Hệ thống kế toán là một bộ phận cấu thành quan trọng của hệ thống công cụ
quản lý kinh tế - tài chính, có vai trò tích cực phục vụ cho việc quản lý, điều hành và
kiểm soát các hoạt động kinh tế. Với xu hướng hội nhập kinh tế thế giới và khu vực,
đòi hỏi hệ thống kế toán doanh nghiệp cần thiết phải được hoàn thiện một cách đồng
bộ và phù hợp trong việc cung cấp thông tin nhằm đáp ứng những yêu cầu quản lý
mới. Hệ thống kế toán doanh nghiệp có nhiều nội dung, trong đó hệ thống TKKT là
nội dung quan trọng, có liên quan và có ảnh hưởng quyết định đến tất cả các nội dung
còn lại của hệ thống kế toán doanh nghiệp đó.
Thông qua hệ thống tài khoản kế toán (TKKT) doanh nghiệp, kế toán tiến hành
phân loại, phản ánh, ghi chép và xử lý các nghiệp vụ kinh tế phát sinh rõ ràng, kịp
thời và đầy đủ. Từ đó giúp cho việc cung cấp, kiểm tra và phân tích đầy đủ các thông
tin về các nghiệp vụ kinh tế phát sinh theo yêu cầu quản trị doanh nghiệp, nhằm giúp
ban lãnh đạo doanh nghiệp đưa ra các quyết định kinh tế và điều hành quản lý kịp
thời. Đồng thời, thông qua hệ thống TKKT doanh nghiệp, kế toán tiến hành thu thập
các thông tin cần thiết làm cơ sở cho việc lập và trình bày báo cáo tài chính (BCTC),
sẽ là căn cứ đáng tin cậy để các nhà quản lý đánh giá đúng tình trạng tình hình tài
chính, dự báo được nhu cầu tài chính trong tương lai của doanh nghiệp. Vì vậy, hệ
thống TKKT đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định chất lượng, thông tin kế
toán cũng như chất lượng công tác kế toán. Do vậy, trong quá trình hoàn thiện hệ
thống kế toán doanh nghiệp thì yêu cầu tiếp tục hoàn thiện hệ thống TKKT doanh
nghiệp được đặt lên hàng đầu
24 trang |
Chia sẻ: thientruc20 | Lượt xem: 643 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Nghiên cứu hệ thống tài khoản kế toán áp dụng trong các doanh nghiệp sản xuất - Kinh doanh ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hệ thống kế toán là một bộ phận cấu thành quan trọng của hệ thống công cụ
quản lý kinh tế - tài chính, có vai trò tích cực phục vụ cho việc quản lý, điều hành và
kiểm soát các hoạt động kinh tế. Với xu hướng hội nhập kinh tế thế giới và khu vực,
đòi hỏi hệ thống kế toán doanh nghiệp cần thiết phải được hoàn thiện một cách đồng
bộ và phù hợp trong việc cung cấp thông tin nhằm đáp ứng những yêu cầu quản lý
mới. Hệ thống kế toán doanh nghiệp có nhiều nội dung, trong đó hệ thống TKKT là
nội dung quan trọng, có liên quan và có ảnh hưởng quyết định đến tất cả các nội dung
còn lại của hệ thống kế toán doanh nghiệp đó.
Thông qua hệ thống tài khoản kế toán (TKKT) doanh nghiệp, kế toán tiến hành
phân loại, phản ánh, ghi chép và xử lý các nghiệp vụ kinh tế phát sinh rõ ràng, kịp
thời và đầy đủ. Từ đó giúp cho việc cung cấp, kiểm tra và phân tích đầy đủ các thông
tin về các nghiệp vụ kinh tế phát sinh theo yêu cầu quản trị doanh nghiệp, nhằm giúp
ban lãnh đạo doanh nghiệp đưa ra các quyết định kinh tế và điều hành quản lý kịp
thời. Đồng thời, thông qua hệ thống TKKT doanh nghiệp, kế toán tiến hành thu thập
các thông tin cần thiết làm cơ sở cho việc lập và trình bày báo cáo tài chính (BCTC),
sẽ là căn cứ đáng tin cậy để các nhà quản lý đánh giá đúng tình trạng tình hình tài
chính, dự báo được nhu cầu tài chính trong tương lai của doanh nghiệp. Vì vậy, hệ
thống TKKT đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định chất lượng, thông tin kế
toán cũng như chất lượng công tác kế toán. Do vậy, trong quá trình hoàn thiện hệ
thống kế toán doanh nghiệp thì yêu cầu tiếp tục hoàn thiện hệ thống TKKT doanh
nghiệp được đặt lên hàng đầu.
