOÀN THIỆN HỆ THỐNG KIỂM SOÁT NỘI BỘ
TRONG CÁC DOANH NGHIỆP MAY MẶC
VIỆT NAM
CHUYÊN NGÀNH: KẾ TOÁN (KẾ TOÁN, KIỂM TOÁN VÀ PHÂN TÍCH)
MÃ SỐ: 62.34.30.01
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1: TS. NGUYỄN THỊ PHƯƠNG HOA
2: PGS. TS NGÔ TRÍ TUỆ
Hµ néi, n¨m 2011
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. TÝnh cÊp thiÕt cña §Ò tµi
Ngành Dệt May là ngành sản xuất quan trọng đóng góp cho sự phát triển
kinh tế của Việt Nam. Trong một thời gian dài, mức tăng trưởng xuất khẩu bình
quân của Ngành là 20% năm, đóng góp từ 16% - 18% tổng giá trị công nghiệp
cả nước, chiếm tỷ trọng khoảng 15% trong tổng kim ngạch xuất khẩu, tạo việc
làm cho hơn 2 triệu lao động. Trong Quy hoạch Phát triển Công nghiệp đến năm
2020 - 2030, Ngành Dệt May vẫn tiếp tục là ngành trọng yếu trong cơ cấu công
nghiệp của Việt Nam. Tuy nhiên, các doanh nghiệp trong Ngành, trong đó có
các doanh nghiệp may mặc đang đối mặt với rất nhiều khó khăn và thách thức
trên con đường phát triển.
Hệ thống kiểm soát nội bộ là phương sách quản lý hữu hiệu của các nhà
quản lý doanh nghiệp. Hệ thống này bao gồm các chính sách và thủ tục kiểm
soát được thiết kế nhằm đảm bảo cho doanh nghiệp đạt được các mục tiêu: bảo
vệ tài sản, đảm bảo độ tin cậy của thông tin, đảm bảo hoạt động tuân thủ các quy
định pháp lý, đảm bảo các hoạt động của doanh nghiệp được thực hiện hiệu quả.
Trong thời kỳ hiện đại, vai trò của hệ thống kiểm soát nội bộ không chỉ giới hạn
ở việc đảm bảo mà còn mở rộng sang cả vai trò hỗ trợ và tạo ra giá trị gia tăng
cho tổ chức. Trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, các doanh nghiệp may
mặc Việt Nam đang đối mặt với thực tế hệ thống kiểm soát nội bộ chưa được
hoàn thiện. Các doanh nghiệp luôn phải đối mặt với sự biến động lao động lớn
gây khó khăn cho sản xuất. Hoạt động sản xuất chủ yếu theo phương thức gia
công xuất khẩu theo đơn đặt hàng của khách hàng thể hiện sự lệ thuộc quá lớn
của doanh nghiệp may Việt Nam vào các bạn hàng nước ngoài ở cả đầu vào và
đầu ra của sản phẩm, đồng thời kéo theo hiệu quả kinh doanh thấp, tính tự chủ
trong kinh doanh không cao. Hệ thống thông tin tiềm ẩn nhiều hạn chế không
thực sự hữu dụng cho quá trình ra quyết định và điều hành doanh nghiệp của nhà
quản lý. Trên thị trường quốc tế, hàng may mặc Việt Nam luôn phải đối mặt với
sự cạnh tranh gay gắt từ hàng may mặc của các nước có ngành dệt và may phát
triển như Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan,. Các rào cản thương mại luôn được
các nước nhập khẩu dựng lên để hạn chế lượng lớn hàng may mặc từ các nước
đang phát triển trong đó có Việt Nam.
