Trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ nói chung, nơi diễn ra các hoạt động
cung cấp dịch vụ giữa bên mua và bên bán, thì việc duy trì sự trung thành của
khách hàng là một trong các mục tiêu quan trọng của các doanh nghiệp (DN)
cung cấp dịch vụ. Sự trung thành này sẽ giúp DN phát triển ổn định (Gwinner
và cộng sự, 1998), giảm các chi phí để thu hút các khách hàng mới (Payne và
Frow, 2005) và tạo ra thương hiệu cho công ty (Bhattacharya và Sen, 2003).
Trong lĩnh vực kiểm toán báo cáo tài chính (BCTC) nói riêng, điểm giống như
các loại hình kinh doanh dịch vụ khác là cũng diễn ra các hoạt động cung cấp
dịch vụ giữa bên mua và bên bán, thì việc duy trì một danh mục các khách hàng
trung thành với CTKT độc lập sẽ tạo nên những thuận lợi về mặt kinh tế và
cạnh tranh trên thị trường, cũng như làm tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh
cho các CTKT (CTKT) (Yang và Peterson, 2004; Ravald và Gronroos, 1996).
Tuy nhiên, do kiểm toán là loại hình dịch vụ đặc thù, có nhiều bên liên quan
bao gồm: Chủ thể kiểm toán là các CTKT (cung cấp dịch vụ kiểm toán
BCTC), khách thể kiểm toán là các CTNY (sử dụng dịch vụ kiểm toán), và
bên thứ ba là những đối tượng sử dụng BCTC và báo cáo kiểm toán (gồm các
nhà đầu tư, đối tác, các cơ quan quản lý có thẩm quyền, chuyên gia phân tích).
Dưới góc độ quản lý vĩ mô, trong loại hình dịch vụ kiểm toán thì yếu tố chất
lượng của báo cáo kiểm toán là đặc biệt quan trọng vì tẩm ảnh hưởng rất lớn
đến việc ra quyết định của các nhà đầu tư và nhiều đối tượng khác có quan
tâm đến BCTC của DN. Do sự đặc thù như vậy, nên đối với các CTKT, ngoài
việc duy trì sự trung thành của các DN cần đi đôi với việc đảm bảo chất lượng
của công tác kiểm toán.
Thực tế, thị trường kiểm toán trên thế giới nói chung và Việt Nam nói
riêng đang diễn ra sự cạnh tranh giữa các CTKT trong việc tìm kiếm khách
hàng mới và duy trì khách hàng cũ. Ông Bùi Văn Mai – Phó chủ tịch Hội
Kiểm toán hành nghề Việt Nam và bà Trần Thúy Ngọc – Phó tổng giám đốc
CTKT Deloitte Việt Nam đã đánh giá việc cạnh tranh bằng phí kiểm toán tại
Việt Nam đang hết sức phổ biến và sẽ làm ảnh hưởng tiêu cực tới chất lượng
kiểm toán BCTC.
Việc cạnh tranh bằng giá phí tại Việt Nam như hiện nay có thực sự làm
các DN khách hàng thay đổi hay tiếp tục sử dụng các dịch vụ của các CTKT
chưa được kiểm chứng một cách khoa học. Do vậy, xét về mặt thực tế, cần có
nghiên cứu về mối quan hệ giữa CTKT và CTNY để tìm hiểu có phải vì giá phí
hay vì các vấn đề khác như chất lượng dịch vụ kiểm toán, mối quan hệ quen
biết và gắn bó giữa khách hàng và CTKT, hay những vấn đề khác mang tính
đặc thù của thị trường kiểm toán tại Việt Nam mới quyết định việc DN tiếp tục
sử dụng các dịch vụ của CTKT?
Về khía cạnh nghiên cứu, mặc dù đã có rất nhiều các nghiên cứu thực chứng
về sự trung thành của khách hàng đối với các CTKT trên thế giới. Tuy nhiên các
nghiên cứu này thường đánh giá các nhân tố tác động đến sự trung thành của các
doanh nghiệp niêm yết dưới góc độ khác nhau. Còn tại Việt Nam thì chưa có
nghiên cứu nào về sự trung thành của doanh nghiệp niêm yết với CTKT.
