Tóm tắt Luận án Kinh tế ngầm trong mối quan hệ với fdi, chất lượng thể chế và bất bình đẳng thu nhập: Bằng chứng thực nghiệm từ các nước Châu Á

Trong những thập niên gần đây, kinh tế ngầm, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), chất lượng chế và bất bình đẳng thu nhập đã thu hút rất nhiều sự quan tâm nghiên cứu của giới học thuật, vì những biến số này đều liên quan đến tăng trưởng kinh tế (Borensztein et al, 1998; Kandil, 2009; Schneider & Bajada, 2003); Barro, 2000). Đặc biệt, những biến số này và mối quan hệ của chúng càng trở nên đáng được nghiên cứu trong bối cảnh châu Á bởi những vấn đề đang nổi lên của nó, đó là: dòng vốn FDI cao nhưng chất lượng thể chế thấp, quy mô kinh tế ngầm lớn và bất bình đẳng thu nhập tăng. Châu Á hiện thu hút 1/3 tổng tổng số dòng vốn FDI trên thế giới (UNCTAD, 2017), nhưng chất lượng thể chế vẫn còn thấp (WB, 2017b)- một trong những nguyên nhân có thể gây bẫy thu nhập trung bình trong khu vực (Dollar, 2015). Trong khi đó, sự gia tăng quy mô của nền kinh tế ngầm bóp méo việc phân bổ nguồn lực, làm thay đổi phân phối thu nhập và giảm nguồn thu từ thuế của chính phủ (Alm & Embaye, 2013). Ngoài ra, tăng trưởng kinh tế nhanh chóng ở châu Á đã góp phần giảm nghèo nhưng lại mở rộng khoảng cách thu nhập ở nhiều nước (Zhuang và cộng sự, 2014)- điều này làm cản trở tốc độ giảm nghèo nhờ tăng trưởng (Ravallion, 2004) hoặc có thể tác động tiêu cực đến chất lượng thể chế (Chong & Gradstein, 2007b; và Zhuang et al., 2010).

pdf31 trang | Chia sẻ: thientruc20 | Lượt xem: 393 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Kinh tế ngầm trong mối quan hệ với fdi, chất lượng thể chế và bất bình đẳng thu nhập: Bằng chứng thực nghiệm từ các nước Châu Á, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ********* HUỲNH CÔNG MINH KINH TẾ NGẦM TRONG MỐI QUAN HỆ VỚI FDI, CHẤT LƯỢNG THỂ CHẾ VÀ BẤT BÌNH ĐẲNG THU NHẬP: BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM TỪ CÁC NƯỚC CHÂU Á Chuyên ngành: Kinh tế phát triển Mã số: 9310105 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ TP. Hồ Chí Minh – Năm 2018 Công trình này được hoàn thành tại: Trường Đại học Kinh tế Thành Phố Hồ Chí Minh Người hướng dẫn khoa học: 1. TS. Nguyễn Hoàng Bảo 2. TS. Nguyễn Vũ Hồng Thái Phản biện 1 : ............................................................................... ............................................................................... Phản biện 2 : ............................................................................... ............................................................................... Phản biện 3 : ............................................................................... ............................................................................... Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp trường họp tại:: ...................................................... ............................................................................... Vào hồi giờ ngày............tháng năm Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện: Thư viện Đại học Kinh tế Thành Phố Hồ Chí Minh. 1 CHƢƠNG 1: GIỚI THIỆU 1.1 Bối cảnh nghiên cứu 1.1.1 Bối cảnh thực tiễn Trong những thập niên gần đây, kinh tế ngầm, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), chất lượng thể chế và bất bình đẳng thu nhập đã thu hút rất nhiều sự quan tâm nghiên cứu của giới học thuật, vì những biến số này đều liên quan đến tăng trưởng kinh tế (Borensztein et al, 1998; Kandil, 2009; Schneider & Bajada, 2003); Barro, 2000). Đặc biệt, những biến số này và mối quan hệ của chúng càng trở nên đáng được nghiên cứu trong bối cảnh châu Á bởi những vấn đề đang nổi lên của nó, đó là: dòng vốn FDI cao nhưng chất lượng thể chế thấp, quy mô kinh tế ngầm lớn và bất bình đẳng thu nhập tăng. Châu Á hiện thu hút 1/3 tổng tổng số dòng vốn FDI trên thế giới (UNCTAD, 2017), nhưng chất lượng thể chế vẫn còn thấp (WB, 2017b)- một trong những nguyên nhân có thể gây bẫy thu nhập trung bình trong khu vực (Dollar, 2015). Trong khi đó, sự gia tăng quy mô của nền kinh tế ngầm bóp méo việc phân bổ nguồn lực, làm thay đổi phân phối thu nhập và giảm nguồn thu từ thuế của chính phủ (Alm & Embaye, 2013). Ngoài ra, tăng trưởng kinh tế nhanh chóng ở châu Á đã góp phần giảm nghèo nhưng lại mở rộng khoảng cách thu nhập ở nhiều nước (Zhuang và cộng sự, 2014)- điều này làm cản trở tốc độ giảm nghèo nhờ tăng trưởng (Ravallion, 2004) hoặc có thể tác động tiêu cực đến chất lượng thể chế (Chong & Gradstein, 2007b; và Zhuang et al., 2010). 1.1.2 Bối cảnh lý thuyết FDI, chất lượng thể chế và kinh tế ngầm Sự thất bại trong việc giải thích các hiện tượng kinh tế bằng một lý thuyết đã dẫn đến xu hướng sử dụng cách tiếp cận tích hợp để giải quyết vấn đề trong những thập kỷ gần đây (Torgler & Schneider, 2009). Mối quan hệ giữa FDI, chất lượng thể chế và kinh tế ngầm có thể được chia thành ba hướng nghiên cứu. Hướng đầu tiên tập trung vào mối quan hệ giữa FDI và chất lượng thể chế, dựa vào các lý thuyết về thương mại quốc tế (Dunning, 1980; Westney, 1993) và thể chế (North, 1990). Hầu hết các nghiên cứu đều cho thấy vai trò của chất lượng thể chế trong việc thu hút dòng vốn FDI, nhưng tác động phản hồi của FDI lên chất lượng thể chế lại ít được quan tâm nghiên cứu. Hướng thứ hai tập trung vào chất lượng thể chế thấp như một nhân tố chính của nền kinh tế ngầm, dựa trên trường phái Chủ nghĩa Pháp lý (Legalism) về nền kinh tế phi chính thức (Johnson và cộng sự, 1998; Hassan & Schneider, 2016). Tuy nhiên, không có nghiên cứu nào về tác động phản hồi của nền kinh tế ngầm lên chất lượng thể chế. Hướng thứ ba nghiên cứu mối quan hệ giữa FDI và kinh tế ngầm, đây vẫn còn là 2 một khoảng trống. Bằng cách xem xét chất lượng thể chế trong mối quan hệ hai chiều giữa FDI và kinh tế ngầm là sự đóng góp của luận án vào học thuật bằng cách kết hợp ba lý thuyết bao gồm thương mại quốc tế, thể chế hóa và chủ nghĩa pháp lý. Theo đó, FDI có thể làm giảm quy mô kinh tế ngầm thông qua kênh cải thiện chất lượng thể chế do FDI mang lại; và quy mô kinh tế ngầm cao sẽ làm giảm chất lượng thể chế và chất lượng thể chế thấp