Xuất phát từ những lí do trên, hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ trở
thành vấn đề có tính cấp bách trong quản lý tại các doanh nghiệp may mặc, có ý
nghĩa về cả lý luận lẫn thực tiễn trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam. Nhận thức
2
được tầm quan trọng của vấn đề này, Tác giả đã lựa chọn Đề tài: "Hoµn thiÖn
hÖ thèng kiÓm so¸t néi bé trong c¸c doanh nghiÖp may mÆc ViÖt Nam" lµm ĐÒ
tµi LuËn ¸n tiÕn sÜ cña m×nh.
2. Tổng quan các nghiên cứu về hệ thống kiểm soát nội bộ trong doanh
nghiệp dệt may
Trên thế giới: Từ rất lâu, tầm quan trọng của kiểm soát đối với quản lý
luôn được coi là đề tài thu hút sự quan tâm, chú ý kể cả trong hoạt động thực tiễn
cũng như trong lý luận. Một trong những khái niệm đầu tiên về kiểm soát nội bộ
được Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đưa ra vào năm 1929, sau đó được Uỷ ban Giao
dịch Chứng khoán của Mỹ sử dụng nhằm đưa ra Đạo luật Giao dịch Chứng
khoán vào năm 1934.
Có rất nhiều các tác phẩm nghiên cứu về kiểm soát nội bộ của các nhà
nghiên cứu đề cập đến khái niệm về kiểm soát, kiểm soát nội bộ, các loại hình
kiểm soát trong mối quan hệ với kiểm toán nội bộ hoặc kiểm toán tài chính. Một
số nghiên cứu có thể kể đến như: Nghiên cứu của Tác giả Victor Z. Brink và
Herbert Witt (1941) về «Kiểm toán nội bộ hiện đại», các Tác giả Alvin A. Arens
và James Loebecke về «Kiểm toán»; Tác giả O. Ray Wittington và Kurt Pany
(1995) về «Các nguyên tắc của kiểm toán»; Tác giả Jack C. Robertson (1996) về
«Kiểm toán»; Tác giả Robert R. Moller (2005) về «Kiểm toán nội bộ hiện đại kế
thừa quan điểm của Brink». Các tổ chức và hiệp hội nghề nghiệp trong lĩnh vực
kiểm toán, chẳng hạn như Liên đoàn Kế toán quốc tế đã đưa ra khái niệm về hệ
thống kiểm soát nội bộ trong Chuẩn mực kiểm toán ISA 400. Hiệp hội các tổ
chức tài trợ của Mỹ (COSO) được thành lập từ sự kết hợp các hiệp hội nghề
nghiệp về kế toán và kiểm toán đã đưa ra khái niệm về kiểm soát nội bộ vào năm
1992 nhằm thống nhất quan niệm về kiểm soát nội bộ phục vụ cho các mục đích
sử dụng khác nhau.
Bên cạnh lĩnh vực kiểm toán, những nghiên cứu về kiểm soát nội bộ trong
mối quan hệ với quản trị doanh nghiệp cũng thể hiện rất nhiều tác phẩm: Tác giả
Merchant, K.A (1985) về « Kiểm soát trong tổ chức kinh doanh »; Tác giả
Anthony, R.N và Dearden, J. Bedford (1989) về « Hệ thống kiểm soát quản lý ».