Do vậy, về mặt khoa học, nghiên cứu được thực hiện để lấp khoảng trống
trong nghiên cứu. Đó là giải thích mối quan hệ giữa các nhân tố tác động đến
sự trung thành của các doanh nghiệp niêm yết đối với các CTKT tại Việt Nam.
Từ đó, mang lại những đóng góp về mặt thực tiễn, tạo môi trường cạnh tranh
lành mạnh cho thị trường kiểm toán tại Việt Na
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
13 trang | 
Chia sẻ: thientruc20 | Lượt xem: 688 | Lượt tải: 1
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Tóm tắt Luận án Mối quan hệ giữa chất lượng dịch vụ kiểm toán, sự hài lòng và sự trung thành, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
CHƯƠNG 1 
 GIỚI THIỆU 
1. Sự cần thiết của đề tài 
Trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ nói chung, nơi diễn ra các hoạt động 
cung cấp dịch vụ giữa bên mua và bên bán, thì việc duy trì sự trung thành của 
khách hàng là một trong các mục tiêu quan trọng của các doanh nghiệp (DN) 
cung cấp dịch vụ. Sự trung thành này sẽ giúp DN phát triển ổn định (Gwinner 
và cộng sự, 1998), giảm các chi phí để thu hút các khách hàng mới (Payne và 
Frow, 2005) và tạo ra thương hiệu cho công ty (Bhattacharya và Sen, 2003). 
Trong lĩnh vực kiểm toán báo cáo tài chính (BCTC) nói riêng, điểm giống như 
các loại hình kinh doanh dịch vụ khác là cũng diễn ra các hoạt động cung cấp 
dịch vụ giữa bên mua và bên bán, thì việc duy trì một danh mục các khách hàng 
trung thành với CTKT độc lập sẽ tạo nên những thuận lợi về mặt kinh tế và 
cạnh tranh trên thị trường, cũng như làm tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh 
cho các CTKT (CTKT) (Yang và Peterson, 2004; Ravald và Gronroos, 1996). 
Tuy nhiên, do kiểm toán là loại hình dịch vụ đặc thù, có nhiều bên liên quan 
bao gồm: Chủ thể kiểm toán là các CTKT (cung cấp dịch vụ kiểm toán 
BCTC), khách thể kiểm toán là các CTNY (sử dụng dịch vụ kiểm toán), và 
bên thứ ba là những đối tượng sử dụng BCTC và báo cáo kiểm toán (gồm các 
nhà đầu tư, đối tác, các cơ quan quản lý có thẩm quyền, chuyên gia phân tích). 
Dưới góc độ quản lý vĩ mô, trong loại hình dịch vụ kiểm toán thì yếu tố chất 
lượng của báo cáo kiểm toán là đặc biệt quan trọng vì tẩm ảnh hưởng rất lớn 
đến việc ra quyết định của các nhà đầu tư và nhiều đối tượng khác có quan 
tâm đến BCTC của DN. Do sự đặc thù như vậy, nên đối với các CTKT, ngoài 
việc duy trì sự trung thành của các DN cần đi đôi với việc đảm bảo chất lượng 
của công tác kiểm toán. 
Thực tế, thị trường kiểm toán trên thế giới nói chung và Việt Nam nói 
riêng đang diễn ra sự cạnh tranh giữa các CTKT trong việc tìm kiếm khách 
hàng mới và duy trì khách hàng cũ. Ông Bùi Văn Mai – Phó chủ tịch Hội 
Kiểm toán hành nghề Việt Nam và bà Trần Thúy Ngọc – Phó tổng giám đốc 
CTKT Deloitte Việt Nam đã đánh giá việc cạnh tranh bằng phí kiểm toán tại 
Việt Nam đang hết sức phổ biến và sẽ làm ảnh hưởng tiêu cực tới chất lượng 
kiểm toán BCTC. 