có thể ngăn cản dòng vốn FDI. Bên cạnh đó, dòng vốn FDI có thể làm giảm quy mô kinh tế ngầm thông qua các kênh khác như tạo việc làm và thúc đẩy tăng trưởng khu vực kinh tế chính thức. Kinh tế ngầm và bất bình đẳng thu nhập Rosser et al. (2000, 2003) cho thấy rằng mức độ bất bình đẳng thu nhập và quy mô của nền kinh tế phi chính thức có mối quan hệ cùng chiều. Bất bình đẳng tăng sẽ gây ra nhiều hoạt động không chính thức hơn do sự đoàn kết và tin tưởng xã hội giảm; trong khi đó việc mở rộng các hoạt động phi chính thức dẫn đến bất bình đẳng tăng do nguồn thu thuế giảm sẽ làm yếu các chính sách phân phối lại thu nhập. Tuy nhiên trong luận án này, bằng cách kết hợp ba trường tư tưởng về kinh tế ngầm - bao gồm Dualism, Legalism và Voluntarism, tác giả đề xuất một lập luận mới: kinh tế ngầm làm giảm bất bình đẳng thu nhập. 1.2 Mục tiêu nghiên cứu Luận án có hai mục tiêu nghiên cứu chính: (1) kiểm tra mối quan hệ nhân quả ba chiều giữa FDI, chất lượng thể chế và nền kinh tế ngầm ở các nước châu Á; (2) nghiên cứu tác động của nền kinh tế ngầm lên bất bình đẳng thu nhập và kênh tác động ở châu Á. 1.3 Câu hỏi nghiên cứu 1. Mối quan hệ hai chiều giữa dòng vốn FDI và chất lượng thể chế là gì? 2. Mối liên kết hai chiều giữa chất lượng thể chế và kinh tế ngầm có tồn tại không? 3. Mối quan hệ hai chiều giữa nền kinh tế ngầm và FDI là gì? 4. Sự tương tác giữa chất lượng thể chế và FDI tác động lên nền kinh tế ngầm như thế nào? 5. Kinh tế ngầm ảnh hưởng đến bất bình đẳng thu nhập ra sao và thông qua các kênh nào? 1.4 Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Trong luận án này, đối tượng nghiên cứu là: các mối quan hệ ba chiều giữa FDI, chất lượng thể chế và kinh tế ngầm; và tác động của kinh tế ngầm lên bất bình đẳng thu nhập. Những khái niệm này được định nghĩa rõ ràng trong chương 2. Phạm vi nghiên cứu giới hạn ở 19 quốc gia châu Á được phân 3 thành 4 khu vực: i) Đông Á: Trung Quốc, Mông Cổ; ii) Nam Á: Ấn Độ, Bangladesh, Bhutan, Maldives, Nepal, Pakistan và Sri Lanka; iii) Đông Nam Á: Campuchia, Indonesia, Lào, Malaysia, Myanmar, Philippines, Thái Lan và Việt Nam; iv) Trung Á: Kazakhstan, Kyrgyzstan. Dữ liệu cho các biến trong luận án được thu thập hàng năm trong giai đoạn 1999-2015. 1.5 Phƣơng pháp nghiên cứu và dữ liệu Phương pháp định lượng được sử dụng cho cả hai mục tiêu nghiên cứu. Để kiểm tra mối quan hệ ba chiều giữa FDI, chất lượng thể chế và kinh tế ngầm ở các nước châu Á, tác giả sử dụng mô hình hệ phương trình đồng thời (SEM) với hai phương pháp ước lượng bao gồm Bình phương tối thiểu ba giai đoạn (3SLS) và Moment tổng quát hóa hệ thống hai bước (Two Steps SGMM). Trong khi đó, mô hình phương trình tuyến tính được áp dụng để nghiên cứu tác động của kinh tế ngầm lên bình đẳng thu nhập, sử dụng 3 phương ước lượng: Tác động cố định (FE), tác động ngẫu nhiên (RE) và SGMM hai bước. Tất cả các biến trong luận án được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau, bao gồm Medina & Schneider (2018); World Development Indicators (WDI), World Bank (WB); Worldwide Governance Indicators (WGIs), WB; The International Country Risk Guide (ICRG), Political Risk Services (PRS) Group; UNESCO Institute for Statistics; Global Wage Report 2017, International Labor Organization (ILO); Freedom in the World, Freedom House; Index of Economic Freedom, The Heritage Foundation; Economic Freedom Report 2016, the Fraser Institute; Global Competitiveness Index (GCI), World Economic Forum; KOF Globalization Index, KOF Swiss Economic Institute; International Monetary Fund (IMF); Human Development Report, United Nations Conference on Trade and Development (UNCTAD). 1.6 Đóng góp của luận án Thứ nhất, luận án kết hợp ba học thuyết về thương mại quốc tế, thể chể hóa và kinh tế ngầm thông qua cách tiếp cận tích hợp để nghiên cứu mối quan hệ ba chiều giữa FDI, chất lượng thể chế và kinh tế ngầm lần đầu tiên ở các quốc gia châu Á, hình thành cơ chế các biến này tương tác để thúc đẩy tăng trưởng. Thứ hai, lần đầu tiên phương pháp tiếp cận bằng mô hình hệ phương trình đồng thời được sử dụng để nghiên cứu mối quan hệ ba chiều giữa FDI, chất lượng thể chế và nền kinh tế ngầm. Cụ thể, cả hai phương pháp 3SLS và SGMM hai bước được áp dụng để ước lượng các hiệu ứng nhân quả ba chiều, 4 bao gồm: i) tác động của chất lượng thể chế và kinh tế ngầm lên FDI; ii) tác động của FDI và kinh tế ngầm lên chất lượng thể chế; và iii) tác động của FDI và chất lượng thể chế lên kinh tế ngầm. Thứ ba, nghiên cứu phát hiện ra rằng nền kinh tế ngầm góp phần làm giảm bất bình đẳng thu nhập thông qua 2 kênh chính, đó là: tăng tỷ lệ thu nhập của nhóm 20% dân số có thu nhập thấp nhất, và giảm tỷ lệ thu nhập của nhóm 20% dân số có thu nhập cao nhất. Kết quả này trái ngược với các nghiên cứu trước đây (Rosser và cộng sự, 2000, 2003), mở ra thêm tranh luận cho giới nghiên cứu, nhất là củng cố quan điểm về tác động có lợi của nền kinh tế ngầm đặc biệt đối với người nghèo. Phát hiện này có thể được giải thích bằng cách kết hợp ba trường phái tư tưởng về kinh tế ngầm bao gồm Dualism, Legalism và Voluntarism. Thứ tư, kết quả nghiên cứu sẽ cung cấp các bằng chứng thực nghiệm cho các nhà hoạch định chính sách ở châu Á cho việc ra quyết định chính sách theo hai khía cạnh: i) các chính sách thúc đẩy đồng thời FDI và chất lượng thể chế cũng là giải pháp giảm quy mô nền kinh tế ngầm và ngược lại; ii) các chính sách nhằm giảm quy mô kinh tế ngầm nên xem xét thêm các giải pháp đồng thời khác để xóa đói giảm nghèo và giảm bất bình đẳng thu nhập, vì dù sao kinh tế ngầm cũng là một kênh giúp người nghèo cải thiện thu nhập của họ. 1.7 Bố cục luận án Luận án bao gồm 6 chương. Chương 1 giới thiêu nghiên cứu. Chương 2 tổng quan lý thuyết, các nghiên cứu trước và phát triển các giả thuyết. Chương 3 trình bày phương pháp nghiên cứu, mô hình, dữ liệu và thông tin chung về các nước trong nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu của mục tiêu thứ nhất và mục tiêu thứ hai được trình bày lần lượt trong hai chương 4 và 5. Chương 6 kết luận và gợi ý chính sách. 5 CHƢƠNG 2: TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU TRƢỚC 2.1. Kinh tế ngầm 