Một số tác giả sau này có xu hướng nghiên cứu kiểm soát nội bộ trong phạm vi
hẹp các vấn đề liên quan đến doanh nghiệp, chẳng hạn như quản trị rủi ro trong
mối quan hệ với kiểm soát nội bộ; mối quan hệ giữa chiến lược kinh doanh của
doanh nghiệp với kiểm soát nội bộ; vai trò định hướng thị trường của doanh
nghiệp và kiểm soát nội bộ có tác động đến hoạt động phát triển sản phẩm mới
3
Tại Việt Nam: Tại Việt Nam, nghiên cứu ứng dụng hệ thống kiểm soát nội
bộ trong một đơn vị cụ thể ở các ngành cũng được nhiều tác giả quan tâm. Có
thể kể đến: PGS.TS Ngô Trí Tuệ và các đồng tác giả (2004) với Đề tài cấp bộ
«Xây dựng hệ thống kiểm soát nội bộ với việc tăng cường quản lý tài chính tại
Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam», các đề tài Luận văn Thạc sĩ của
các Tác giả Trần Thị Minh Thư (2001) với Đề tài «Hoàn thiện hệ thống kiểm
soát nội bộ trong các tổng công ty nhà nước ở Việt Nam»; Tác giả Lê Thị Minh
Hồng (2002) với Đề tài «Tăng cường hệ thống kiểm soát nội bộ trong các khách
sạn - Khảo sát nghiên cứu điển hình trên địa bàn Hà Nội»; Tác giả Nguyễn Thị
Mỹ (2004) với Đề tài «Hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ của Trung tâm Bưu
chính - Công ty Viễn thông quân đội Vietel» ; Tác giả Nguyễn Thị Lệ Chi
(2006) với Đề tài «Hoàn thiện chính sách tiền lương với việc tăng cường kiểm
soát nội bộ và nâng cao hiệu quả hoạt động của Công ty Xuân Hoà»; Tác giả Bùi
Duy Hùng (2007) với Đề tài «Hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ tại các
khách sạn liên doanh do ACCOR quản lý trên địa bàn Hà Nội và Thành phố Hồ
Chí Minh», Đề tài Luận án tiến sĩ của Tác giả Phạm Bính Ngọ (2011) về «Tổ
chức hệ thống kiểm soát nội bộ trong các đơn vị dự toán trực thuộc Bộ Quốc
phòng» và một số tác giả khác
Trong nghiên cứu nói chung và trong chuyên ngành kế toán, phân tích hoạt
động kinh doanh nói riêng, Ngành Dệt May đã thu hút sự quan tâm, chú ý nhiều
nhà nghiên cứu. Về Luận văn thạc sĩ có thể kể đến các tác giả: Tác giả Trần Thị
Thu Phong (2002) với Đề tài «Hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm với việc tăng cường quản trị doanh nghiệp trong ngành sản xuất
hàng may mặc»; Tác giả Đoàn Thị Hồng Nhung (2003) với Đề tài «Hoàn thiện
hệ thống báo cáo tài chính của Tổng Công ty Dệt May Việt Nam»; Tác giả Ngô
Thị Quyên (2004) với Đề tài «Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Tổng
Công ty Dệt May Việt Nam»; Tác giả Bùi Thị Minh Hằng (2007) với Đề tài
«Hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán trong các doanh nghiệp dệt may Việt
Nam»; Tác giả Nguyễn Xuân Phúc (2007) với Đề tài «Hoàn thiện chính sách tài
chính đối với doanh nghiệp dệt may trong Bộ Quốc phòng». Về Luận án tiến sĩ
có các tác giả như: Tác giả Nguyễn Mạnh Hùng (1996) với Đề tài «Phương
hướng và biện pháp chủ yếu nhằm phát triển và nâng cao hiệu quả kinh doanh
của các doanh nghiệp nhà nước thuộc chuyên ngành dệt may xuất khẩu tại
Thành phố Hồ Chí Minh»; Tác giả Vũ Văn Khang (2002) với Đề tài «Hoàn thiện
cơ chế trả lương cho người lao động ở các doanh nghiệp thuộc Ngành Dệt May»;
Tác giả Đỗ Thị Phương (2010) về «Phân tích lợi nhuận và một số biện pháp
4
nâng cao lợi nhuận của các doanh nghiệp nhà nước thuộc Ngành Dệt May Việt
Nam» và một số tác giả khác,
Như vậy, tại Việt Nam đã có nhiều đề tài nghiên cứu về hệ thống kiểm
soát nội bộ trong các ngành khác nhau, tuy nhiên, chưa có đề tài nào nghiên cứu
về hệ thống kiểm soát nội bộ trong các doanh nghiệp thuộc Ngành May Việt
Nam. Đây là Đề tài độc lập, không trùng tên và nội dung với các công trình khoa
học đã công bố trong và ngoài nước.
