CBTT nói chung cũng như CBTT trong báo cáo tài chính
(BCTC) nói riêng của các doanh nghiệp (DN) niêm yết là một chủ đề
từ lâu đã được các nhà nghiên cứu và học thuật trên thế giới quan
tâm. Ở Việt Nam, trong thời gian qua, chủ đề về CBTT đã và đang
dành được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu (như [9], [11]).
Các nghiên cứu này chủ yếu tập trung đánh giá thực trạng CBTT của
DN niêm yết trên TTCK và kiểm chứng ảnh hưởng của nhân tố
thuộc về đặc điểm tài chính của DN đến mức độ CBTT, nhưng hầu
như lại chưa chú ý nhiều đến việc khảo sát mức độ ảnh hưởng của
một số nhân tố thuộc về quản trị DN. Một điểm đáng lưu ý nữa,
trong thời gian gần đây đã có một số nghiên cứu tiến hành khảo sát
mức độ CBTT và các nhân tố ảnh hưởng của các DN niêm yết trên
TTCK Việt Nam thuộc một ngành nhất định. Mặc dù vậy, đế nay
vẫn chưa có tác giả nào nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến
mức độ CBTT trong BCTC của các DN ngành hàng tiêu dùng.
Trong khi đó, ngành hàng tiêu dùng là một trong số ít những
ngành có kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh khá ổn định và tăng
trưởng vững chắc bất chấp sự chao đảo của nền kinh tế trong những
năm gần đây [13]. Ngoài ra, ngành hàng tiêu dùng lại là một trong
những ngành có số lượng DN niêm yết trên TTCK khá nhiều. Do đó,
việc nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT trong
BCTC của các DN ngành này có ý nghĩa không những đối với các
nhà đầu tư mà còn đối với cơ quan quản lý nhà nước.
Xuất phát từ thực tiễn trên, tác giả đã chọn đề tài “Nghiên
cứu các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin trong
báo cáo tài chính của các doanh nghiệp ngành hàng tiêu dùng2
niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam” để thực hiện luận
văn tốt nghiệp này.
26 trang |
Chia sẻ: thientruc20 | Lượt xem: 397 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin trong BCTC ở các doanh nghiệp ngành hàng tiêu dùng niêm yết trên TTCK Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
LÊ THỊ BẢO NGỌC
NGHIÊN CỨU CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN
MỨC ĐỘ CÔNG BỐ THÔNG TIN TRONG BÁO CÁO
TÀI CHÍNH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NGÀNH
HÀNG TIÊU DÙNG NIÊM YẾT TRÊN THỊ TRƢỜNG
CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ KẾ TOÁN
Mã số: 60.34.03.01
Đà Nẵng - 2017
Công trình được hoàn thành tại
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ, ĐHĐN
Ngƣời hƣớng dẫn KH: TS. Nguyễn Hữu Cƣờng
Phản biện 1: PGS. TS. Hoàng Tùng
Phản biện 2: GS. TS. Đặng Thị Loan
Luận văn đã được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận văn tốt
nghiệp Thạc sĩ Kế toán họp tại Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà
Nẵng vào ngày 27 tháng 8 năm 2017
Có thể tìm hiểu luận văn tại:
- Trung tâm Thông tin - Học liệu, Đại học Đà Nẵng
- Thư viện trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
CBTT nói chung cũng như CBTT trong báo cáo tài chính
(BCTC) nói riêng của các doanh nghiệp (DN) niêm yết là một chủ đề
từ lâu đã được các nhà nghiên cứu và học thuật trên thế giới quan
tâm. Ở Việt Nam, trong thời gian qua, chủ đề về CBTT đã và đang
dành được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu (như [9], [11]).