Thực tế cho thấy, bên cạnh hệ thống TKKT quy định trong CĐKT doanh
nghiệp ban hành theo Quyết định số 15/2006/QĐ - BTC ngày 20/3/2006 (sau đây gọi
tắt là Quyết định số 15) của Bộ trưởng Bộ Tài chính, còn có hệ thống TKKT áp dụng
cho doanh nghiệp nhỏ và vừa ban hành theo Quyết định số 48/2006/QĐ - BTC ngày
14/9/2006. Ngoài ra, trên cơ sở Quyết định 15, các ngành và doanh nghiệp kinh
doanh đặc thù còn được phép xây dựng và ban hành hệ thống tài khoản kế toán riêng
(Tập đoàn Điện lực, Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông, Tập đoàn Dầu khí, Tổng
Công ty Hàng không, ...). Mặt khác, do những qui định của chế độ tài khoản kế toán
không theo kịp sự phát triển của nền kinh tế nên Bộ Tài chính phải thường xuyên sửa
đổi, bổ sung hệ thống tài khoản kế toán (các thông tư Thông tư số 138/2011/TT -
2
BTC ngày 4/10/2011 về sửa đổi, bổ sung chế độ kế toán doanh nghiệp nhỏ và vừa;
Thông tư số 244/2009/TT - BTC ngày 31/12/2009 bổ sung, sửa đổi CĐKT doanh
nghiệp ban hành theo Quyết định số 15/2006/QĐ - BTC ngày 20/3/2006; ...).
Việc tồn tại nhiều hệ thống TKKT áp dụng cho các doanh nghiệp và phải
thường xuyên bổ sung, cập nhật như quy định hiện hành sẽ gây ra khó khăn trong
việc vận hành hệ thống thông tin kế toán doanh nghiệp. Mặt khác, việc bắt buộc phải
thực hiện hệ thống TKKT các cấp như hệ thống TKKT đang áp dụng cho các doanh
nghiệp hiện nay chưa linh hoạt và chưa tăng cường tính tự chịu trách nhiệm của
doanh nghiệp do chưa cho phép doanh nghiệp được chủ động mở chi tiết TKKT các
cấp, chưa yêu cầu doanh nghiệp phải tự thiết kế và thực hiện hệ thống TKKT và
phương pháp kế toán trên cơ sở đảm bảo tuân thủ CMKT và các quy định có liên
quan đến lập và trình bày BCTC cũng như đáp ứng yêu cầu quản lý của Nhà nước và
doanh nghiệp. Việc quy định để áp dụng thống nhất TKKT và phương pháp kế toán
sẽ không còn phù hợp khi thực tế các chính sách, chế độ kinh tế, tài chính, thuế luôn
được ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung hoặc hoạt động kinh doanh đa dạng trong
xu thế hội nhập kinh tế.
