Tóm tắt Luận án Nghiên cứu ảnh hưởng tính thanh khoản đến hiệu quả hoạt động của các Công ty niêm yết tại sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh

Hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp luôn được các nhà quản trị và nhà đầu tư quan tâm. Có nhiều nhóm nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, trong đó tính thanh khoản có ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp không? đo lường, đánh giá mức độ ảnh hưởng như thế nào? Mặc dù có một số nghiên cứu đã được thực hiện, nhưng đến nay tính thanh khoản ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp ở các nước khác nhau là khác nhau. Vậy ở Việt Nam ảnh hưởng của tính thanh khoản đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp như thế nào? Để giúp nhà quản trị trong quản lý điều hành doanh nghiệp đạt hiệu quả tốt, giúp nhà đầu tư thấu hiểu một phần về doanh nghiệp, tác giả chọn đề tài “Nghiên cứu ảnh hƣởng tính thanh khoản đến hiệu quả hoạt động của các Công ty phi tài chính, niêm yết tại sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh” để nghiên cứu.

pdf26 trang | Chia sẻ: thientruc20 | Lượt xem: 429 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Nghiên cứu ảnh hưởng tính thanh khoản đến hiệu quả hoạt động của các Công ty niêm yết tại sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ PHAN ĐỨC CHUNG NGHIÊN CỨU ẢNH HƢỞNG TÍNH THANH KHOẢN ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CÔNG TY NIÊM YẾT TẠI SỞ GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN TRỊ KINH DOANH Mã số: 60.34.01.02 Đà Nẵng - 2018 Công trình được hoàn thành tại TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ, ĐHĐN Ngƣời hƣớng dẫn KH: PGS.TS. TRƢƠNG HỒNG TRÌNH Phản biện 1: TS. LÊ THỊ MINH HẰNG Phản biện 2: PGS.TS. BÙI DŨNG THỂ Luận văn đã được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ Quản trị Kinh doanh họp tại Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng vào ngày 18 tháng 8 năm 2018 Có thể tìm hiểu luận văn tại: - Trung tâm Thông tin - Học liệu, Đại học Đà Nẵng - Thư viện trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp luôn được các nhà quản trị và nhà đầu tư quan tâm. Có nhiều nhóm nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, trong đó tính thanh khoản có ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp không? đo lường, đánh giá mức độ ảnh hưởng như thế nào? Mặc dù có một số nghiên cứu đã được thực hiện, nhưng đến nay tính thanh khoản ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp ở các nước khác nhau là khác nhau. Vậy ở Việt Nam ảnh hưởng của tính thanh khoản đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp như thế nào? Để giúp nhà quản trị trong quản lý điều hành doanh nghiệp đạt hiệu quả tốt, giúp nhà đầu tư thấu hiểu một phần về doanh nghiệp, tác giả chọn đề tài “Nghiên cứu ảnh hƣởng tính thanh khoản đến hiệu quả hoạt động của các Công ty phi tài chính, niêm yết tại sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh” để nghiên cứu. 2. Mục đích nghiên cứu Đề tài nghiên cứu ảnh hưởng các yếu tố thanh khoản đến hiệu quả hoạt động của các Công ty phi tài chính, niêm yết tại sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tƣợng nghiên cứu: Tính thanh khoản ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các Công ty phi tài chính, niêm yết tại sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh. - Phạm vi nghiên cứu: + Giới hạn không gian: Dữ liệu nghiên cứu với 228 Công ty Cổ phần phi tài chính niêm yết tại Hose. 2 + Giới hạn thời gian: Giai đoạn 5 năm từ 2013 – 2017. 