Các nghiên cứu này chủ yếu tập trung đánh giá thực trạng CBTT của
DN niêm yết trên TTCK và kiểm chứng ảnh hưởng của nhân tố
thuộc về đặc điểm tài chính của DN đến mức độ CBTT, nhưng hầu
như lại chưa chú ý nhiều đến việc khảo sát mức độ ảnh hưởng của
một số nhân tố thuộc về quản trị DN. Một điểm đáng lưu ý nữa,
trong thời gian gần đây đã có một số nghiên cứu tiến hành khảo sát
mức độ CBTT và các nhân tố ảnh hưởng của các DN niêm yết trên
TTCK Việt Nam thuộc một ngành nhất định. Mặc dù vậy, đế nay
vẫn chưa có tác giả nào nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến
mức độ CBTT trong BCTC của các DN ngành hàng tiêu dùng.
Trong khi đó, ngành hàng tiêu dùng là một trong số ít những
ngành có kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh khá ổn định và tăng
trưởng vững chắc bất chấp sự chao đảo của nền kinh tế trong những
năm gần đây [13]. Ngoài ra, ngành hàng tiêu dùng lại là một trong
những ngành có số lượng DN niêm yết trên TTCK khá nhiều. Do đó,
việc nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT trong
BCTC của các DN ngành này có ý nghĩa không những đối với các
nhà đầu tư mà còn đối với cơ quan quản lý nhà nước.
Xuất phát từ thực tiễn trên, tác giả đã chọn đề tài “Nghiên
cứu các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin trong
báo cáo tài chính của các doanh nghiệp ngành hàng tiêu dùng
2
niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam” để thực hiện luận
văn tốt nghiệp này.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá thực trạng mức độ CBTT trong BCTC của các DN.
Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT trong BCTC của
các DN ngành hàng tiêu dùng niêm yết trên TTCK Việt Nam. Và đề
xuất một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện và nâng cao chất
lượng thông tin được công bố đối với các DN ngành này.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu về CBTT trong
BCTC và các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT trong BCTC của
các DN ngành hàng tiêu dùng niêm yết trên TTCK Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: Thông tin được công bố trong BCTC
năm 2015 đã được kiểm toán của tất cả các DN ngành hàng tiêu
dùng niêm yết trên TTCK Việt Nam.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Mức độ CBTT được đo lường bởi chỉ số CBTT bao gồm các
chỉ mục thông tin phải (hoặc nên) được quy định trong Thông tư
200/2014/TT-BTC và các chuẩn mực kế toán Việt Nam có liên quan
về CBTT trên BCTC năm.
- Ảnh hưởng của các nhân tố đến mức độ CBTT được kiểm
chứng thông qua phân tích hồi quy bằng mô hình hồi quy.
5. Bố cục đề tài
Luận văn được cấu trúc thành bốn chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về công bố thông tin và các nhân tố
ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin trong báo cáo tài chính của
doanh nghiệp.
3
Chương 2: Thiết kế nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến
mức độ công bố thông tin.
Chương 3: Phân tích kết quả nghiên cứu.
Chương 4: Hàm ý chính sách và kết luận.
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
CBTT của các DN từ lâu đã là một chủ đề nhận được nhiều sự
quan tâm từ các nhà nghiên cứu. Những vấn đề thường được đặt ra
và khảo sát trong các nghiên cứu về CBTT gồm: i) loại thông tin
được công bố và mức độ CBTT của các DN (niêm yết), ii) sự lựa
chọn của các DN trong việc công bố những thông tin có lợi (và
ngược lại là che giấu những thông tin bất lợi), và iii) mức độ hài lòng
(lợi ích) của thông tin được công bố đối với người sử dụng thông tin.
Về vấn đề loại thông tin được công bố, các nghiên cứu về
CBTT khảo sát cả thông tin công bố bắt buộc, thông tin công bố tự
nguyện, hay thông tin công bố tùy ý.
Về vấn đề đánh giá mức độ CBTT, các nghiên cứu trước
thường tiếp cận theo một trong các cách sau. Một là sử dụng lại mức
độ CBTT đã được các tổ chức độc lập đo lường [26]. Hai là dựa vào
thang đo sẵn có đã được áp dụng trong các nghiên cứu trước. Ba là
các nhà nghiên cứu tự xây dựng thang đo. Trong đó, cách tiếp cận
theo hướng là chính các nhà nghiên cứu tự xây dựng thang đo để
đánh giá mức độc CBTT chiếm ưu thế hơn cả [26].
