Chất dẻo đóng vai trò quan trọng gần như không thể thiếu được trong
thế giới hiện đại. Chúng được phát hiện và được xem là những vật liệu đặc
biệt đa dạng, có nhiều ứng dụng hữu ích cho đời sống con người từ những
năm 50 của thế kỷ 20. Tính đến năm 2015, toàn thế giới tiêu thụ 322 triệu tấn
chất dẻo/năm. Số lượng nhựa tiêu thụ bình quân đầu người trung bình năm
2015 trên thế giới 69,7 kg/người, khu vực Châu Á 48,5 kg/người, Mỹ 155
kg/người, Châu Âu 146 kg/người, Nhật 128 kg/người, Việt Nam 41 kg/người
(tăng đáng kể so với năm 2010 là 33 kg/người). Polyetylen là một loại nhựa
nhiệt dẻo được sử dụng rất phổ biến trên thế giới, với mức tiêu thụ trên 76
triệu tấn/năm, chiếm 38% tổng sản lượng nhựa tiêu thụ. Nhu cầu sử dụng
nhựa tăng lên đồng nghĩa với việc tăng lượng chất thải, gây ô nhiễm môi
trường toàn cầu. Năm 2012, lượng rác thải nhựa thải vào môi trường ở Châu
Âu là 25,2 triệu tấn, ở Mỹ là 29 triệu tấn. Theo các báo cáo về môi trường
của Liên hợp Quốc, trên thế giới có khoảng 22 – 43% polyme thải vào môi
trường khi xử lý bằng công nghệ chôn lấp, 35% đổ vào các đại dương. Ở Việt
Nam, lượng chất thải rắn của cả nước phát sinh trung bình hàng năm tăng gần
200% và còn tiếp tục tăng trong thời gian tới, ước tính khoảng 44 triệu
tấn/năm. Theo Tổ chức Bảo tồn Đại dương và Trung tâm kinh doanh môi
trường McKinsey, năm 2015 Việt Nam là nước có lượng rác thải nhựa ra
biển lớn thứ 4 trên thế giới (trung bình 0,73 triệu tấn/năm, chiếm 6% toàn thế
giới). Để giải quyết vấn nạn trên, trong một vài thập kỷ qua các nhà khoa học
đã tập trung nghiên cứu phát triển các vật liệu nhựa có thời gian phân hủy
nhanh mà biện pháp được quan tâm nhất đó là kết hợp với các phụ gia xúc
tiến oxy hóa.
Chất xúc tiến oxy hóa thường là các ion kim loại chuyển tiếp được đưa
vào ở dạng stearat hay phức chất với các phối tử hữu cơ khác. Các kim loại
chuyển tiếp được sử dụng làm phụ gia xúc tiến oxy hóa gồm Ti, V, Cr, Mn,
Fe, Co, Ni, Cu, Zn, Ca., trong đó hiệu quả nhất phải kể đến phức stearat của
Co, Mn và Fe. Dưới tác động của tia cực tím (UV), nhiệt độ hoặc các tác
động cơ học, các phụ gia thúc đẩy phản ứng oxy hóa mạch polyme tạo thành
các nhóm chức như carbonyl, cacboxyl, hydroxit, este. tạo điều kiện cho vi
sinh vật dễ dàng tiếp cận để phân hủy tiếp các mạch oligome. Nhờ các chất
xúc tiến oxy hóa, thời gian phân hủy của chất dẻo từ hàng trăm năm giảm
xuống còn vài năm thậm chí là vài tháng
27 trang |
Chia sẻ: thientruc20 | Lượt xem: 398 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Nghiên cứu khả năng phân hủy của polyetylen trong sự có mặt của một số muối stearat kim loại chuyển tiếp (Mn, Fe, Co), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC
VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
-------------
PHẠM THU TRANG
NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG PHÂN HỦY CỦA POLYETYLEN
TRONG SỰ CÓ MẶT CỦA MỘT SỐ MUỐI STEARAT KIM LOẠI
CHUYỂN TIẾP (Mn, Fe, Co)
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ HÓA HỌC
HÀ NỘI - 2017
Công trình được hoàn thành tại
Phòng Vật liệu polyme
Viện Hóa học, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
GS. TS. Nguyễn Văn Khôi
TS. Nguyễn Thanh Tùng
Phản biện 1:...................................................................................................
Phản biện 2:...................................................................................................
Phản biện 3:...................................................................................................