4. Mô hình và phƣơng pháp nghiên cứu Mô hình nghiên cứu: Nghiên cứu này sử dụng mô hình Nghiên cứu mô tả. Với ưu điểm chính của nghiên cứu mô tả là nó sử dụng dữ liệu định tính và định lượng để phân tích, đo lường, giúp mô tả và đánh giá mối quan hệ tác động của một hoặc nhiều biến độc lập đến biến phụ thuộc được chọn. Từ đó đưa ra giải đáp cho các mục đích nghiên cứu và hàm ý chính sách. * Phƣơng pháp ƣớc lƣợng định tính: Phương pháp định tính được sử dụng để lựa chọn các biến trong nghiên cứu. Biến phụ thuộc đƣợc chọn là hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, thông qua các chỉ tiêu tài chính là tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên tài sản (ROA), tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu ROE; Các biến độc lập đƣợc chọn là tính thanh khoản thông qua các chỉ số là tỷ lệ nắm giữ tiền mặt (CASH), tỷ lệ thanh toán hiện hành (CR - Current ratio), tỷ lệ khả năng dòng tiền thanh toán (OCFR - Operating Cash Flow Ratio). * Phƣơng pháp nghiên cứu định lƣợng: Nghiên cứu định lượng được sử dụng là phương pháp hồi quy tuyến tính bội đa biến giữa biến phụ thuộc và các biến độc lập được chọn theo ước lượng phương sai bình phương nhỏ nhất. Các mô hình hồi quy OLS, mô hình tác động cố định FEM (Fixed Effect Model), mô hình tác động ngẫu nhiên REM (Random Effect Model). Sử dụng phần mềm Eviews để tiến hành phân tích định lượng, kiểm tra lựa chọn mô hình phù hợp, kiểm định và khắc phục khuyết tật của mô hình và tiến hành hồi quy. Dữ liệu dạng bảng (panel data) được thiết lập để áp dụng. Tiến hành phân tích, đo lường, đánh giá, mô tả xem 3 liệu các biến độc lập có tác động lên biến phụ thuộc không? Tác động thuận, nghịch, mạnh yếu như thế nào? 5. Bố cục đề tài: Chương 1: Cơ sở lý thuyết Chương 2: Thiết kế nghiên cứu Chương 3: Kết quả nghiên cứu Chương 4: Hàm ý chính sách 6. Một số nghiên cứu thực nghiệm trƣớc đây 6.1 Nghiên cứu quốc tế Nghiên cứu của Raheman và Mohamed (2007) [34] đã tiến hành phân tích tác động của quản lý vốn lưu động đến hoạt động của công ty tại Pakistan. Kết quả của nghiên cứu xác định rằng chu kỳ chuyển đổi tiền mặt, vòng quay hàng tồn kho có tác động đáng kể đến hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp. Sharma và Kumar (2011) [37] tiến hành xác định hiệu quả của việc quản lý vốn lưu động đối với lợi nhuận của các công ty Ấn Độ, sử dụng mẫu gồm 263 công ty phi tài chính được niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán Bombay, từ năm 2002 - 2008. Nghiên cứu tìm thấy một mối quan hệ tích cực giữa quản lý vốn lưu động đến lợi nhuận công ty và chu kỳ chuyển đổi tiền tệ không có ý nghĩa thống kê đối với ROA. Nghiên cứu cũng cho thấy rằng các khoản phải thu có tác động tích cực đến ROA, các khoản phải trả có ý nghĩa tiêu cực với ROA. Vahid, Mohsen và Mohammadreza (2012) [26] đã điều tra tác động của chính sách quản lý vốn lưu động đến khả năng sinh lợi của các doanh nghiệp và giá trị của các công ty niêm yết tại Sở Giao dịch Chứng khoán Tehran. Nghiên cứu sử dụng dữ liệu bảng và chính sách quản lý vốn hoạt động thụ động. Kết quả của nghiên cứu thấy 4 rằng áp dụng một chính sách quản lý vốn lưu động theo chiều hướng thụ động có ảnh hưởng tiêu cực đến lợi nhuận và giá trị của công ty. Bhunia và Das (2012) [39] đã tiến hành nghiên cứu để kiểm tra mối quan hệ giữa cơ cấu nguồn vốn và khả năng sinh lời của các công ty tư nhân Ấn Độ. Các biến độc lập được sử dụng trong nghiên cứu này là tỷ lệ thanh toán hiện hành, tỷ lệ thanh toán nhanh, tỷ lệ tiền mặt, tỷ lệ nợ /vốn chủ sở hữu, tỷ lệ lãi suất, tỷ lệ doanh thu hàng tồn