Về vấn đề khảo sát các nhân tố có ảnh hưởng đến mức độ
CBTT, các nghiên cứu trước đã thực hiện việc kiểm chứng với nhiều
nhân tố khác nhau, gồm các nhân tố thuộc về đặc trưng (bên trong)
của DN và các nhân tố khác (bên ngoài DN). Điều đáng chú ý là kết
quả kiểm chứng về sự ảnh hưởng của các nhân tố đến mức độ CBTT
là không hoàn toàn giống nhau ở các nghiên cứu khác nhau [10].
4
Tuy vậy, nhân tố quy mô DN là một trong số những nhân tố được
kiểm chứng gần như trong tất cả các nghiên cứu trước đây [10]. Cụ
thể mối quan hệ cùng chiều giữa mức độ CBTT và quy mô DN được
ghi nhận trong rất nhiều các nghiên cứu trong nước (như [6], [8])
cũng như ngoài nước (như [24], [33], [36]).
Sử ảnh hưởng của khả năng sinh lời cũng được phần lớn các
nghiên cứu trước kiểm chứng nhưng không có kết quả thống nhất.
Trong khi một số nghiên cứu đã tìm thấy mối liên hệ giữa khả năng
sinh lời và mức độ CBTT (như [8], [12], [33]). Những người khác lại
cho rằng mối liên hệ này là không đáng kể (chẳng hạn [11], [31]).
Tỷ suất nợ cũng được xem là một trong những nhân tố bên
trong tác động đến mức độ CBTT của DN. Một số nghiên cứu trước
đây cho thấy mối liên hệ tích cực (ví dụ, [29], [33]), những người
khác lại tìm thấy một mối liên hệ tiêu cực (ví dụ, [25]) hoặc không
tìm thấy mối liên hệ giữa hai nhân tố này (ví dụ như [11], [12], [20]).
Khả năng thanh toán cũng được xem là một trong những nhân
tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT. Ví dụ, trong khi sự liên kết tích cực
đã được tìm thấy trong một số nghiên cứu (chẳng hạn như [11],
[29]); Những người khác lại cho thấy liên kết này không đáng kể (ví
dụ như [8], [12], [16]).
Sử ảnh hưởng của tài sản cố định cũng được các nghiên cứu
trước kiểm chứng nhưng phần lớn kết quả lại không tìm thấy được
mối liên hệ giữa tài sản cố định và mức độ CBTT của DN (chẳng
hạn như [7], [11], [24]).
Thời gian hoạt động của DN có ảnh hưởng đến mức độ CBTT.
Nhiều nghiên cứu trước đây đã chỉ ra mối quan hệ thuận chiều giữa
hai yếu tố này (chẳng hạn, [8], [27]). Tuy nhiên, cũng có nghiên cứu
đã không tìm thấy được mối liên hệ này (ví dụ như [12]).
5
Chất lượng kiểm toán được xem là một yếu tố quyết định chất
lượng thông tin công bố của DN. Sự ảnh hưởng của chủ thể kiểm
toán được phần lớn các nghiên cứu trước kiểm chứng nhưng không
có kết quả thống nhất. Trong khi một số nghiên cứu đã tìm thấy mối
liên hệ thuận chiều (như [8], [16], [24]); Những người khác lại cho
rằng mối liên hệ này là không đáng kể (như [11], [12], [29]).
Đặc điểm của hội đồng quản trị được đo lường theo nhiều
cách khác nhau cũng được xem là một trong những nhân tố quan
trọng ảnh hưởng đến mức độ CBTT của DN. Nhiều nghiên cứu đã
chỉ ra mối liên hệ thuận chiều giữa hai yếu tố này (như [8], [32]);
Những người khác lại cho thấy liên kết này là ngược chiều (ví dụ
[31]) hay không đáng kể (ví dụ như [29]). Điểm đáng chú ý là các
nghiên cứu ở Việt Nam về ảnh hưởng của các nhân tố thuộc về đặc
điểm quản trị công ty đến mức độ CBTT trên BCTC của các DN
niêm yết vẫn còn khiêm tốn.