Từ những phân tích cơ bản như trên, tác giả đã lựa chọn đề tài với tên gọi
“Nghiên cứu hệ thống tài khoản kế toán áp dụng trong các doanh nghiệp sản
xuất - kinh doanh ở Việt Nam" làm đề tài nghiên cứu sinh tiến sĩ của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu cơ bản, xuyên suốt của đề tài là ứng dụng khung lý thuyết về tài
khoản kế toán, hệ thống tài khoản kế toán áp dụng trong các doanh nghiệp sản xuất -
kinh doanh và sử dụng dữ liệu về hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp sản xuất -
kinh doanh; phân tích, đánh giá hệ thống tài khoản kế toán áp dụng trong các doanh
nghiệp sản xuất - kinh doanh ở Việt Nam hiện hành; từ đó tìm ra giải pháp phù hợp
để hoàn thiện và xây dựng hệ thống tài khoản kế toán áp dụng trong các doanh
nghiệp sản xuất - kinh doanh ở Việt Nam nhằm nâng cao chất lượng hoạt động kế
toán và cung cấp thông tin cho các nhà quản lý.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu về hệ thống tài khoản kế toán áp dụng trong các doanh
nghiệp sản xuất - kinh doanh hiện hành ở Việt Nam. Với đối tượng này, đề tài đi sâu
nghiên cứu các vấn đề lý luận cơ bản và tiến hành khảo sát thực trạng chế độ kế toán
3
về hệ thống tài khoản kế toán cũng như thực trạng vận dụng hệ thống tài khoản kế
toán hiện hành trong các doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh cùng với việc đề xuất
giải pháp hoàn thiện hệ thống tài khoản kế toán hiện hành áp dụng trong các doanh
nghiệp sản xuất - kinh doanh ở Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu:
Luận án tập trung nghiên cứu hệ thống tài khoản kế toán hiện hành áp dụng
trong các doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh ở Việt Nam và giải pháp hoàn thiện kết
hợp xây dựng hệ thống tài khoản kế toán áp dụng trong các doanh nghiệp sản xuất -
kinh doanh. Cụ thể:
+ Về nội dung: Luận án giới hạn nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn
liên quan đến hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh.
+ Về không gian: Giới hạn nghiên cứu chế độ kế toán về hệ thống tài khoản kế
toán doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh ở Việt Nam và thực tiễn vận dụng hệ thống
tài khoản kế toán hiện hành trong các doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh ở Việt
Nam.
+ Về thời gian: Nghiên cứu hệ thống tài khoản kế toán áp dụng trong các
doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh ở Việt Nam từ năm 1954 đến nay, trong đó chú
trọng giai đoạn từ tháng 3/2006 đến nay là giai đoạn áp dụng hệ thống tài khoản kế
toán hiện hành trong các doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh.
4. Câu hỏi nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu đề ra, luận án tập trung giải đáp câu hỏi tổng
quát: Hệ thống tài khoản kế toán hiện hành áp dụng trong các doanh nghiệp sản xuất -
kinh doanh ở Việt Nam có ảnh hưởng như thế nào đến kết quả và hiệu quả hoạt động
kế toán nói chung và chất lượng thông tin kế toán nói riêng của doanh nghiệp?
Từ đó, luận án phải giải đáp được các câu hỏi cụ thể sau:
- Những đặc trưng của tài khoản và hệ thống tài khoản kế toán áp dụng trong
các doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh?
- Những nhân tố nào ảnh hưởng đến hệ thống tài khoản kế toán áp dụng trong
các doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh?
- Những giải pháp và đề xuất nào thích hợp để hoàn thiện và xây dựng hệ
thống tài khoản kế toán áp dụng trong các doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh?
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Công trình nghiên cứu sử dụng kết hợp phương pháp nghiên cứu định lượng
4
với phương pháp định tính. Phương pháp nghiên cứu định lượng được được luận án
vận dụng từ cách thức tiếp cận diễn giải, còn phương pháp nghiên cứu định tính được
vận dụng từ cách thức tiếp cận qui nạp.
6. Những đóng góp mới của đề tài
Luận án có các đóng góp chủ yếu sau:
- Hệ thống hóa và làm rõ hơn những vấn đề lý luận cơ bản về tài khoản và hệ
thống tài khoản kế toán áp dụng trong các doanh nghiệp.
- Phân tích và đánh giá một cách khách quan những tồn tại của hệ thống tài
khoản kế toán hiện hành áp dụng trong các doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh ở
Việt Nam.