kho, chu kỳ vốn lưu động. Lợi tức trên vốn ROE đã được sử dụng làm thước đo cho lợi nhuận. Sử dụng phân tích nhiều hồi quy, nghiên cứu đã tìm thấy một mối quan hệ yếu giữa tất cả các cấu trúc quản lý vốn lưu động và lợi nhuận. Nhóm tác giả Ogundipe S.E, Idowu và Ogundipe L.O (2012) [38] đã tiến hành nghiên cứu để kiểm tra tác động quản lý vốn lưu động đối với hiệu quả hoạt động và giá trị thị trường của các công ty. Các nghiên cứu đã sử dụng Tobin’ Q, ROA, EBIT và ROI như là các biến phụ thuộc, các biến độc lập là chu kỳ chuyển đổi tiền mặt; Tỉ lệ thanh toán hiện tại; tài sản ngắn hạn/tổng tài sản; nợ ngắn hạn/ tổng tài sản; và tỷ lệ nợ / tài sản. Kết quả nghiên cứu xác định rằng có mối quan hệ tiêu cực đáng kể tồn tại giữa chu kỳ chuyển đổi tiền tệ và định giá thị trường và kết quả hoạt động của một công ty. Ehiedu (2014) [40] đã tiến hành một nghiên cứu về tác động của thanh khoản đến khả năng sinh lời của một số Công ty được lựa chọn ở Nigeria. Kết quả cho biết có đến 50% các công ty được phân tích cho thấy một mối tương quan dương đáng kể giữa tỷ lệ thanh toán hiện tại và khả năng sinh lời tiếp cận theo tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên tổng tài sản ROA. 2.4.2 Nghiên cứu trong nƣớc Nghiên cứu của Đoàn Ngọc Phi Anh (2010) [3] với 428 doanh 5 nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam từ 2007- 2009. Nghiên cứu này đã xác định các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc tài chính và hiệu quả tài chính của doanh nghiệp thông qua cách tiếp cận phân tích đường dẫn. Kết quả nghiên cứu cho thấy đối với hiệu quả tài chính, tỉ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) trung bình của các doanh nghiệp là 7,63% và chỉ tiêu này cũng có sự biến động khá lớn giữa các doanh nghiệp. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng cả Hiệu quả hoạt động kinh doanh và Cấu trúc tài chính có tác động cùng chiều đến ROE và hai nhân tố này giải thích được 90% sự biến động của ROE. Nghiên cứu của Huỳnh Phƣơng Đông (2010) [4] đã nghiên cứu với mẫu là 131 công ty phi tài chính niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn 2006-2008. Nghiên cứu này tìm ra mối quan hệ mạnh ngược chiều giữa khả năng sinh lời và chu kỳ chuyển đổi tiền mặt; nó có nghĩa là chu kỳ chuyển đổi tiền mặt càng dài thì lợi nhuận công ty thu được càng thấp. Kết quả cũng tìm thấy mối quan hệ nghịch giữa chu kỳ chuyển đổi tiền trung bình, doanh thu hàng tồn kho và lợi nhuận. Ngoài ra, nghiên cứu này cũng cho thấy rằng các doanh nghiệp có khả năng sinh lợi cao có xu hướng trì hoãn thời gian trả nợ. Trong nghiên cứu của Chu Thị Thu Thủy và cộng sự (2015) [7], Nghiên cứu sử dụng số liệu của 230 công ty cổ phần phi tài chính niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh (HOSE) giai đoạn năm 2011-2013. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng hiệu quả tài chính (ROA) của các công ty bị ảnh hưởng đáng kể bởi tỷ lệ vốn nhà nước, đòn bẩy tài chính, năng lực quản lý, quy mô công ty, khả năng thanh toán hiện hành và chu kỳ sản xuất kinh doanh của công ty. Nghiên cứu chỉ ra rằng khả năng thanh toán hiện 6 hành và chu kỳ sản xuất kinh doanh của công ty tác tiêu cực (-) đến hiệu quả tài chính qua ROA và ROE. Nghiên cứu của Trần Tiến Dũng (2017) [8] về một số nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của Doanh nghiệp bất động sản, với biến phụ thuộc là lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE). Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng biến CR: Tỷ số thanh toán ngắn hạn tác động ngược chiều (-) đến hiệu quả kinh doanh và có ý nghĩa thống kê ở mức 5%. 