3. Môc ®Ých nghiªn cøu cña LuËn ¸n
Đề tài hướng đến các mục đích chủ yếu sau: Làm rõ và hệ thống hoá cơ sở
lý luận về hệ thống kiểm soát nội bộ trong doanh nghiệp; Phân tích đặc điểm
Ngành May mặc có ảnh hưởng đến hệ thống kiểm soát nội bộ trong doanh
nghiệp; Nghiên cứu rút ra bài học kinh nghiệm về tổ chức hệ thống kiểm soát
nội bộ trong các doanh nghiệp may ở một số nước trên thế giới; Khảo sát và
phân tích thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ trong các doanh nghiệp may Việt
Nam; Nghiên cứu phương hướng và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện hệ
thống kiểm soát nội bộ ở các doanh nghiệp may Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Luận án
4.1. Đối tượng nghiên cứu của Luận án
Đối tượng nghiên cứu của Luận án là hệ thống kiểm soát nội bộ trong các
doanh nghiệp may mặc Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của Luận án
Phạm vi nghiên cứu của Luận án là các doanh nghiệp có quy mô lớn với
phương thức hoạt động chủ yếu là may gia công xuất khẩu thuộc Ngành May
Việt Nam. Tiêu chuẩn để xác định doanh nghiệp có quy mô lớn theo hướng dẫn
tại Nghị định 56/2009/NĐ-CP của Chính phủ ngày 30 tháng 6 năm 2009. Việc
phân tích, đánh giá, so sánh, khái quát các vấn đề trong Luận án dựa trên những
tài liệu, tư liệu nghiên cứu về doanh nghiệp may Việt Nam và quá trình điều tra,
khảo sát thực tiễn của Tác giả.
5. Phương pháp nghiên cứu của Luận án
Dựa trên cơ sở vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa
Mác Lê nin vào nghiên cứu xã hội học, Luận án sử dụng các phương pháp kỹ thuật
cụ thể như quan sát, phỏng vấn để thu thập thông tin sơ cấp kết hợp với sưu tầm
thông tin thứ cấp, phân tích và tổng hợp. Trong các phương pháp, phương pháp
được sử dụng chủ yếu là điều tra trên cơ sở lập phiếu điều tra và thực hiện phỏng
vấn trực tiếp hoặc gửi phiếu điều tra. Trong quá trình phỏng vấn, Tác giả đã kết
hợp với quan sát thực địa thực tế hoạt động của doanh nghiệp để việc phân tích,
5
đánh giá khách quan hơn. Kết quả điều tra được sử dụng để phân tích, tổng hợp
và đánh giá nhằm đưa ra những nhận định về thực trạng hệ thống kiểm soát nội
bộ trong các doanh nghiệp may Việt Nam.
6. Những đóng góp của Luận án
Những đóng góp của Luận án thể hiện ở cả hai mặt lý luận và thực tiễn,
cụ thể:
Về lý luận: Luận án đã hệ thống hoá lý luận chung về kiểm soát nội bộ và
hệ thống kiểm soát nội bộ, trên cơ sở đó làm rõ đặc điểm chung của Ngành May
toàn cầu tác động đến hệ thống kiểm soát nội bộ của các doanh nghiệp trong
Ngành. Các kinh nghiệm tổ chức hệ thống kiểm soát nội bộ trong các doanh
nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực may mặc trên thế giới đã được đề cập và phân
tích, từ đó rút ra bài học ứng dụng cho doanh nghiệp may Việt Nam
Về thực tiễn: Luận án đã khảo sát các yếu tố: môi trường kiểm soát, hệ
thống thông tin, các thủ tục kiểm soát trong các doanh nghiệp may Việt Nam
nhằm phân tích thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ tại các doanh nghiệp này.