- Nghiên cứu ảnh hưởng của các nhân tố chủ quan và khách quan tác động tới
hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh.
- Đề xuất các giải pháp và điều kiện thực hiện giải pháp hoàn thiện và xây
dựng hệ thống tài khoản kế toán hiện hành áp dụng trong các doanh nghiệp sản xuất -
kinh doanh ở Việt Nam.
7. Kết cấu của đề tài
Với tên gọi “Nghiên cứu hệ thống tài khoản kế toán áp dụng trong các doanh
nghiệp sản xuất - kinh doanh ở Việt Nam", ngoài mở đầu, kết luận, danh mục bảng
biểu, sơ đồ, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, luận án được chia làm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu về hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp;
Chương 2: Cơ sở lý luận về tài khoản kế toán và hệ thống tài khoản kế toán áp dụng
trong các doanh nghiệp SXKD;
Chương 3: Kết quả nghiên cứu về hệ thống tài khoản kế toán hiện hành áp dụng trong
các doanh nghiệp SXKD ở Việt Nam;
Chương 4: Thảo luận kết quả nghiên cứu và đề xuất giải pháp hoàn thiện hệ thống tài
khoản kế toán hiện hành áp dụng trong các doanh nghiệp SXKD ở Việt Nam.
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ HỆ THỐNG TÀI KHOẢN
KẾ TOÁN DOANH NGHIỆP
Trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và trước xu thế hội nhập
kinh tế quốc tế có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật đòi hỏi Nhà nước và các
doanh nghiệp phải đổi mới và hoàn thiện hệ thống công cụ quản lý tài chính, trong đó
5
có hệ thống kế toán. Một hệ thống kế toán doanh nghiệp là sự kết hợp của nhiều
thành phần, yếu tố khác nhau, trong đó hệ thống TKKT có thể được coi như là thành
phần quan trọng của hệ thống kế toán doanh nghiệp, có ảnh hưởng chi phối tới các
thành phần khác của hệ thống kế toán đó.
Hệ thống TKKT luôn giữ vai trò quan trọng trong việc quản lý vốn, tài sản,
quản lý hoạt động SXKD trong từng doanh nghiệp; đồng thời kế toán cũng cung cấp
các thông tin cần thiết cho tất cả các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân có liên quan
như nhà đầu tư, khách hàng, nhà cung cấp, Thông tin do kế toán cung cấp là căn cứ
để Nhà nước thực hiện chức năng thanh, kiểm tra hoạt động SXKD của doanh nghiệp
và quản lý Nhà nước về kế toán doanh nghiệp, góp phần thực hiện chức năng điều tiết
vĩ mô nền kinh tế.
Nghiên cứu về hệ thống TKKT doanh nghiệp SXKD được thực hiện ở hầu hết
các nước trên thế giới. Ở các nước đã và đang phát triển, cùng với sự phát triển của
nền kinh tế thị trường, hệ thống kế toán, trong đó có hệ thống TKKT doanh nghiệp
SXKD, do các doanh nghiệp tự xây dựng trên cơ sở các CMKT. Hệ thống TKKT
doanh nghiệp thường xuyên được nghiên cứu, bổ sung, sửa đổi và ngày càng được
hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu cung cấp thông tin cho quản lý. Việc nghiên cứu
hoàn thiện hệ thống TKKT doanh nghiệp được triển khai ở các cơ quan, tổ chức và ở
các doanh nghiệp SXKD phụ thuộc vào việc nghiên cứu, xây dựng để ban hành hệ
thống kế toán doanh nghiệp của từng quốc gia.
Hiện tại, trên thế giới đang có hai xu hướng xây dựng hệ thống TKKT doanh
nghiệp SXKD phổ biến như sau75:
- Xu hướng 1: Các doanh nghiệp SXKD tự xây dựng hệ thống TKKT dựa trên
cơ sở CMKT (tạm dịch “Standard Based Accounting”).