2.1.1. Lý thuyết về kinh tế ngầm 2.1.1.1. Định nghĩa Schneider (2007, 2010, 2016) định nghĩa nền kinh tế ngầm bao gồm “tất cả hàng hóa và dịch vụ sản xuất và cung ứng trên thị trường nhưng cố ý che dấu các cơ quan công quyền để tránh trả thuế thu nhập, thuế giá trị gia tăng hoặc các loại thuế khác; tránh các khoản đóng góp an sinh xã hội; để tránh phải đáp ứng các tiêu chuẩn pháp lý trên thị trường lao động như tiền lương tối thiểu, giờ làm việc tối đa, tiêu chuẩn an toàn; và tránh tuân thủ các thủ tục hành chính nhất định”. Bằng cách sử dụng định nghĩa này, Medina và Schneider (2018), đã ước lượng quy mô kinh tế ngầm của 158 quốc gia trên toàn thế giới trong một nghiên cứu của mình vừa được Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) công bố. Định nghĩa kinh tế ngầm trên cũng sẽ được sử dụng trong nghiên cứu này do ý nghĩa toàn diện và cụ thể của nó. 2.1.1.2. Các trường phái lý thuyết 2.1.1.2.1. Trường phái Nhị nguyên (Dualism) với Lý thuyết phần dư (Residue Theory): Mô hình hai khu vực, Mô hình Harris-Todaro, và Lý thuyết thị trường lao động 2 khu vực. 2.1.1.2.2. Trường phái Cấu trúc (Structuralism) với Lý thuyết sản phẩm phụ (By-product theory). 2.1.1.2.3. Trường phái Pháp lý (Legalism) với Lý thuyết thay thế (Alternative theory). 2.1.1.2.4. Trường phái Tự nguyện (Volntarism) với Lý thuyết lựa chọn hợp lý của cá nhân (Theory of individuals’ rational choice). 2.1.1.2.5. Trường phái Lý thuyết bổ sung và kinh tế ngầm (Complementary theory and shadow economy). 2.1.2. Các nghiên cứu thực nghiệm về kinh tế ngầm 2.1.2.1. Phương pháp ước lượng quy mô kinh tế ngầm Có 3 phương pháp đo lường chính. Thứ nhất, phương pháp trực tiếp bao gồm điều tra khảo sát và kiểm toán thuế (Isachsen et al., 1985; Mogensen et al., 1995; Haigner et al., 2013). Thứ hai, phương pháp gián tiếp bao gồm phương pháp cầu tiền (Tanzi, 1983, 1999; Alm & Embaye, 2013); chênh lệch giữa thu nhập và chi tiêu quốc gia (Thomas, 1999); chênh lệch giữa lực lượng lao động chính thức và thực tế (Contini, 1981)Thứ ba, phương pháp mô hình xem xét toàn diện nhiều nguyên nhân và tác động của nền kinh tế ngầm. Một trong những mô hình phổ biến nhất được sử dụng để ước tính nền kinh tế ngầm là cách tiếp cận MIMIC ((Multiple Indicators Multiple Causes). Cách tiếp cận MIMIC 6 được nhiều học giả sử dụng để ước lượng quy mô kinh tế ngầm như Giles and Tedds (2002); Schneider & Bajada (2003); Bajada & Schneider (2005), Buehn & Schneider (2012); Võ & Phạm (2014), Hassan & Schneider (2016), Schneider & Buehn (2017), Medina & Schneider (2018) 2.1.2.2. Nguyên nhân của nền kinh tế ngầm  Gánh nặng thuế và đóng góp an sinh xã hội: Mối quan hệ cùng chiều được kết luận bởi các nhà nghiên cứu theo trường phái Voluntarism như Feige (1989), De Soto (1989), Tanzi (1982, 1999), Gile (1999), Schneider & Bajada (2003), Schneider ( 2007, 2010), Hassan & Schneider (2016).  Cường độ các quy định: Mối quan hệ dương được xác định bởi các nhà nghiên cứu theo trường phái Legalism như Loayza (1996), Friedman et al. (2000) và Schneider et al. (2010).  