2
Việc cạnh tranh bằng giá phí tại Việt Nam như hiện nay có thực sự làm 
các DN khách hàng thay đổi hay tiếp tục sử dụng các dịch vụ của các CTKT 
chưa được kiểm chứng một cách khoa học. Do vậy, xét về mặt thực tế, cần có 
nghiên cứu về mối quan hệ giữa CTKT và CTNY để tìm hiểu có phải vì giá phí 
hay vì các vấn đề khác như chất lượng dịch vụ kiểm toán, mối quan hệ quen 
biết và gắn bó giữa khách hàng và CTKT, hay những vấn đề khác mang tính 
đặc thù của thị trường kiểm toán tại Việt Nam mới quyết định việc DN tiếp tục 
sử dụng các dịch vụ của CTKT? 
Về khía cạnh nghiên cứu, mặc dù đã có rất nhiều các nghiên cứu thực chứng 
về sự trung thành của khách hàng đối với các CTKT trên thế giới. Tuy nhiên các 
nghiên cứu này thường đánh giá các nhân tố tác động đến sự trung thành của các 
doanh nghiệp niêm yết dưới góc độ khác nhau. Còn tại Việt Nam thì chưa có 
nghiên cứu nào về sự trung thành của doanh nghiệp niêm yết với CTKT. 
Do vậy, về mặt khoa học, nghiên cứu được thực hiện để lấp khoảng trống 
trong nghiên cứu. Đó là giải thích mối quan hệ giữa các nhân tố tác động đến 
sự trung thành của các doanh nghiệp niêm yết đối với các CTKT tại Việt Nam. 
Từ đó, mang lại những đóng góp về mặt thực tiễn, tạo môi trường cạnh tranh 
lành mạnh cho thị trường kiểm toán tại Việt Nam. 
Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu 
Mục tiêu nghiên cứu: 
Mục tiêu nghiên cứu chính của đề tài là kiểm định mối quan hệ về sự 
trung thành của các CTNY đối với các CTKT độc lập tại Việt nam. 
Từ mục tiêu nghiên cứu chính trên, tác giả xác định các mục tiêu nghiên 
cứu chi tiết như sau: 
- Xây dựng mô hình nghiên cứu đánh giá sự ảnh hưởng của các nhân tố 
đến sự trung thành của các CTNY đối với các CTKT độc lập. 
- Tìm ra những nhân tố có ảnh hưởng và ảnh hưởng như thế nào đến sự 
trung thành của các CTNY đối với các CTKT độc lập. 
- Đánh giá sự khác biệt về sự trung thành giữa các nhóm CTNY đối với 
các CTKT độc lập. 
Câu hỏi nghiên cứu: 
3
Để thực hiện các mục tiêu nghiên cứu chi tiết, câu hỏi nghiên cứu của đề 
tài như sau: 
- Những nhân tố nào ảnh hưởng đến sự trung thành của các CTNY đối 
với các CTKT độc lập tại Việt Nam? 
- Những nhân tố đó ảnh hưởng như thế nào đến sự trung thành của các 
CTNY đối với các CTKT độc lập tại Việt Nam? 
- Có sự khác nhau như thế nào giữa các nhóm CTNY về sự trung thành 
đối với các CTKT độc lập tại Việt Nam? 
Phạm vi và đối tượng nghiên cứu 
Phạm vi nghiên cứu: 
Để đánh giá sự trung thành của các CTNY đối với các CTKT độc lập 
tại Việt Nam, tác giả đã tham khảo các nghiên cứu trước đây và kết hợp với 
điều tra phỏng vấn các chuyên gia và quản lý trong công tác kiểm toán để xác 
định các nhân tố nào tác động đến sự trung thành. Từ đó, tác giả xác định bốn 
nhân tố quan trọng nhất mà phù hợp với điều kiện thị trường tại Việt Nam, 
bao gồm: sự hài lòng của DN về chất lượng dịch vụ, sự cảm nhận của DN về 
mối quan hệ lợi ích - chi phí từ dịch vụ kiểm toán, sự đánh giá của DN về 
khả năng tiếp cận dịch vụ kiểm toán, và sự cảm nhận của DN về mối quan hệ 
giữa DN và CTKT. 