- Xu hướng 2: Nhà nước xây dựng và ban hành hệ thống TKKT thống nhất áp
dụng trong các doanh nghiệp (tạm dịch “Uniform Accounting Plan”).
Tại Việt Nam, các công trình nghiên cứu, đánh giá về hệ thống TKKT doanh
nghiệp của các nhà khoa học trong nước khá đa dạng, có thể khái quát việc nghiên
cứu hệ thống TKKT áp dụng trong các doanh SXKD trên các mặt sau:
- Về tác giả của các công trình nghiên cứu: Tác giả của các đánh giá này phần
lớn là giáo viên giảng dạy về kế toán ở các cơ sở đào tạo bậc đại học, cao đẳng có
đào tạo kế toán, các chuyên gia xây dựng CĐKT; những người trực tiếp làm kế toán,
quản trị doanh nghiệp, các cá nhân, doanh nghiệp xây dựng để bán phần mềm kế toán
6
doanh nghiệp. Các nghiên cứu được thực hiện trong quá trình nghiên cứu, đào tạo và
trong thực tế tổ chức công tác kế toán của doanh nghiệp.
- Về phạm vi và đối tượng nghiên cứu: Các nghiên cứu hệ thống TKKT bao
gồm cả những nghiên cứu về mặt lý luận cũng như những công trình đã khảo sát ở
các doanh nghiệp SXKD.
- Về tính chất và ý nghĩa của các công trình nghiên cứu: Do đối tượng nghiên
cứu đa dạng nên nên tính chất và ý nghĩa của các công trình nghiên cứu này cũng rất
khác nhau như các nghiên cứu mang tính khoa học được đăng trên các tạp chí chuyên
ngành hay các công trình nghiên cứu của các Bộ, ngành.
- Về các quan điểm và giải pháp đề cập:
Các công trình đã công bố có thể phân ra 2 nhóm: Nhóm các giải pháp và quan
điểm cụ thể và nhóm các quan điểm và giải pháp tổng thể.
Bên cạnh các nghiên cứu mang tính cụ thể, ở Việt Nam cũng đã có một vài
công trình nghiên cứu về tài khoản và hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp sản
xuất - kinh doanh mang tính tổng thể, hướng tới việc xây dựng và hoàn thiện hệ
thống tài khoản kế toán doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh ở Việt Nam. Trước tiên,
có thể kể đến đề tài nghiên cứu cấp bộ (Bộ Tài chính) “Đổi mới hệ thống TKKT thống
nhất”56 do PGS.TS Võ Đình Hảo chủ nhiệm nghiệm thu năm 1989. Do công trình
này được nghiên cứu từ những năm cuối thập niên 80 của thế kỷ trước nên chỉ đề cập
đến hệ thống TKKT thống nhất trong giai đoạn nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung,
bao cấp.
PGS.TS Nguyễn Văn Công và các cộng sự trong đề tài cấp bộ (Bộ Giáo dục &
Đào tạo) “Hoàn thiện hệ thống TKKT thống nhất áp dụng trong các doanh nghiệp
SXKD ở Việt Nam”40 lại đề cập đến hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp sản
xuất - kinh doanh trong giai đoạn kinh tế thị trường với mục đích hoàn thiện hệ thống
TKKT doanh nghiệp theo Quyết định số 1141 - TC/QĐ/CĐKT 01/11/1995 của Bộ
trưởng Bộ Tài chính về ban hành chế độ kế toán doanh nghiệp. Nhiều giải pháp hoàn
thiện của tác giả đã được tiếp thu, chỉnh sửa trong Quyết định số 15/2006 (thay thế
cho Quyết định số 1141/1995) như tên của loại TK, nhóm TK, bổ sung các TK và nội
dung của các TK.