Tham nhũng: Mối quan hệ giữa tham nhũng và nền kinh tế ngầm có thể là bổ sung (Johnson và cộng sự, 1997; Hindriks và cộng sự, 1999; Hibbs & Piculescu, 2005; và Dreher & Schneider, 2010) hoặc thay thế (Choi & Thum, 2005; Dreher và cộng sự, 2008).  Thất nghiệp, tự kinh doanh và nghỉ hưu: Đây cũng là những nguyên nhân của nền kinh tế ngầm (Boeri & Garibaldi, 2002; Dell'Anno & Solomon, 2008; Dell'Anno, Gomez-Antonio, & Pardo, 2007; Williams, Horodnic & Windebank, 2016).  Chất lượng thể chế và dịch vụ khu vực công: Nhóm nhân tố này tác động âm đến nền kinh tế ngầm, được xác nhận bởi các nhà kinh tế theo trường phái Legalism như Johnson và cộng sự. (1998); Friedman, Johnson, Kaufmann và Zoido-Labton (2000); Fugazza & Jacques (2003), Torgler & Schneider (2009), Dreher, Kotsogiannis & McCorriston (2009), Dreher & Schneider (2010), Singh và cộng sự. (2012), Razmi và cộng sự. (2013), và Hassan & Schneider (2016).  Sự phát triển của nền kinh tế chính thức: Tác động của nền kinh tế chính thức lên kinh tế ngầm có thể là âm theo các trường phái Nhị nguyên, Pháp lý và Tự nguyện (Williams, 2008; La Porta và Shleifer, 2008, 2014), hoặc dương theo trường phái Lý thuyết bổ sung (Adam & Ginsburgh, 1985; Jensen và cộng sự, 1995; Williams & Round, 2008; Elgin & Oztunali, 2014).  Độ mở thương mại và toàn cầu hóa: tác động dương đến kinh tế ngầm theo trường phái Pháp lý (Johnson et al., 1998; Fugazza & Fiess, 2010).  Đô thị hóa: có thể tác động dương lên kinh tế ngầm (Safa, 1986); hoặc tác động theo hình chữ U ngược (Elgin & Oyvat, 2013). 2.1.2.3. Tác động của nền kinh tế ngầm 7  Làm biến dạng tài khoản quốc gia, bóp méo phân bổ nguồn lực và giảm doanh thu thuế (Alm & Embaye, 2013; trường phái Pháp lý và Tự nguyện với quan điểm kinh tế ngầm là sự thay thế cho nền kinh tế chính thức).  Tạo ra cạnh tranh không lành mạnh (Farrell, 2004).  Tác động đến thị trường lao động (Portes & Benton, 1984; Castells & Portes, 1989; Voinea & Liviu Albu, 2011; Boeri et al., 2011).  Ảnh hưởng tiêu cực đến năng suất lao động, theo quan điểm của các nhà nghiên cứu theo trường phái Pháp lý và Tự nguyện (Friedman và cộng sự, 2000; Ihrig & Moe, 2004; La Porta & Shleifer, 2014).  Tác động đến tăng trưởng kinh tế: Đối với các nhà kinh tế theo trường phái Pháp lý và Tự nguyện, nền kinh tế ngầm làm cản trở tăng trưởng của nền kinh tế chính thức (De Soto, 1989; Loayza, 1997; Johnson và cộng sự, 1997). Tuy nhiên, theo trường phái của Lý thuyết bổ sung, đây là một mối quan hệ tích cực (Adam & Ginsburgh, 1985; Nabi & Drine, 2009; Schneider & Dominik, 2000).  Tác động âm lên nghèo đói (Kim, 2005; Nikopour & Habibullah, 2010; De Martiis, 2014). 