Các CTNY được nghiên cứu là các DN niêm yết trên HNX và HOSE tại 
thời điểm năm 2013. Tại thời điểm này, có khoảng 900 CTNY trên hai sàn 
chứng khoán, và tác giả chọn ra 152 DN để tiến hành điều tra. Các DN được 
chọn đảm bảo tính bao phủ về yếu tố ngành nghề và địa lý. 
Do các CTKT cung cấp nhiều loại hình dịch vụ như kiểm toán BCTC, 
kiểm toán tuân thủ, thuế, và tư vấn; cũng như mối CTNY có thể sử dụng nhiều 
hơn một dịch vụ kiểm toán; Do đó, việc đánh giá sự cảm nhận của các CTNY 
đối với dịch vụ kiểm toán trong nghiên cứu này được giới hạn trong dịch vụ 
kiểm toán BCTC – dịch vụ được các CTNY sử dụng nhiều nhất trong các loại 
dịch vụ kiểm toán. 
Đối tượng nghiên cứu: 
4
Các nhân tố tác động đến sự trung thành của các CTNY đối với các CTKT 
độc lập là đối tượng nghiên cứu của đề tài thông qua việc gửi phiếu điều tra. 
Trực tiếp trả lời phiếu điều tra là các cán bộ trong DN mà thường xuyên tiếp xúc 
và làm việc với đoàn kiểm toán như kế toán trưởng, trưởng hay phó phòng tài 
chính, thành viên ban giám đốc, và thành viên phòng kiểm toán nội bộ. 
5
CHƯƠNG 2 
 CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU 
Sự trung thành 
Khái niệm về sự trung thành của khách hàng đối với công ty công cấp 
dịch vụ đã được nghiên cứu rất nhiều và đưa ra các khái niệm hay quan điểm 
khác nhau. Theo Baloglu (2002), sự trung thành là một cấu trúc phức tạp, và 
các nghiên cứu về sự trung thành thường tập trung vào hai hướng chính, gồm 
dựa trên hành vi và thái độ của khách hàng. Hành vi của sự trung thành đó là 
việc tiếp tục mua hàng hóa hay dịch vụ (repeat purchase) của một nhà cung cấp. 
Thái độ của sự trung thành đó là nói với người khác về việc nên mua hàng hóa 
hay dịch vụ của một nhà cung cấp. Tuy nhiên, cả hai định nghĩa phổ biến này 
còn có những hạn chế. 
Trong lĩnh vực kiểm toán BCTC, luật kiểm toán độc lập quy định các 
CTNY sau mỗi 3 năm phải thay đổi người ký báo cáo kiểm toán và trong 
trường hợp là DN trong lĩnh vực tín dụng phải thay đổi CTKT. Dó đó, có thể 
một DN đang sử dụng dịch vụ kiểm toán của một CTKT trong nhiều năm hay 
nói cách khác là trung thành với CTKT đó phải thay đổi CTKT khác nên việc 
đo lường sự trung thành của DN đối với CTKT còn khó hơn so với các loại 
hình mua – bán khác. Trong các nghiên cứu đo lường về sự trung thành của các 
DN đối với các CTKT, cả hai định nghĩa về hành vi và thái độ đều đã được áp 
dụng. Ví dụ như, nghiên cứu của Ismail và cộng sự (2006) tại Malaysia sử dụng 
định nghĩa sự trung thành theo thái độ thông qua việc phỏng vấn DN. Trong khi 
đó, nghiên cứu của Hudaib và Cooke (2005) tại Anh sử dụng định nghĩa sự 
trung thành theo hành vi thông qua việc sử dụng dữ liệu thứ cấp từ BCTC mà 
DN đã thay đổi CTKT. 
Do sự phức tạp trong việc định nghĩa và đo lường về sự trung thành như 
trên, cùng với những quy định chặt chẽ trong việc thay đổi CTKT, nên việc lựa 
chọn định nghĩa hay phương pháp đo lường sự trung thành của các CTNY đối 
với các CTKT độc lập nào cũng có những giới hạn nhất định. Dó đó, để có thể 
thực hiện mục tiêu nghiên cứu của đề tài một cách khả thi, tác giả sẽ lựa chọn 
phương pháp đo lường sự trung thành của các DN đối với CTKT bằng định 
nghĩa DN tiếp tục sử dụng dịch vụ kiểm toán BCTC của CTKT. 