Luận án sẽ được bảo vệ tại hội đồng chấm luận án cấp Nhà nước tại Học
Viện Khoa học và Công nghệ
Vào hồi
Có thể tìm thấy luận án tại:
- Thư viện Học viện Khoa học và Công nghệ
- Thư viện Quốc gia
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chất dẻo đóng vai trò quan trọng gần như không thể thiếu được trong
thế giới hiện đại. Chúng được phát hiện và được xem là những vật liệu đặc
biệt đa dạng, có nhiều ứng dụng hữu ích cho đời sống con người từ những
năm 50 của thế kỷ 20. Tính đến năm 2015, toàn thế giới tiêu thụ 322 triệu tấn
chất dẻo/năm. Số lượng nhựa tiêu thụ bình quân đầu người trung bình năm
2015 trên thế giới 69,7 kg/người, khu vực Châu Á 48,5 kg/người, Mỹ 155
kg/người, Châu Âu 146 kg/người, Nhật 128 kg/người, Việt Nam 41 kg/người
(tăng đáng kể so với năm 2010 là 33 kg/người). Polyetylen là một loại nhựa
nhiệt dẻo được sử dụng rất phổ biến trên thế giới, với mức tiêu thụ trên 76
triệu tấn/năm, chiếm 38% tổng sản lượng nhựa tiêu thụ. Nhu cầu sử dụng
nhựa tăng lên đồng nghĩa với việc tăng lượng chất thải, gây ô nhiễm môi
trường toàn cầu. Năm 2012, lượng rác thải nhựa thải vào môi trường ở Châu
Âu là 25,2 triệu tấn, ở Mỹ là 29 triệu tấn. Theo các báo cáo về môi trường
của Liên hợp Quốc, trên thế giới có khoảng 22 – 43% polyme thải vào môi
trường khi xử lý bằng công nghệ chôn lấp, 35% đổ vào các đại dương. Ở Việt
Nam, lượng chất thải rắn của cả nước phát sinh trung bình hàng năm tăng gần
200% và còn tiếp tục tăng trong thời gian tới, ước tính khoảng 44 triệu
tấn/năm. Theo Tổ chức Bảo tồn Đại dương và Trung tâm kinh doanh môi
trường McKinsey, năm 2015 Việt Nam là nước có lượng rác thải nhựa ra
biển lớn thứ 4 trên thế giới (trung bình 0,73 triệu tấn/năm, chiếm 6% toàn thế
giới). Để giải quyết vấn nạn trên, trong một vài thập kỷ qua các nhà khoa học
đã tập trung nghiên cứu phát triển các vật liệu nhựa có thời gian phân hủy
nhanh mà biện pháp được quan tâm nhất đó là kết hợp với các phụ gia xúc
tiến oxy hóa.
Chất xúc tiến oxy hóa thường là các ion kim loại chuyển tiếp được đưa
vào ở dạng stearat hay phức chất với các phối tử hữu cơ khác. Các kim loại
chuyển tiếp được sử dụng làm phụ gia xúc tiến oxy hóa gồm Ti, V, Cr, Mn,
Fe, Co, Ni, Cu, Zn, Ca..., trong đó hiệu quả nhất phải kể đến phức stearat của
Co, Mn và Fe. Dưới tác động của tia cực tím (UV), nhiệt độ hoặc các tác
động cơ học, các phụ gia thúc đẩy phản ứng oxy hóa mạch polyme tạo thành
các nhóm chức như carbonyl, cacboxyl, hydroxit, este... tạo điều kiện cho vi
sinh vật dễ dàng tiếp cận để phân hủy tiếp các mạch oligome. Nhờ các chất
xúc tiến oxy hóa, thời gian phân hủy của chất dẻo từ hàng trăm năm giảm
xuống còn vài năm thậm chí là vài tháng.
Xuất phát từ những vấn đề trên, luận án tập trung vào: “Nghiên cứu
khả năng phân hủy của polyetylen trong sự có mặt của một số muối stearat
kim loại chuyển tiếp (Mn, Fe, Co)”.
2
2. Mục tiêu của luận án:
Nghiên cứu đánh giá được khả năng phân hủy sinh học (bao gồm quá
trình phân hủy giảm cấp và phân hủy trong môi trường đất) của màng
polyetylen chứa phụ gia xúc tiến oxy hóa là các muối stearat của Fe(III),
Co(II) và Mn(II).
3. Những nội dung nghiên cứu chính của luận án:
- Nghiên cứu quá trình phân hủy giảm cấp của màng PE chứa phụ gia
xúc tiến oxy hóa trong điều kiện thử nghiệm gia tốc (thử nghiệm oxy hóa
nhiệt, oxy hóa quang nhiệt ẩm) và thử nghiệm tự nhiên.
- Nghiên cứu quá trình phân hủy và mức độ phân hủy sinh học của
màng PE có phụ gia xúc tiến oxy trong đất.