Kết quả đánh giá đã chỉ ra được những ưu điểm, đặc biệt là các yếu điểm và
nguyên nhân của các yếu điểm, từ đó làm cơ sở đề xuất các giải pháp thiết thực
hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ trong các doanh nghiệp may Việt Nam.
7. Bố cục, kết cấu của Luận án
Ngoài phần mở đầu và kết luận, Luận án gồm ba chương sau:
Chương 1: Lý luận chung về hệ thống kiểm soát nội bộ trong các doanh
nghiệp may mặc
Chương 2: Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ trong các doanh nghiệp may
mặc Việt Nam
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ
trong các doanh nghiệp may mặc Việt Nam
6
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỆ THỐNG KIẾM SOÁT NỘI BỘ
TRONG CÁC DOANH NGHIỆP MAY MẶC
1.1. Kiểm soát trong quản lý
1.1.1. Khái niệm và vai trò của kiểm soát trong quản lý
Quản lý đã hiện diện từ hàng nghìn năm nay và luôn được nhìn nhận là
hoạt động quan trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Một cách chung
nhất, có thể khái quát khái niệm về quản lý như sau: “quản lý là quá trình thể
hiện sự tác động có tổ chức của chủ thể quản lý lên đối tượng bị quản lý nhằm
đạt được các mục tiêu đã định”.
Theo Từ điển Tiếng Việt, kiểm soát được hiểu là hoạt động xem xét có gì
sai quy tắc, điều lệ, kỷ luật hay không. Trong Từ điển Hán Việt từ nguyên của
Bửu Kế, kiểm soát là việc kiểm tra xem xét một việc gì đó hoặc đặt cái gì dưới
quyền mình. Trong quản lý không thể thiếu được các chức năng lập kế hoạch, tổ
chức và kiểm soát để đạt được các mục tiêu. Bản chất và tác dụng chính của
kiểm soát nhằm đảm bảo quá trình quản lý đạt được các mục tiêu. Trên cơ sở
phân tích những quan điểm khác nhau về kiểm soát và nhận diện vai trò của nó
trong quản lý, Tác giả đưa ra khái niệm về kiểm soát như sau: “Kiểm soát là
chức năng quan trọng của quản lý, được thực hiện liên tục trong mọi cấp độ và
hoạt động của tổ chức thông qua quá trình đo lường, đánh giá và tác động lên
đối tượng kiểm soát nhằm đảm bảo việc đạt được các mục tiêu của tổ chức đó”
1.1.2. Các loại kiểm soát
Có các loại kiểm soát được phân chia theo các tiêu thức sau đây:
Theo lĩnh vực của kiểm soát có kiểm soát tổ chức và kiểm soát kế toán.
Theo đối tượng cụ thể của kiểm soát có kiểm soát đầu ra và kiểm soát hành vi.
Căn cứ vào sự hiện diện của chủ thể thực hiện hoạt động kiểm soát có kiểm soát
trực tiếp và kiểm soát gián tiếp. Căn cứ vào phạm vi kiểm soát có kiểm soát toàn
diện (tổng quát) và kiểm soát chuyên đề. Trong quan hệ với mục đích kiểm soát
có kiểm soát ngăn ngừa, kiểm soát phát hiện và kiểm soát điều chỉnh. Căn cứ
vào mối quan hệ giữa chủ thể với khách thể kiểm soát có kiểm soát từ bên ngoài
(ngoại kiểm) và kiểm soát nội bộ (nội kiểm).
1.1.3. Kiểm soát nội bộ
Theo Liên đoàn Kế toán quốc tế (IFAC), trong Chuẩn mực ISA 315, kiểm
soát nội bộ được hiểu là “một quá trình được thiết kế và chịu sự chi phối của các
nhà quản lý và các nhân viên trong một tổ chức nhằm cung cấp sự đảm bảo hợp
7
lý về việc đạt được các mục tiêu liên quan đến độ tin cậy của báo cáo tài chính,
hiệu quả hoạt động và hiệu năng quản lý và tuân thủ các quy định, luật lệ”.