6
Dưới góc độ quốc tế, nghiên cứu về các nhân tố tác động đến sự trung 
thành của CTNY đối với CTKT đã được thực hiện đa dạng, bao gồm: 
 Chất lượng báo cáo kiểm toán 
 Sự thay đổi của quy định, chuẩn mực kiểm toán 
 Kết quả của báo cáo kiểm toán báo cáo tài chính 
 Phí kiểm toán 
 Lợi ích – chi phí kiểm toán 
 Quy mô CTKT 
 Quy mô khách hàng kiểm toán 
 Khách hàng trong giai đoạn tài chính khó khăn hay phá sản 
 Mối quan hệ giữa CTKT và khách hàng 
 Sự hài lòng của khách hàng về chất lượng dịch vụ kiểm toán 
 Khả năng tiếp cận dịch vụ của khách hàng 
Sự đa dạng này được thực hiện qua các nghiên cứu tác động của mỗi nhân 
tố riêng lẻ hay sự kết hợp của một nhóm các nhân tố đến sự trung thành. Các 
nhân tố hay nhóm nhân tố khác nhau, tại các thị trường khác nhau sẽ cho ra các 
kết quả khác nhau. Do đó, để tập trung vào mục tiêu nghiên cứu của mình, tác 
giả sẽ trình bày các nghiên cứu có liên quan đến nhóm bốn nhân tố tác động đến 
sự trung thành mà tác giả đã xác định trong phần phỏng vấn sâu các chuyên gia 
tại Việt Nam. 
Mối quan hệ giữa chất lượng dịch vụ kiểm toán, sự hài lòng và sự 
trung thành 
Chất lượng kiểm toán, về mặt kỹ thuật được hiểu là việc thị trường đánh 
giá về mức độ của kiểm toán trong việc phát hiện các sai phạm trong hệ thống 
kế toán của khách hàng và báo cáo các sai phạm đó. Nhiều nghiên cứu về chất 
lượng kế toán và kiểm toá tập trung vào chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính. 
Chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính chủ yếu tập trung vào mối quan hệ giữa 
chất lượng kiểm toán, rủi ro trong việc lựa chọn khách hàng, rủi ro xung đột lợi 
ích (agency issue) và các yếu tố cấu thành chất lượng dịch vụ kiểm toán 
(Hansen và cộng sự, 2006; Beattie và cộng sự,2013). 
Chất lượng kiểm toán, về mặt dịch vụ được hiểu là cảm nhận hay sự hài 
lòng của khách hàng về chất lượng dịch vụ kiểm toán Chất lượng kiểm toán sẽ 
7
tác động đến sự hài lòng của khách hàng về chất lượng dịch vụ. Sự hài lòng về 
chất lượng dịch vụ có tác động đến sự trung thành của khách hàng sử dụng dịch 
vụ. Nghiên cứu điển hình về mối quan hệ này là của Ishak Ismail và cộng sự 
(2006), nhóm tác giả đã dùng phương pháp điều tra 500 công ty niêm yết trên 
thị trường chứng khoán Malaysia để đánh giá mối quan hệ giữa chất lượng dịch 
vụ kiểm toán đến sự hài lòng và đến sự trung thành của khách hàng. Trong 
nghiên cứu này, tác giả sử dụng mô hình Servqual để đo lường sự cảm nhận của 
khách hàng về dịch vụ kiểm toán và sự mong đợi của khách hàng khi sử dụng 
dịch vụ kiểm toán. Tác giả đã đưa ra kết luận rằng khi khách hàng hài lòng với 
chất lượng dịch vụ kiểm toán sẽ có xu hướng tiếp tục sử dụng các dịch vụ của 
CTKT (sự trung thành). Ngoài thang đo Servqual, thang đo Servperf cũng được 
sử dụng rộng rãi và được đánh giá là hiệu quả hơn thang đo Servqual. 