4. Cấu trúc của luận án
Luận án có 119 trang, gồm các phần mở đầu, tổng quan, thực nghiệm,
kết quả và thảo luận, kết luận, danh mục các công trình khoa học của tác giả
và tài liệu tham khảo, 62 hình và 20 bảng với 130 tài liệu tham khảo.
NỘI DUNG LUẬN ÁN
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN
Tổng quan đã trình bày tổng quát về tình hình sản xuất và tiêu thụ chất
dẻo, giới thiệu chung về các polyolefin, các quá trình phân hủy của
polyolefin, các biện pháp tăng khả năng phân hủy và quá trình phân hủy của
polyetylen (PE) chứa phụ gia xúc tiến oxy hóa cũng như tình hình nghiên cứu
về polyetylen tự hủy trong nước. Polyetylen nói riêng và polyolefin nói
chung được sử dụng phổ biến trên thế giới, đặc biệt là trong lĩnh vực bao bì
chúng chiếm đến 80%. Tuy nhiên polyolefin rất khó phân hủy trong môi
trường tự nhiên, thời gian phân hủy tính bằng đơn vị thế kỷ gây nên vấn nạn
ô nhiễm môi trường toàn cầu. Phương pháp hiệu quả và được quan tâm nhất
là kết hợp nhựa polyetylen với các phụ gia xúc tiến oxy hóa, bản chất là các
muối hữu cơ của các kim loại chuyển tiếp. Khi có mặt của phụ gia này
polyolefin sẽ phân hủy qua 2 giai đoạn:
- Giai đoạn 1: phản ứng của oxy trong không khí với polyme, các mạch
polyme bị cắt nhỏ dưới tác động của ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm... hình thành
các nhóm chức phân cực như carbonyl, carboxyl, este, aldehyde, alcohol...
- Giai đoạn 2: phân hủy sinh học bởi sự oxy hóa của các vi sinh vật như
nấm, vi khuẩn... Chúng phân hủy các mạch oligome còn lại thành CO2 và H2O.
Tổng quan cho thấy, trong nước cũng đã có một số nhóm nghiên cứu để
tăng khả năng phân hủy của polyetylen, tuy nhiên các nghiên cứu này đều tập
trung và chế tạo bend với tinh bột. Do đó nâng cao khả năng phân hủy của
polyetylen bằng các muối stearat kim loại chuyển tiếp là một hướng đi mới,
hứa hẹn đầy triển vọng.
3
CHƢƠNG 2. THỰC NGHIỆM
2.1. Hóa chất và thiết bị
2.1.1. Nguyên liệu và hóa chất
Hạt nhựa polyetylen tỷ trọng cao (HDPE), hạt nhựa polyetylen mạch
thẳng tỷ trọng thấp (LLDPE), hạt nhựa polyetylen tỷ trọng thấp (LDPE), phụ
gia xúc tiến oxy hóa Mn(II) stearat, Fe(III) stearat và Co(II) stearat, chất độn
canxi cacbonat (CaCO3).
2.1.2. Dụng cụ và thiết bị
Thiết bị đùn thổi màng SJ-35, máy ép đùn hai trục vít liên hợp máy cắt
hạt Bao Pin, thiết bị đo cơ lý đa năng INSTRON 5980, thiết bị thử nghiệm
gia tốc thời tiết UVCON Model UV-260, quang phổ kế hồng ngoại biến đổi
Fourier NEXUS 670, hệ thống phân tích nhiệt trọng lượng TGA: máy
TGA209F1, Netzsch, hệ thống phân tích nhiệt lượng quét vi sai DSC: máy
DSC204F1Phoneix, Netzsch, kính hiển vi điện tử quét (SEM) JEOL 6490 và
SM-6510LV, thiết bị đo độ dày màng điện tử Mitutoyo IP67, cân điện tử:
Scientech (Mỹ), độ chính xác 0,001 (g), tủ sấy và một số thiết bị, dụng cụ
phòng thí nghiệm.
2.2. Phƣơng pháp chế tạo màng
Quá trình thổi màng được thực hiện trên thiết bị đùn thổi màng series
SJ-35 với đường kính trục vít 35 mm, tỷ lệ L/D 28:1. Hình ảnh thiết bị đùn
thổi màng SJ 35 được thể hiện trên hình 2.2.
Hình 2.2. Hình ảnh thiết bị đùn thổi màng SJ35
2.3. Phƣơng pháp nghiên cứu
2.3.1. Ảnh hưởng của tỷ lệ hỗn hợp phụ gia xúc tiến oxy hóa đến quá trình
phân hủy giảm cấp của màng polyetylen (PE)
Đơn phối liệu chế tạo các mẫu màng LLDPE chứa hỗn hợp phụ gia xúc
tiến oxy hóa được tổng hợp trong bảng 2.1.