6
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG BỐ THÔNG TIN VÀ CÁC NHÂN
TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN MỨC ĐỘ CÔNG BỐ THÔNG TIN
TRONG BÁO CÁO TÀI CHÍNH CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. KHÁI NIỆM VỀ CÔNG BỐ THÔNG TIN
Theo quan điểm của Bộ Tài Chính, CBTT được hiểu là
phương thức để thực hiện quy trình minh bạch của DN nhằm bảo
đảm các cổ đông và công chúng đầu tư có thể tiếp cận thông tin một
cách công bằng [14]. Cụ thể hơn, CBTT kế toán là việc công khai
toàn bộ thông tin của DN liên quan đến các hoạt động trong quá khứ,
những hoạt động hiện tại, những dự báo cho tương lai và nhiều thông
tin khác mà nhà đầu tư có yêu cầu thông qua hệ thống các BCTC
trong một thời kỳ nhất định [14].
CBTT bao gồm ba loại đó là CBTT bắt buộc, CBTT tự
nguyện (hay CBTT không bắt buộc) và CBTT tùy ý.
1.2. YÊU CẦU VỀ CÔNG BỐ THÔNG TIN
1.2.1. Công bố thông tin theo quy định của chuẩn mực kế
toán
Việc CBTT kế toán phải đáp ứng được các yêu cầu cơ bản sau
(theo VAS 01 [1]): Trung thực, khách quan, đầy đủ, kịp thời, dễ hiểu
và có thể so sánh.
1.2.2. Công bố thông tin kế toán trong báo cáo tài chính
Chuẩn mực kế toán Việt Nam VAS 01 [1] - Chuẩn mực chung
đã quy định rõ các yếu tố cơ bản của BCTC. BCTC phản ánh tình
trạng tài chính của DN bằng cách tổng hợp các nghiệp vụ kinh tế, tài
chính có cùng tính chất kinh tế thành các yếu tố của BCTC.
7
1.2.3. Công bố thông tin đối với doanh nghiệp niêm yết.
Để đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư cũng như sự phát triển
bền vững của thị trường và đáp ứng nhu cầu quản lý của Nhà nước,
Luật chứng khoán yêu cầu một sự CBTT cao hơn. Cụ thể, Thông tư
52/2012/TT-BTC yêu cầu việc CBTT của các DN niêm yết phải đảm
bảo tính “đầy đủ, chính xác và kịp thời” theo quy định của pháp luật.
Hoạt động CBTT phải do Giám đốc hoặc người được ủy quyền thực
hiện và phải chịu trách nhiệm về nội dung được công bố [4].
1.3. ĐO LƢỜNG MỨC ĐỘ CÔNG BỐ THÔNG TIN
1.3.1. Đo lƣờng bằng thang đo không trọng số
Trên cơ sở hệ thống các chỉ mục thông tin đã được xây dựng,
từng mục thông tin tương ứng trong BCTC sẽ được gán giá trị một
(1) nếu thông tin đó được công bố, hoặc được gán giá trị không (0)
nếu thông tin đó không công bố. Ngoài ra, các nhà nghiên cứu còn
có thể quyết định không gán giá trị cho một mục tin được đánh giá
nếu chắc chắn rằng đối với BCTC được nghiên cứu đó thì mục tin
này chắc chắn là không liên quan (not applicable).
1.3.2. Đo lƣờng bằng thang đo có trọng số.
Việc xác định mức độ CBTT được đánh giá theo các nguyên
tắc, mục tin công bố được gán giá trị bằng không (0) nếu không được
công bố, bằng 0,5 nếu công bố là định tính hoặc bằng một (1) nếu
công bố là định lượng (Francisco & cộng sự [19])..