Trong phạm vi nghiên cứu của mình, tác giả sẽ nghiên cứu chất lượng 
kiểm toán như một loại hình dịch vụ giữa hai bên: người bán (các CTKT) và 
người mua (các DN sử dụng dịch vụ kiểm toán). Đê đo lường sự hài lòng về 
chất lượng dịch vụ kiểm toán, tác giả sẽ sử dụng thang đo Servperf. 
Mối quan hệ giữa lợi ích - chi phí từ dịch vụ kiểm toán và sự trung thành 
Phí kiểm toán báo cáo tài chính, là loại phí mà DN sử dụng dịch vụ kiểm 
toán trả cho CTKT. Theo nghiên cứu của McMeeking và cộng sự (2005), Oxera 
(2006), Numan và Wellekens (2012), về cơ bản, phí kiểm toán được các CTKT 
đưa ra dựa theo các yếu tố sau: quy mô khách hàng, sự phức tạp của công tác 
kiểm toán, và rủi ro kiểm toán. Lý thuyết về lợi ích - chi phítừ dịch vụ kiểm 
toán chỉ ra tầm quan trọng của các dịch vụ gia tăng trong quá trình kiểm toán 
báo cáo tài chính. Theo Beattie và cộng sự (2000), báo cáo kiểm toán bản thân 
không tạo ra giá trị cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp chỉ ghi nhận giá trị gia 
tăng từ dịch vụ kiểm toán báo cáo tài chính. Các giá trị gia tăng này bao gồm 
nâng cao hiệu quả quản lý cho doanh nghiệp, tạo niềm tin cho đối tác và các 
nhà đầu tư, dễ dàng hơn trong việc tiếp cận các nguồn vốn vay, giảm chi phí 
tài chính, từ đó doanh nghiệp có thể nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất 
kinh doanh. 
Đã có rất nhiều các nghiên cứu thực chứng về tác động của phí kiểm toán 
báo cáo tài chính đến sự trung thành của khách hàng. Tuy nhiên các nghiên cứu 
đã đưa ra các kết quả khác nhau: 
8
Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng phí kiểm toán là nguyên nhân chính so với 
các yếu tố khác dẫn đến sự thay đổi CTKT. Kittsteiner và Selvaggi (2008) và 
Stefaniak và cộng sự (2009) thực hiện tại Anh và Mỹ để đánh giá tác động của 
các nhân tố đến sự thay đổi CTKT, và đưa ra kết luận rằng mức phí kiểm toán 
và sự thay đổi của phí kiểm toán là yếu tố quan trọng nhất, tiếp sau đó là nhân 
tố mối quan hệ giữa khách hàng và CTKT. Nghiên cứu của Brazel và Bradford 
(2011) sau này tại Mỹ cũng cho rằng phí kiểm toán và sự hài lòng về chất lượng 
dịch vụ là những yếu tố quan trọng nhất tác động đến việc tiếp tục sử dụng hay 
thay đổi CTKT. 
Tuy nhiên, nghiên cứu của Fontaine và Letaifa (2012) tại Canada lại 
chứng minh rằng khi doanh nghiệp trả phí cho dịch vụ kiểm toán báo cáo tài 
chính thì họ mong đợi CTKT mang lại các lợi ích khác cho doanh nghiệp, ví dụ 
như nâng cao hiệu quả quản lý và cải thiện kết quả hoạt động kinh doanh cho 
doanh nghiệp. Hay nói một cách khác, khách hàng coi trọng lợi ích thu được từ 
chi phí cho dịch vụ kiểm toán báo cáo tài chính. 