7 CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ THUYẾT 1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM VỀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG VÀ TÍNH THANH KHOẢN Hiệu quả hoạt động của các công ty luôn là chủ đề đã thu hút rất nhiều sự quan tâm từ các chuyên gia tài chính, các nhà nghiên cứu, các cổ đông đến các nhà quản trị doanh nghiệp. 1.1.1. Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Theo quan điểm của nhà kinh tế học người Anh, Adam Smith (1723-1790) [10], cho rằng: “Hiệu quả - Kết quả đạt được trong hoạt động kinh tế, là doanh thu tiêu thụ hàng hóa”. Với cách tiếp cận này, việc xác định hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp thuần túy dựa vào có tiêu thụ được sản phẩm hay không. Quan điểm này chưa phân định rõ hiệu quả và kết quả kinh doanh khi chưa tính đến yếu tố chi phí để đạt được kết quả kinh doanh đó. Theo Iswatia & Anshoria (2007) [13] hiệu quả hoạt động của một tổ chức đạt được thông qua việc quản lý các nguồn lực bằng một số cách thức khác nhau để phát triển lợi thế cạnh tranh. Theo Paul A Samuemlson (1915-2009) [14] viết trong cuốn Kinh tế học chỉ ra: “Hiệu quả tức là sử dụng một cách hữu hiệu nhất các nguồn lực của nền kinh tế để thỏa mãn nhu cầu, mong muốn của con người”. Theo cách tiếp cận này, đã chỉ rõ được hai đặc tính của phạm trù hiệu quả đó là sử dụng tối ưu các nguồn lực và mục đích của hoạt động. Tuy nhiên, cách tiếp cận này chưa đưa đến cách thức xác định hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nói riêng. Tác giả Nguyễn Văn Tạo [2] cho rằng, “Hiệu quả hoạt động kinh doanh không chỉ là sự so sánh giữa chi phí đầu vào và kết quả nhận được ở đầu ra; hiệu quả hoạt động kinh doanh được hiểu trước 8 tiên là việc hoàn thành mục tiêu, nếu không hoàn thành mục tiêu thì không thể có hiệu quả và để hoàn thành mục tiêu ta phải sử dụng nguồn lực như thế nào”. Như vậy, theo quan điểm này thì hiệu quả được gắn với một mục tiêu nhất định và việc sử dụng nguồn lực một cách phù hợp nhất. Tác giả Trần Thị Thu Phong (2013) [5] “Biểu hiện cao nhất, tập trung nhấp của hiệu quả kinh doanh là khả năng sinh lời, việc phân tích hiệu quả kinh doanh phải tập trung phân tích khả năng sinh lời của các nguồn lực sử dụng cho hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, khả năng sinh lời chỉ có thể đạt được khi doanh nghiệp có năng lực hoạt động tốt, thể hiện thông qua việc quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của doanh nghiệp. Chính vì vậy, để đánh giá được đầy đủ hiệu quả kinh doanh theo đó sẽ bao gồm phân tích 2 nội dung là phân tích hiệu quả hoạt động và phân tích khả năng sinh lời”. Tác giả Đoàn Thục Quyên (2015) [6] cho rằng: “Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp là phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ giữa kết quả kinh doanh mà doanh nghiệp thu được với chi phí hoặc nguồn lực bỏ ra để đạt được kết quả đó. Hiệu quả kinh doanh được xác định bằng các chỉ tiêu kinh tế đặc trưng, phản ánh mối quan hệ tỷ lệ so sánh giữa chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh đạt được với các chỉ tiêu phản ánh chi phí hoặc nguồn lực đã sử dụng vào sản xuất kinh doanh nhằm đạt được mục tiêu của doanh nghiệp”. Như vậy có nhiều quan điểm về phạm trù hiệu quả hoạt động và cách thức xác định hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Tác giả đồng thuận với cách tiếp cận của các tác giả Nguyễn Văn Tạo [2], Trần Thị Thu Phong [5], Đoàn Thục Quyên [6]. Trong phạm vi nghiên cứu này, khái niệm hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp được hiểu là phạm trù kinh tế phản ánh mối quan 9 hệ giữa hiệu quả kinh doanh mà doanh nghiệp thu được là cao nhất với chi phí và các nguồn lực bỏ ra nhỏ nhất để đạt được kết quả kinh doanh mang lại hiệu quả đó, đã tính đến các rủi ro liên quan trong tầm kiểm soát của doanh nghiệp. 