1.4. CÁC LÝ THUYẾT NỀN VỀ CÔNG BỐ THÔNG TIN
1.4.1. Lý thuyết đại diện (Agency theory)
Theo lý thuyết đại diện, quan hệ giữa các cổ đông (người chủ
sở hữu) và người quản lý DN được hiểu như là quan hệ đại diện hay
quan hệ ủy thác. Vấn đề đại diện có thể được giải quyết bằng việc
người quản lý DN gia tăng mức độ CBTT nhằm thuyết phục các cổ
8
đông rằng họ đang điều hành DN ở mức tối ưu. Việc gia tăng mức
độ CBTT cũng được xem là một trong những giải pháp làm giảm chi
phí đại diện và là một trong những công cụ nhằm giảm bớt mâu
thuẫn về lợi ích giữa người quản lý DN và cổ đông.
Rất nhiều nghiên cứu thực nghiệm về CBTT trước đây đã vận
dụng lý thuyết đại diện. Chẳng hạn như nghiên cứu của Garcia-Meca
& cộng sự [21], Oyeler & cộng sự [28], Rodriguez [30]. Các nhà
nghiên cứu này đã lý giải sự ảnh hưởng đến của các nhân tố như quy
mô của DN, đòn bẩy tài chính, và khả năng sinh lời.
1.4.2. Lý thuyết tín hiệu (Signalling theory)
Lý thuyết tín hiệu chỉ ra rằng, thông tin không đối xứng giữa
DN và nhà đầu tư sẽ gây nên lựa chọn bất lợi cho nhà đầu tư. Và để
tránh tình trạng này, các DN CBTT một cách tự nguyện nhằm đưa
tín hiệu tốt đến thị trường [36]. Lý thuyết này ngụ ý rằng các DN có
kết quả hoạt động tốt thường sử dụng thông tin tài chính như là một
công cụ truyền tín hiệu đến thị trường. Các nghiên cứu về CBTT trên
thị trường tài chính thừa nhận rằng, các DN có khả năng sinh lời cao
sẽ đạt được lợi thế cạnh tranh thông qua việc CBTT [18].
1.4.3. Lý thuyết chi phí chính trị (Political cost theory)
Lý thuyết này cho rằng DN chịu chi phí chính trị cao sẽ công
bố nhiều thông tin hơn nhằm giảm thiểu gánh nặng của những chi
phí này. Kiểm tra thực nghiệm về mối liên hệ giữa chi phí chính trị
và mức độ CBTT có thể tìm thấy trong các nghiên cứu trước đây,
chẳng hạn như nghiên cứu của Inchausti [23] hay Raffournier [30].
Các nghiên cứu này đã chỉ ra rằng, các DN có quy mô lớn, khả năng
sinh lời cao thường phải chịu một chi phí chính trị cao và lúc này,
mức độ CBTT của những DN này cũng cao hơn.
9
1.4.4. Lý thuyết chi phí sở hữu (Proprietary costs theory)
Lý thuyết này giả định rằng không có mâu thuẫn giữa nhà
quản trị và chủ sở hữu, và do vậy cũng khẳng định tính tin cậy của
các thông tin được công bố tự nguyện. Một DN cũng sẽ phải chịu chi
phí sở hữu hay chi phí cạnh tranh bất lợi khi các bên liên quan có thể
dựa trên các thông tin được công bố mà có tác động tiêu cực đến DN
báo cáo chỉ vì các lợi ích riêng của họ.
1.4.5. Lý thuyết kinh tế thông tin (Information Economic
Theory)
Lý thuyết kinh tế thông tin được áp dụng để kiểm tra mức độ
mà thị trường và các tổ chức khác đã xử lý và truyền đạt thông tin
như thế nào. Lý thuyết này đề cập tới sự bất đối xứng về thông tin thị
trường và giá trị kinh tế của nó [10]. Nghiên cứu này cho rằng lý
thuyết kinh tế thông tin có thể giải thích hiện tượng phức tạp của
việc CBTT (bắt buộc và tự nguyện) bởi vì nó tìm cách giải quyết
thông tin bất đối xứng bằng cách cân nhắc giữa lợi ích và chi phí liên
quan đến việc công bố thông tin.