Trong nghiên cứu này, tác giả sẽ đánh giá tác động từ sự cảm nhận của 
DN về lợi ích - chi phítừ dịch vụ kiểm toán BCTC đến sự trung thành của DN 
đối với các CTKT tại Việt Nam 
Mối quan hệ giữa khả năng tiếp cận dịch vụ kiểm toán và sự trung thành 
Khả năng tiếp cận là việc đánh giá các yếu tố tác động đến mức độ có thể 
xảy ra một hiện tượng. Theo Curuana (2002), Rehual và cộng sự (2013) có mối 
quan hệ chặt chẽ giữa khả năng tiếp cận với sự hài lòng hay cảm nhận về dịch 
vụ. Khả năng tiếp cận chịu sự tác động của việc thuận tiện trong việc tiếp cận, 
gặp gỡ và trao đổi, sự tác động của phương tiện truyền thông đến hình ảnh của 
chủ thể cung cấp dịch vụ, và cách thức tiếp cận từ nhà cung cấp dịch vụ tới đối 
tượng sử dụng dịch vụ. 
Nhiều nghiên cứu đánh giá khả năng tiếp cận dịch vụ với sự trung thành 
của khách hàng đối với các công ty cung cấp dịch vụ trong các lĩnh vực khác 
nhau. Ví dụ như trong lĩnh vực bán lẻ, du lịch, vận chuyển, ngân hàng, và các 
dịch vụ xã hội dành cho người dân. Trong lĩnh vực dịch vụ kiểm toán, khả năng 
tiếp cận dịch vụ được nghiên cứu dưới các góc độ khác nhau. Ví dụ như, trong 
nghiên cứu của Rehual và cộng sự (2013) được thực hiện tại Bỉ, thì khả năng 
tiếp cận là khả năng mà khách hàng có thể liên hệ được với kiểm toán viên hay 
9
mối quan hệ giúp đỡ nhau giữa khách hàng và CTKT. Hay nghiên cứu của 
Cameran và cộng sự (2010) đã chỉ sự ảnh hưởng của thông tin và hình ảnh về 
CTKT tới việc sử dụng các dịch vụ kiểm toán từ khách hàng. 
Mối quan hệ giữa DN-CTKT và sự trung thành 
Peter Ohman và cộng sự (2012) cho rằng mối quan hệ giữa khách hàng và 
CTKT bao gồm hai mối quan hệ: Thứ nhất là quan hệ giữa khách hàng và 
người kí báo cáo kiểm toán (signing auditor); Thứ hai là giữa khách hàng và 
đội kiểm toán (audit team). Về mối quan hệ giữa khách hàng và người ký báo 
cáo, việc duy trì mối quan hệ liên tục là rất quan trọng để có thể giải quyết các 
vấn đề phát sinh. Mối quan hệ ổn định cũng sẽ giúp ích cho cả hai bên trong 
quá trình đàm phán, thương lượng và các các xung đột trong toàn bộ quá trình 
kiểm toán. Về mối quan hệ giữa khách hàng và đội kiểm toán, thì mối quan hệ 
này đòi hỏi sự phức tạp hơn vì số lượng các kiểm toán viên tham gia vào cuộc 
kiểm toán, và tiếp xúc hàng ngày với khách hàng. Trong nghiên cứu của 
Fontaine và Letaifa (2012) tại Canada với phương pháp phỏng vấn sâu và 
nghiên cứu của Magri và Baldacchino (2004) bằng phương pháp điều tra tại 
Malta đã chứng minh rằng việc duy trì mối quan hệ tốt giữa hai bên sẽ giúp các 
doanh nghiệp trung thành với các CTKT. Những nghiên cứu này khám phá ra 
rằng nếu bỏ qua mối quan hệ giữa khách hàng và CTKT thì phí kiểm toán sẽ 
đóng vai trò rất quan trọng trong việc tiếp tục sử các dịch vụ của CTKT. Tuy 
nhiên, khi đưa vào yếu tố mối quan hệ thì tác giả kết luận rằng mối quan hệ 
giữa hai bên quan trọng hơn phí kiểm toán trong việc tiếp tục sử dụng các dịch 
vụ của CTKT. Theo các nghiên cứu này mối quan hệ tốt giữa CTKT và khách 
hàng sẽ làm cho công việc tiến triển thuận lợi, giải quyết các vấn đề gặp phải 
theo hướng tích cực và tạo ra các giá trị gia tăng cho khách hàng. Tuy nhiên, 
nhiều nghiên cứu cũng chỉ ra rằng mối quan hệ “thân thiết” giữa hai bên sẽ ảnh 
hưởng tới chất lượng của báo cáo kiểm toán. Do đó, các CTKT và DN cũng chỉ 
muốn duy trì mối quan hệ giữa hai bên ở mức “vừa phải”. 