Tóm lại, thông qua việc tổng quan các công trình nghiên cứu hoàn thiện hệ
thống TKKT doanh nghiệp SXKD ở trong và ngoài nước cho thấy các công trình
nghiên cứu trong nước đã đưa ra được nhiều kiến nghị có giá trị lý luận và thực tiễn
7
cao. Các kiến nghị này có hai loại: (i) Các kiến nghị mang tính cụ thể nhìn chung chỉ
đem lại những thay đổi nhỏ trong hệ thống TKKT doanh nghiệp SXKD hiện hành và
chưa tạo ra được sự chuyển biến mang tính đột phá. Hầu hết các tác giả chỉ tập trung
vào việc hoàn thiện các TKKT, còn có các nội dung chưa phù hợp, chưa hoàn chỉnh
trong hệ thống TKKT doanh nghiệp hiện hành như bổ sung, sửa đổi các TK hoặc
phương pháp kế toán cho phù hợp và thống nhất giữa chế độ và thực tiễn, thống nhất
giữa CMKT và chế độ tài chính và các CMKT hiện nay; (ii) Có ít công trình nghiên
cứu mang tính tổng thể.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Chương 1 tập trung làm rõ những nghiên cứu đã công bố của các nhà khoa học
trong và ngoài nước về tài khoản kế toán và hệ thống tài khoản kế toán nói chung và
hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh nói riêng. Từ đó, chỉ
rõ khoảng trống cần tiếp tục nghiên cứu và xác lập vấn đề nghiên cứu của đề tài
“Nghiên cứu hệ thống tài khoản kế toán áp dụng trong các doanh nghiệp sản xuất -
kinh doanh ở Việt Nam".
CHƢƠNG 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÀI KHOẢN KẾ TOÁN VÀ HỆ THỐNG
TÀI KHOẢN KẾ TOÁN ÁP DỤNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
SẢN XUẤT - KINH DOANH
2.1. Kế toán, khuôn khổ pháp luật và các quy định về kế toán doanh nghiệp
2.1.1. Mô hình kế toán
Kế toán là việc thu thập, xử lý, kiểm tra, phân tích và cung cấp thông tin kinh
tế, tài chính dưới hình thức giá trị, hiện vật và thời gian lao động[62], nhưng kế toán
không phải là lĩnh vực khoa học thuần túy mà nó thuộc loại khoa học xã hội về quản
lý kinh tế. Trong thực tế, kế toán chịu sự chi phối của rất nhiều các yếu tố như: hoàn
cảnh kinh tế, văn hóa xã hội, chính trị và luật pháp của mỗi quốc gia qua mỗi thời kỳ
khác nhau. Nghiên cứu lịch sử phát triển của kế toán qua các thời kỳ khác nhau trên
thế giới, đến nay có thể khái quát mô hình kế toán thành 6 loại như sau: mô hình kế
toán tiền mặt; mô hình kế toán dồn tích; mô hình kế toán động; mô hình kế toán tĩnh;
mô hình kế toán vĩ mô; mô hình kế toán hiện tại hóa78. Sáu loại hình kế toán cơ
bản này tương ứng với các cách thức kế toán khác nhau, tương ứng với các hệ thống
kinh tế khác nhau. Việc xác định sự khác biệt này nhằm xây dựng CĐKT cho phù
8
hợp.
Nhận diện mô hình kế toán Việt Nam
Phân biệt các mô hình kế toán như đã nêu trên, nghiên cứu các đặc điểm biểu
hiện của kế toán doanh nghiệp Việt Nam cho thấy kế toán Việt Nam không chỉ phản
ánh giá trị tài sản của doanh nghiệp mà còn có cả tài sản đi thuê (thuê tài chính); giá
trị tài sản được ghi chép và phản ánh theo giá gốc với giả định là doanh nghiệp hoạt
động liên tục ; nguồn vốn ghi nhận theo số vốn đã huy động v.v...