2.2. Kinh tế ngầm, FDI và chất lƣợng thể chế 2.2.1. FDI và chất lượng thể chế 2.2.1.1 Lý thuyết về FDI Theo IMF (1993) và OECD (1996), FDI được định nghĩa là “hoạt động đầu tư được thực hiện nhằm thiết lập các mối quan hệ kinh tế lâu dài với một doanh nghiệp hoạt động trên lãnh thổ của một nền kinh tế khác nền kinh tế nước chủ đầu tư, mục đích của chủ đầu tư là giành quyền quản lý thực sự doanh nghiệp”. Nhiều lý thuyết đã được hình thành để khám phá sự hiện diện và động cơ của dòng vốn FDI như Lý thuyết vòng đời sản phẩm (Vernon, 1966); Lý thuyết FDI theo chiều ngang và chiều dọc (Caves, 1971); Lý thuyết nội bộ hóa (Buckley và Casson, 1976); Lý thuyết chiết trung (Dunning, 1980). Theo hầu hết các lý thuyết trên, động cơ của FDI là tìm kiếm nguồn lực, quy mô thị trường, lực lượng lao động, chi phí thấp hơn, ổn định chính trị và chất lượng thể chế. Phần lớn các nghiên cứu về FDI tập trung vào các yếu tố quyết định FDI như quy mô thị trường (Kravis và Lipsey, 1982; Liu, 2012; Hoàng, 2012); đầu tư trong nước (Anwar và Nguyễn, 2010; Lautier và Moreaub, 2012); nguồn nhân lực (Schneider & Frey, 1985; Moore, 1993; Wang và Swain, 1995; Brainard, 1997; Wei, 2010); lao động có kỹ năng (Broadman, 1997; Coughlin, 2000); chi phí 8 nhân công (Schneider & Frey, 1985; Wheeler & Mody, 1992; Loree & Guisinger, 1995); cơ sở hạ tầng (Wheeler và Mody, 1992; Loree và Guisinger, 1995; Asidu, 2002; Lumbila, 2005); độ mở thương mại (Aizenman và Noy, 2006; Liargovas và Skandalis, 2012); sự ổn định kinh tế vĩ mô (Kamin và Rogers, 2000; Husain và cộng sự, 2005; Anwar và Nguyễn, 2010; Recep Kok, 2009); lãi suất thực (Grosse & Trevino, 1996; Cavallari & d'Addona, 2013); tỷ giá hối đoái (Grosse và Trevino, 1996; Froot & Stein, 1991; Cavallari & d'Addona, 2013); tài nguyên thiên nhiên (Asiedu, 2006; Aleksynska & Havrylchyk, 2013); và chất lượng thể chế (Campos và Kinoshita, 2003; Kang, 2004). 2.2.1.2 Lý thuyết về chất lượng thể chế North (1990, 1991 và 1994) là một trong những học giả đầu tiên nhấn mạnh tầm quan trọng của thể chế. Ông định nghĩa các thể chế là thực thể bao gồm các quy tắc chính thức (ví dụ: hiến pháp, luật và các quy định) và các ràng buộc không chính thức (các quy tắc về hành vi, quy ước và các quy tắc ứng xử tự áp đặt). Một số nghiên cứu đã tìm ra các nhân tố quyết định chất lượng thể chế bao gồm: độ mở thương mại (Ades & Tella, 1999; Treisman, 2000; Kandil, 2009; Fukumi & Nishijima, 2010); dân chủ hóa, bất ổn chính trị (Lederman, Loayza, & Soares, 2005; Adsera, Boix, & Bayne, 2003); thu nhập (La Porta, Lopea-de-Silanes, Shleifer, & Vishny, 1999); trình độ phát triển (Chong & Zanforlin, 2000; Alonso & Garcimartin, 2013); giáo dục (Glaeser, La Porta, Lopez-de-Silanes, & Shleifer, 2004; Alonso & Garcimartin, 2013); bất bình đẳng phân phối thu nhập (Alesina & Perotti, 1996; Engerman & Sokoloff, 1997; You & Sanjeev, 2005); tăng trưởng (Lipset, 1959; Barro, 1997); và tài nguyên thiên nhiên (Sachs & Warner, 1997; Easterly & Levine, 2003; Alonso & Garcimartin, 2013). 2.2.1.3 Mối quan hệ giữa FDI và chất lượng thể chế Dựa vào Lý thuyết chiết trung (Dunning, 1980), Lý thuyết thể chế hóa (North, 1990), Lý thuyết MNCs (Westney, 1993), và các nghiên cứu trước, tác giả hình thành giả thuyết nghiên cứu như sau: Giả thuyết 1: Chất lượng thể chế là nhân tố giúp các nước chủ nhà thu hút dòng vốn FDI và ngược lại dòng vốn FDI nâng cao chất lượng thể chế ở các nước chủ nhà. 2.2.2. Chất lượng thể chế và kinh tế ngầm Theo trường phái Legalism, độ
Luận văn liên quan