1.1.2. Đo lƣờng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp thường được đo lường bằng các thông số chỉ tiêu tài chính sau: a. Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên doanh thu ROS (Return on sales) Chỉ tiêu này cho biết với một đồng doanh thu thuần từ bán hàng và cung cấp dịch vụ sẽ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Chỉ số này chính là biên lợi nhuận thuần (Profit Margin), thường được dùng để so sánh giữa các công ty cùng nghành với tỷ số bình quân của toàn ngành tương ứng. Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên doanh thu (ROS) = Lợi nhuận sau thuế trong kỳ (lợi nhuận ròng) / Doanh thu trong kỳ. Trong đó: Lợi nhuận ròng = Doanh thu thuần - Giá vốn hàng bán - Chi phí quản lý, chi phí bán hàng - Thuế TNDN phải nộp. b. Tỷ suất thu nhập trên vốn sử dụng ROCE (Return On Capital Employed) Tỷ suất thu nhập trên vốn sử dụng là chỉ số thể hiện khả năng thu lợi nhuận của một doanh nghiệp dựa trên lượng vốn đã sử dụng. Tỷ suất thu nhập trên vốn sử dụng (ROCE) = Lợi nhuận trước thuế và lãi vay (EBIT) / Vốn sử dụng trong kỳ. Trong đó: Vốn sử dụng = Tổng tài sản – Nợ ngắn hạn ROCE được sử dụng để đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Để tạo ra mức thu nhập cao, công ty phải huy động vốn theo cách ít tốn kém nhất. Tuy nhiên, ROCE cũng có thể phản ánh không chính xác hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp có lượng tiền dự 10 trữ lớn. Lượng tiền này được tính là một phần của số vốn mà doanh nghiệp sử dụng thậm chí ngay cả khi nó chưa được dùng tới. c. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu ROE (Return on Equity) Tỷ suất này đo lường mức lợi nhuận sau thuế thu được trên mỗi đồng vốn của chủ sở hữu trong kỳ. Đây là một chỉ số được sử dụng rất phổ biến bởi tính đơn giản, dễ hiểu và dễ so sánh giữa các doanh nghiệp cùng ngành nghề với quy mô khác nhau, giữa các doanh nghiệp ở các ngành nghề khác nhau. Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu (ROE) = Lợi nhuận sau thuế trong kỳ/ Vốn chủ sở hữu bình quân trong kỳ. d. Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên tổng tài sản ROA (Return on Assets) Tỷ suất này còn được gọi là tỷ suất sinh lời ròng của tài sản (ROA). Nó phản ánh mỗi đồng vốn sử dụng trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên tài sản (ROA) = Lợi nhuận sau thuế trong kỳ/ Tổng tài sản bình quân. Chỉ số ROA có tính đến tổng số lượng tài sản được sử dụng để tài trợ các hoạt động kinh doanh. Chỉ số này xác định công ty có thể tạo ra một tỷ suất lợi nhuận ròng như thế nào trên tổng tài sản bình quân. Qua các tỷ suất lợi nhuận được liệt kê trên, tác giả chọn chỉ tiêu ROA và ROE để đo lường hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp cho phạm vi nghiên cứu này. 1.1.3. Thanh khoản và đo lƣờng tính thanh khoản của doanh nghiệp Theo Begg, Fisher và Rudiger (1991) [9] tính thanh khoản đề cập đến tốc độ và sự chắc chắn mà một tài sản có thể được chuyển 11 đổi trở lại thành tiền bất cứ khi nào chủ sở hữu tài sản muốn. Tiền mặt là tài sản thanh khoản nhất. Công ty có tính thanh khoản cao là công ty lưu giữ đủ tài sản và tiền mặt thanh khoản cùng với khả năng huy động vốn nhanh từ các nguồn khác để đáp ứng được nghĩa vụ thanh toán và cam