Từ những đặc điểm nêu trên có thể nhận thấy kế toán Việt Nam mang nhiều
đặc điểm của mô hình kế toán động, loại kế toán chủ yếu phục vụ nhu cầu đánh giá
hiệu quả kinh tế doanh nghiệp và thực hiện theo kế toán dồn tích. Do vậy hệ thống
CĐKT nói chung và hệ thống TKKT nói riêng áp dụng cho doanh nghiệp SXKD phải
được xây dựng theo các nguyên tắc sau: (i) Tuân thủ các nguyên tắc và CMKT; (ii)
Tất cả các tài sản tham gia vào quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
được ghi nhận theo nguyên tắc giá gốc mà không ghi nhận theo giá thị trường và việc
hạch toán thiên về quan điểm sử dụng tài sản mà không hạch toán tài sản theo quyền
sở hữu, do vậy hạch toán tăng hay giảm tài sản là khi nhận hay chuyển tài sản hoặc
phát sinh quyền và trách nhiệm đối với tài sản đó; (iii) Nguồn vốn được ghi nhận theo
số vốn đã nhận chứ không ghi nhận theo số vốn đăng ký; (iv) Khấu hao TSCĐ được
tính một cách có hệ thống trên giá phí (nguyên giá TSCĐ) căn cứ vào cách thức thu
hồi lợi ích kinh tế của từng TSCĐ và bỏ qua sự khấu hao tĩnh; (v) Các BCTC chính
được lập định kỳ; (vi) Doanh thu và chi phí không ghi nhận theo nguyên tắc tiền mà
được ghi nhận theo nguyên tắc dồn tích theo từng thời kỳ, phù hợp với khả năng sinh
lời thực tế từ việc sử dụng tài sản; (vii) Về phương pháp kế toán là phương pháp ghi
kép theo phương pháp kê khai thường xuyên hoặc kiểm kê định kỳ.
Với đặc điểm cơ bản của kế toán Việt Nam, khi nghiên cứu hệ thống TKKT
doanh nghiệp để đưa ra các giải pháp hoàn thiện phải đảm bảo tuân thủ Luật Kế toán,
CĐKT và hệ thống CMKT Việt Nam. Đồng thời, để đáp ứng được yêu cầu hội nhập
kinh tế quốc tế thì hệ thống TKKT doanh nghiệp Việt Nam cũng phải phù hợp với
thông lệ chung của các nước.
2.1.2. Khuôn khổ pháp luật và các quy định về kế toán doanh nghiệp
Kế toán không phải là lĩnh vực khoa học thuần túy mà thuộc khoa học xã hội
về quản lý kinh tế. Là công cụ của hệ quản luật, kế toán chịu sự chi phối của rất nhiều
các yếu tố như: hoàn cảnh kinh tế, văn hóa xã hội, chính trị và luật pháp của mỗi
9
quốc gia qua các thời kỳ. Ngoài việc phải chịu sự chi phối của hệ thống pháp luật nói
chung, kế toán còn đòi hỏi phải có những quy định cho riêng mình. Để tổ chức và
quản luật kế toán ở các doanh nghiệp, các quốc gia đều có những văn bản pháp quy
và hình thành nên khuôn khổ pháp luật và các quy định về kế toán mà các doanh
nghiệp phải tuân thủ. Khuôn khổ pháp luật và các quy định về kế toán là hệ thống
đồng bộ các văn bản về kế toán, chi phối đến công tác tổ chức và thực hiện các công
việc kế toán của doanh nghiệp trong đó có các quy định do Nhà nước ban hành mang
tính pháp luật và có các quy định không phải do Nhà nước ban hành (có thể do tổ
chức nghề nghiệp về kế toán và kiểm toán ban hành). Ở các quốc gia, pháp luật và
các quy định về kế toán áp dụng cho các doanh nghiệp bao gồm: (i) Luật Kế toán; (ii)
Văn bản hướng dẫn thi hành Luật Kế toán; (iii) Chuẩn mực kế toán; (iv) Chế độ kế
toán doanh nghiệp; (v) Các quy định của thị trường chứng khoán.
Như vậy, để đảm bảo cho doanh nghiệp tuân thủ pháp luật và các quy định về
kế toán, hệ thống TKKT doanh nghiệp phải được nghiên cứu, xây dựng để có thể
phân loại, hệ thống hóa tất cả các nghiệp vụ kinh tế phát sinh