1.5. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN MỨC ĐỘ CÔNG BỐ
THÔNG TIN
1.5.1. Quy mô DN
Quy mô DN có thể được biểu thị qua các chỉ tiêu khác nhau
như tổng tài sản, tổng nguồn vốn, doanh thu thuần hay tổng số lao
động của DN. Theo lý thuyết đại diện, khi có sự tách biệt giữa quyền
sở hữu và quyền điều hành thì lúc này sẽ nảy sinh mâu thuẫn giữa
người chủ sở hữu và người điều hành DN. Theo lý thuyết tín hiệu,
các DN lớn nhận thức rằng bằng việc phát tín hiệu, công bố nhiều
thông tin cho người sử dụng hơn sẽ thu hút nhiều nhà đầu tư hơn, do
đó sẽ làm tăng giá trị cổ phiếu của DN. Với lý thuyết chi phí chính
10
trị, các DN có quy mô nhỏ thường có chi phí chính trị ít hơn các DN
có quy mô lớn.
1.5.2. Khả năng sinh lời
Khả năng sinh lời phản ánh thành quả hoạt động của DN và
được đo lường bởi ROA hay ROE. Lý thuyết đại diện chỉ ra rằng,
các nhà quản lý của DN có lợi nhuận cao thường thúc đẩy tiết lộ
thêm thông tin để tăng cường uy tín, năng lực làm việc của bản thân
và gia tăng mức thưởng của họ [33]. Còn theo lý thuyết tín hiệu, các
DN có lợi nhuận cao thường có xu hướng phát đi nhiều tín hiệu
thông qua việc CBTT để phân biệt với các DN có lợi nhuận thấp
nhằm giúp gia tăng giá trị cổ phiếu của họ.
1.5.3. Tỷ suất nợ
Tỷ suất nợ thường được tính bằng cách lấy tổng nợ của DN
chia cho giá trị tổng tài sản trong cùng kỳ của DN. Lý thuyết đại diện
chỉ ra rằng các DN càng nợ nhiều sẽ càng công bố nhiều thông tin
làm giảm chi phí đại diện. Lý thuyết tín hiệu cũng gợi ý rằng các DN
nợ càng nhiều thì các nhà quản trị DN càng có động cơ công bố
nhiều thông tin nhằm đáp ứng yêu cầu minh bạch của chủ nợ.
1.5.4. Khả năng thanh toán
Khả năng thanh toán hay còn gọi là tính thanh khoản là khả
năng đáp ứng tình hình nợ của DN trong ngắn hạn. Theo lý thuyết tín
hiệu, DN có khả năng thanh toán càng cao sẽ CBTT càng nhiều
nhằm khuếch trương uy tín và tăng giá trị của DN. Ngược lại, cũng
có ý kiến cho rằng các DN có khả năng thanh toán thấp có thể tăng
cường CBTT để cho những cổ đông, nhà quản lý bớt lo lắng.
1.5.5. Tài sản cố định
Tài sản cố định là tư liệu sản xuất có giá trị lớn và liên quan
đến nhiều kỳ sản xuất kinh doanh của DN. Trong các nghiên cứu
11
trước đây, nhân tố tài sản cố định được đo lường bằng giá trị còn lại
của tài sản cố định trên tổng tài sản của DN. Theo lý thuyết tín hiệu,
các DN có giá trị tài sản cố định càng lớn càng cần phải CBTT nhiều
hơn để giúp cho các nhà đầu tư đưa ra được những quyết định đầu tư
có hiệu quả.
1.5.6. Đặc điểm của hội đồng quản trị
Chức năng giám sát của hội đồng quản trị là cần thiết vì theo
lý thuyết đại diện thì luôn có sự mâu thuẫn về lợi ích giữa một bên là
các nhà đầu tư và một bên là những người quản lý. Để làm giảm mâu
thuẫn này, hội đồng quản trị sẽ thực hiện quyền lực của mình để theo
dõi và kiểm soát quản lý. Một DN có tỷ lệ thành viên hội đồng quản
trị độc lập cao sẽ giám sát tốt hơn các hành vi của nhà quản lý và do
đó, cũng giảm bớt xung đột giữa nhà đầu tư và người quản lý.