Một số nghiên cứu tại Việt Nam 
Tại Việt Nam đã có một vài nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến việc 
DN tiếp tục sử dụng hay lựa chọn CTKT. Các nhân tố được đề cập bao gồm: 
 Chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính 
 Các nhân tố tác động đến chất lượng kiểm toán BCTC 
10
 Phí kiểm toán 
 Mối quan hệ giữa doanh nghiệp và CTKT 
 Hệ thống kiểm soát nội bộ 
 Tuy nhiên, các nghiên cứu trong nước về sự trung thành hay tiếp tục 
sử dụng dịch vụ kiểm toán của các CTNY đối với các CTKT độc lập tại Việt 
Nam còn hạn chế. Sự hạn chế này là nhìn nhận các yếu tố tác động dưới góc độ 
đơn lẻ và chưa được kiểm định bằng nghiên cứu thực chứng. 
Tóm lại, từ nghiên cứu tổng quan, kết hợp với phỏng vấn chuyên gia tác 
giả xác định bốn nhân tố tác động đến sự trung thành của các CTNY đối với các 
CTKT tại Việt Nam, bao gồm: chất lượng dịch vụ kiểm toán BCTC, lợi ích - 
chi phítừ kiểm toán BCTC, khả năng tiếp cận dịch vụ kiểm toán BCTC và mối 
quan hệ giữa CTNY với CTKT. Thang đo đánh giá cảm nhận của DN đối với 
bốn nhân tố vừa đề cập mang tính kế thừa từ các nghiên cứu trước và dựa vào ý 
kiến đóng góp của các chuyên gia trong quá trình phỏng vấn tại Việt Nam. Cụ 
thể như sau: 
 Nhân tố chất lượng dịch vụ được được đo bằng thang đo Servperf có 
điều chỉnh (do thang đo Servperf được đánh giá hiệu quả hơn thang đo 
Servqual). 
 Nhân tố lợi ích - chi phí được đo bằng nhận thức của DN về lợi ích 
thu được từ dịch vụ kiểm toán BCTC. 
 Nhân tố khả năng tiếp cận dịch vụ được đo bằng nhận thức của DN về 
khả năng thu thập thông tin và gặp gỡ trao đổi với CTKT. 
 Nhân tố mối quan hệ giữa DN và CTKT được đo lường bằng nhận thức 
của DN với hai mối quan hệ: đoàn kiểm toán và người ký báo cáo kiểm toán. 
11
CHƯƠNG 3 
CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ TRUNG THÀNH CỦA CÁC 
CTNY ĐỐI VỚI CÁC CÔNG TY KIỂM TOÁN 
TẠI VIỆT NAM 
Sự phát triển và lớn mạnh của các CTKT nhóm Big 4 
 Các CTKT có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam hay còn gọi là Big 4 
bao gồm Deloitte, EY, KPMG và PwC chia nhau nắm giữ thị phần quan trọng 
trong lĩnh vực kiểm toán tại Việt Nam. Dựa trên thông tin của các công ty niêm 
yết trên sàn chứng khoán Việt Nam, hơn 70% CTNY lựa chọn hay tiếp tục sử 
dụng các dịch vụ kiểm toán của nhóm Big Four. Những yếu tố tác động đến sự 
lựa chọn Big 4 của các CTNY bao gồm: kiểm toán viên trong nhóm Big 4 có 
tính tuân thủ chuẩn mực nghề nghiệp cao, quy trình kiểm toán được kiểm soát 
chặt chẽ, và tư vấn về quản trị DN tốt. Thêm nữa, nhóm Big 4 được khách hàng 
đánh giá là các đơn vị có uy tín, chất lượng kiểm toán tốt, tăng khả năng minh 
bạch của BCTC, và tạo dựn