Theo ISA 315 của (IFAC), kiểm soát nội bộ có liên quan và được thể hiện
ở các nội dung: môi trường kiểm soát, thông tin và truyền thông, quá trình đánh
giá rủi ro, các hoạt động kiểm soát, giám sát. Hiệp hội các tổ chức tài trợ của
Mỹ (COSO) cũng có quan điểm tương đồng với IFAC về khái niệm và các nội
dung liên quan đến kiểm soát nội bộ. Lý do thống nhất Báo cáo về kiểm soát nội
bộ của COSO để phục vụ cho các mục đích sử dụng khác nhau, không chỉ sử
dụng riêng trong kiểm toán tài chính nên COSO tiếp cận và trình bày những khía
cạnh ở phạm vi rộng hơn.
1.2. Hệ thống kiểm soát nội bộ trong doanh nghiệp
1.2.1. Bản chất và vai trò của hệ thống kiểm soát nội bộ
Theo Chuẩn mực Kiểm toán về Đánh giá rủi ro và Kiểm soát nội bộ (ISA
400 trước đây) của IFAC thì: “hÖ thèng kiÓm so¸t néi bé bao gồm toàn bộ các
chính sách và thủ tục (các loại hình kiểm soát) được áp dụng bởi nhà quản lý
của đơn vị nhằm đảm bảo việc thực hiện các mục tiêu đã định như: thực hiện
hoạt động hiệu quả và tuân thủ pháp luật, bám sát chủ trương mà nhà quản lý
đã đặt ra; bảo vệ tài sản; ngăn ngừa và phát hiện gian lận và sai sót; đảm bảo
sự đầy đủ và chính xác của các thông tin kế toán; lập báo cáo tài chính tin cậy,
đúng thời hạn”.
Tại Việt Nam, theo ChuÈn mùc Kiểm toán 400 - Đánh giá rủi ro và kiểm
soát nội bộ được Bộ Tài chính ban hành theo Quyết định 143/2001/QĐ - BTC
ngày 21 tháng 12 năm 2001, thì : “hÖ thèng kiÓm so¸t néi bé ®−îc hiÓu lµ c¸c
qui ®Þnh vµ c¸c thñ tôc kiÓm so¸t do ®¬n vÞ ®−îc kiÓm to¸n x©y dùng vµ ¸p dông
nh»m b¶o ®¶m cho ®¬n vÞ tu©n thñ ph¸p luËt vµ c¸c qui ®Þnh, ®Ó kiÓm tra, kiÓm
so¸t, ng¨n ngõa vµ ph¸t hiÖn gian lËn, sai sãt; ®Ó lËp b¸o c¸o tµi chÝnh trung
thùc vµ hîp lý; nh»m b¶o vÖ, qu¶n lý vµ sö dông cã hiÖu qu¶ tµi s¶n cña ®¬n vÞ”.
Các kh¸i niÖm vÒ hÖ thèng kiÓm so¸t néi bé theo quan ®iÓm cña ChuÈn mùc
KiÓm to¸n ViÖt Nam và chuẩn mực kiểm toán của từng quốc gia trên thế giới víi
t− c¸ch h−íng dÉn qu¸ tr×nh thùc hµnh cña kiÓm to¸n viªn vÒ thùc chÊt quan t©m,
chú trọng và nhấn mạnh ®Õn kiÓm so¸t néi bé kÕ to¸n h¬n lµ kiÓm so¸t qu¶n trÞ
néi bé.