kết tài chính một cách kịp thời. Theo Kesimli & Gunay (2011) [20] Thanh khoản là khoản đầu tư vào tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn, thanh lý trong vòng một năm hoặc ít hơn và rất cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh hàng ngày của công ty. Các chỉ tiêu tài chính thường được sử dụng để đo lường tính thanh khoản bao gồm: Tỷ lệ nắm giữ tiền mặt (CASH); Tỷ lệ thanh toán hiện hành (Current Ratio); Tỷ lệ thanh toán nhanh (Quick Ratio); Tỷ lệ khả năng dòng tiền thanh toán OCFR (Operating Cash Flow Ratio). a. Tỷ lệ nắm giữ tiền mặt (CASH): Theo Myers và Majluf (1984) [11], chỉ tiêu nắm giữ tiền mặt là chỉ số thể hiện khả năng thanh khoản cao nhất vì tiền và các khoản tương đương tiền là các loại tài sản có tính thanh toán cao và nhanh nhất của một doanh nghiệp. CASH = Tiền + các khoản tương đương tiền / Nợ ngắn hạn. b. Tỷ lệ thanh toán nhanh QR (Quick Ratio) Chỉ số này bao gồm các tài sản có tính thanh khoản cao như tiền, hoặc các khoản tiền có thể huy động trong thời gian ngắn. Khả năng thanh toán nhanh không tính đến hàng tồn kho do hàng tồn kho nếu muốn dùng để thanh toán cần có thời gian để thanh lý. Tỷ lệ thanh toán nhanh QR = Tiền + tương đương tiền +Phải thu ngắn hạn/ Nợ ngắn hạn. 12 c. Tỷ lệ thanh toán hiện hành CR (Current Ratio) Chỉ số phản ánh khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp. Chỉ số càng lớn, khả năng thanh toán càng cao. Tỷ lệ thanh toán hiện hành CR = Tài sản ngắn hạn/ Nợ ngắn hạn. d.Tỷ lệ khả năng dòng tiền thanh toán OCFR (Operating Cash Flow Ratio) OCFR là tỷ lệ giữa lượng tiền được tạo ra từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và nợ ngắn hạn. Đây là chỉ số có thể đo lường các khả năng thanh toán bằng tiền của doanh nghiệp trong ngắn hạn. Tỷ lệ khả năng dòng tiền thanh toán OCFR = (EBIT + Khấu hao - Thuế)/ Nợ ngắn hạn. Trong đó: EBIT = Lợi nhuận trước thuế và lãi vay. 1.2. TỔNG QUÁT MỘT SỐ CƠ SỞ LÝ THUYẾT CƠ BẢN 1.2.1 Lý thuyết vay thƣơng mại Lý thuyết này được phát triển bởi Adam Smith [10] ở Anh trong thế kỷ 18 (1723 - 1790). Adam Smith đã trình bày lịch sử ra đời của tiền tệ thông qua sự phát triển của lịch sử trao đổi, từ súc vật làm ngang giá đến kim loại vàng, ông đã nhìn thấy sự phát triển của các hình thái giá trị. Ông đã chỉ ra bản chất của tiền là hàng hoá đặc biệt có chức năng đặc biệt là chức năng phương tiện lưu thông. Theo lý thuyết này, một ngân hàng thương mại nên cung cấp các khoản vay ngắn hạn để đáp ứng yêu cầu về vốn và hạn chế cho vay dài hạn. Tuy nhiên, đã có một số chỉ trích như: Lý thuyết cho vay thương mại chưa phản ánh đầy đủ ngân hàng có thể đảm bảo tính thanh khoản của tài sản thế chấp có thể dễ dàng chuyển đổi thành tiền mặt mà không bị mất mát. 1.2.2 Lý thuyết thanh khoản Lý thuyết này bắt nguồn từ Morton (1939) [28] "Liquidity 13 and Solvency". Theo lý thuyết này, thanh khoản không phải là vấn đề mà sự chuyển đổi tài sản không có thiệt hại vật chất mới là vấn đề. Morton khẳng định, "để đạt được mức dự trữ tối thiểu, không phải dựa vào hóa đơn thu nợ duy trì số lượng tài sản có thể chuyển sang các ngân hàng khác khi cần thiết. Nó phải có thuộc tính có thể chuyển nhượng ngay cho người khác mà không mất mát. Trong trường hợp khủng hoảng thanh khoản chung, ngân hàng nên duy trì tính thanh khoản bằng cách sở hữu tài sản có thể được chuyển sang Ngân hàng Trung ương ". Tuy nhiên, đã có một số chỉ trích như: Trong giai đoạn khủng hoảng, các cổ phiếu và trái phiếu của các công ty có uy tín tốt cũng không thu hút được người mua, chi phí chuyển dịch tài sả
Luận văn liên quan