1.5.7. Thời gian niêm yết của DN
Trong các nghiên cứu trước đây, thời gian niêm yết của DN
được tính từ lúc DN bắt đầu niêm yết trên TTCK đến thời điểm
nghiên cứu. Các DN có thời gian niêm yết càng lâu thì việc lập và
trình bày BCTC càng được cải thiện hơn. Bên cạnh đó, các DN có
thời gian niêm yết lâu dài có nhiều thành tựu để báo cáo nhằm gia
tăng danh tiếng của nó, còn các DN có thời gian niêm yết ngắn, chưa
có nhiều danh tiếng trên thị trường, nên việc công bố nhiều thông tin
có thể ảnh hưởng tiêu cực đến vị thế cạnh tranh của họ.
1.5.8. Chủ thể kiểm toán
Kiểm toán là yếu tố quan trọng nhằm đảm bảo tính trung thực
và khách quan của các thông tin tài chính, làm cơ sở cho việc ra
quyết định đầu tư và quản lý kinh doanh. Để giảm thiểu xung đột
giữa nhà quản lý và các nhà đầu tư, lý thuyết đại diện cho rằng kiểm
toán độc lập đóng một vai trò vô cùng quan trọng.
12
CHƢƠNG 2
THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG
ĐẾN MỨC ĐỘ CÔNG BỐ THÔNG TIN
2.1. THỰC TRẠNG NGÀNH HÀNG TIÊU DÙNG TẠI VIỆT
NAM
2.2. CÂU HỎI NGHIÊN CỨU
Mục đích của nghiên cứu của luận văn này là nhằm trả lời
hai câu hỏi sau. Một là, thực trạng CBTT trong BCTC của các DN
ngành hàng tiêu dùng niêm yết trên TTCK Việt Nam hiện nay như
thế nào. Và hai là, những nhân tố nào ảnh hưởng đến mức độ CBTT
trong BCTC của các DN ngành hàng tiêu dùng niêm yết trên TTCK
Việt Nam?
2.3. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU
H1: Các DN có quy mô càng lớn thì mức độ CBTT trong
BCTC của các DN càng cao.
H2: Các DN có khả năng sinh lời càng lớn thì mức độ CBTT
trong BCTC của các DN càng cao.
H3: Các DN có tỷ suất nợ càng lớn thì mức độ CBTT trong
BCTC của các DN càng cao.
H4: Các DN có khả năng thanh toán càng nhanh thì mức độ
CBTT trong BCTC của các DN càng cao.
H5: Các DN có tài sản cố định càng nhiều thì mức độ CBTT
trong BCTC của các DN càng cao.
H6a: Các DN có tỷ lệ thành viên hội đồng quản trị độc lập
càng cao thì mức độ CBTT trong BCTC của các DN càng cao.
H6b: Các DN có tính độc lập của chủ tịch hội đồng quản trị
càng cao thì mức độ CBTT trong BCTC của các DN càng cao.
13
H7: Các DN có thời gian niêm yết càng dài thì mức độ CBTT
trong BCTC của các DN càng cao.
H8: Các DN được kiểm toán bởi những DN kiểm toán lớn
(Big 4) có mức độ CBTT trên BCTC cao hơn các DN được kiểm toán
bởi các DN kiểm toán khác.
2.4. MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU
Phương trình 1 có dạng
CBTTBB = β0 + β1 QMDN + β2 KNSL + β3 TSN + β4 KNTT
+ β5 TSCD + β6 TLTVHDQTDL + β7 TDLCTHDQT + β8 TGNY +
β9 CTKT + ε
Phương trình 2 có dạng
CBTTTN = β0 + β1 QMDN + β2 KNSL + β3 TSN + β4 KNTT
+ β5 TSCD + β6 TLTVHDQTDL + β7 TDLCTHDQT + β8 TGNY +
β9 CTKT + ε
Phương trình 3 có dạng
CBTTCHUNG = β0 + β1 QMDN + β2 KNSL + β3 TSN +
β4KNTT + β5TSCD + β6 TLTVHDQTDL + β7 TDLCTHDQT + β8
TGNY + β9 CTKT + ε
Trong đó:
CBTTBB: Mức độ CBTT bắt buộc.
CBTTTN