PGS.TS Ngô Trí Tuệ đã đưa ra khái niệm về hệ thống kiểm soát nội bộ
một cách chung nhất: “Hệ thống kiểm soát nội bộ là hệ thống các chính sách và
thủ tục được thiết lập nhằm đạt được bốn mục tiêu cơ bản: bảo vệ tài sản của
đơn vị; đảm bảo độ tin cậy của các thông tin; đảm bảo việc thực hiện các chế độ
pháp lý và đảm bảo hiệu quả của hoạt động”. Các chính sách và thủ tục kiểm
soát này do nhà quản lý thiết lập trên cơ sở tuân thủ luật pháp, đồng thời thể hiện
8
tư tưởng, quan điểm và triết lý trong quản lý và điều hành các mặt, các lĩnh vực
hoạt động được thực hiện trong đơn vị, tổ chức. Về thực chất, khái niệm này
phản ánh phù hợp với bản chất nghĩa của từ “hệ thống” theo Đại Từ điển Tiếng
Việt, với tư cách là “thể thống nhất, bao gồm những tư tưởng, nguyên tắc, quy
tắc liên kết với nhau một cách chặt chẽ có lôgich”. Hơn nữa, nó có tính tổng
quát, có thể sử dụng để nghiên cứu hệ thống kiểm soát nội bộ ở mọi loại hình
đơn vị trong các lĩnh vực khác nhau như: kinh doanh, hành chính hay sự nghiệp.
Hệ thống kiểm soát nội bộ hữu hiệu là cơ sở đảm bảo thành công của đơn
vị nói chung và các doanh nghiệp nói riêng. Sự thiết kế và vận hành các thủ tục
kiểm soát đầy đủ, phù hợp là cơ chế đảm bảo hiện thực hoá các mục tiêu: bảo vệ
tài sản của doanh nghiệp, đảm bảo độ tin cậy của thông tin, đảm bảo việc tuân
thủ các chế độ pháp lý, đảm bảo hiệu quả hoạt động và hiệu năng quản lý. Với
sự phát triển trong nhận thức về kiểm soát nội bộ phù hợp với những yêu cầu mà
thực tiễn đặt ra, vai trò của hệ thống kiểm soát nội bộ không chỉ dừng lại ở việc
đảm bảo các mục tiêu truyền thống mà còn có tác dụng hỗ trợ tổ chức và tạo ra
giá trị gia tăng cho đơn vị, thậm chí còn giúp doanh nghiệp hướng đến những giá
trị phi vật chất, chẳng hạn tính chính trực và giá trị đạo đức. Tuy nhiên, khi hệ
thống không tồn tại hoặc có yếu điểm, thành tích và kết quả của doanh nghiệp sẽ
bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Chính vì vậy, cần phải ý thức và nhận diện những
hạn chế có thể tiềm ẩn trong bản thân hệ thống. Những hạn chế này phụ thuộc
vào các nhân tố: tính hiệu quả trong thực hiện các loại hình kiểm soát, kiểm soát
nội bộ không thể đảm bảo tuyệt đối rằng các sai phạm được ngăn ngừa, sửa chữa
và phát hiện kịp thời, các thủ tục kiểm soát bị lạc hậu, vượt tầm kiểm soát; thiếu
sự quan tâm của nhà quản lý.
1.2.2. Các yếu tố cấu thành hệ thống kiểm soát nội bộ
Thứ nhất, môi trường kiểm soát
Môi trường kiểm soát bao gồm toàn bộ nhân tố bên trong và bên ngoài đơn
vị có tính môi trường tác động đến việc thiết kế, hoạt động và xử lý dữ liệu của
các loại hình kiểm soát nội bộ. Các nhân tố thuộc môi trường kiểm soát bao
gồm : đặc thù về quản lý, cơ cấu tổ chức, chính sách nhân sự, công tác kế hoạch,
uỷ ban kiểm soát, bộ phận kiểm toán nội bộ.
Môi trường kiểm soát chung của một doanh nghiệp còn phụ thuộc vào các
nhân tố bên ngoài bao gồm: thể chế kinh tế, chính trị, môi trường luật pháp, văn
hoá, phong tục tập quán, ảnh hưởng của các chủ nợ, các nhà đầu tư, đến doanh
nghiệp. Những nhân tố này vượt khỏi phạm vi kiểm soát của các nhà quản lý