4
Bảng 2.1. Đơn phối liệu chế tạo màng LLDPE chứa hỗn hợp phụ gia xúc tiến
oxy hóa (Phần khối lượng)
Kí
hiệu
mẫu
LLDPE
Phụ gia xúc tiến oxy
hóa
Tỷ lệ phụ gia xúc tiến
oxy hóa MnSt2:
FeSt3: CoSt2 MnSt2 FeSt3 CoSt2
M1 97 0,750 2,250 0 1:3:0
M2 97 2,455 0,54 0 9:2:0
M3 97 2,348 0,522 0,130 18:4:1
M4 97 2,400 0,5333 0,0667 18:4:0,5
Tiến hành thổi màng LLDPE với các hỗn hợp phụ gia xúc tiến oxy hóa
khác nhau. Mẫu màng được thực hiện quá trình phân hủy oxy hóa quang
nhiệt ẩm và quá trình phân hủy nhiệt để đánh giá mức độ phân hủy.
2.3.2. Ảnh hưởng của hàm lượng hỗn hợp phụ gia xúc tiến oxy hóa đến
quá trình phân hủy giảm cấp của màng polyetylen (PE)
Tiến hành thổi màng PE (HDPE, LLDPE) với chiều dày 30 μm. Phụ
gia xúc tiến oxy hóa được đưa vào màng với hàm lượng 0,1; 0,2 và 0,3 %.
Ký hiệu các mẫu màng được tổng hợp trong bảng 2.3.
Bảng 2.3. Ký hiệu các mẫu màng PE
Nhựa
PE
Ký
hiệu
Phụ gia xúc
tiến oxy hóa
(%)
Nhựa
PE
Ký hiệu
Phụ gia xúc
tiến oxy hóa
(%)
HDPE
HD0 0%
LLDPE
LLD0 0%
HD1 0,1% LLD1 0,1%
HD2 0,2% LLD2 0,2%
HD3 0,3% LLD3 0,3%
Mẫu màng được thực hiện quá trình phân hủy oxy hóa nhiệt, oxy hóa
quang nhiệt ẩm và già hóa tự nhiên để đánh giá mức độ phân hủy giảm cấp
trong môi trường.
2.3.3. Nghiên cứu quá trình phân hủy giảm cấp của màng PE chứa CaCO3
và phụ gia xúc tiến oxy hóa
Tiến hành thổi màng HDPE dày 30 μm, chứa 0,3% phụ gia xúc tiến
oxy hóa (tương đương với 3% masterbatch chứa phụ gia xúc tiến oxy hóa)
và chất độn CaCO3 với hàm lượng canxi cacbonat khác nhau 5, 10 và 20%
(ký hiệu lần lượt HD53, HD103, HD203). Mẫu màng được thực hiện quá
trình phân hủy oxy hóa quang nhiệt ẩm.
2.3.4. Nghiên cứu khả năng phân hủy của màng PE trong điều kiện tự
nhiên
- Chôn trong đất.
- Xác định %CO2 thoát ra
5
CHƢƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Ảnh hƣởng của tỷ lệ hỗn hợp phụ gia xúc tiến oxy hóa đến quá trình
phân hủy giảm cấp của màng polyetylen (PE)
3.1.1. Tính chất cơ học của màng LLDPE sau khi oxy hóa
Tính chất cơ học của các mẫu màng sau quá trình phân hủy oxy hóa
nhiệt và phân hủy oxy hóa quang nhiệt ẩm được trình bày trong hình 3.1a và
3.1 b.
M1 M2 M3 M4
0
9
18
27
§
é
b
Òn
k
Ðo
®
ø
t
(M
P
a)
MÉu
Ban ®Çu
Sau 5 ngµy oxy hãa nhiÖt
Sau 96 giê oxy hãa quang, nhiÖt, Èm
M1 M2 M3 M4
0
200
400
600
800
1000
§
é
d
·
n
d
µ
i
k
h
i
®
ø
t
(%
)
MÉu
Ban ®Çu
Sau 5 ngµy oxy hãa nhiÖt
Sau 96 giê oxy hãa quang, nhiÖt, Èm
Hình 3.1 a. Độ bền kéo đứt của các
mẫu màng LLDPE chứa hỗn hợp phụ
gia oxy hóa sau khi oxy hóa
Hình 3.1 b. Độ dãn dài khi đứt của
các mẫu màng LLDPE chứa hỗn hợp
phụ gia oxy hóa sau khi oxy hóa
Kết quả cho thấy, ở 2 mẫu màng LLDPE không chứa CoSt2, khi tăng tỷ
lệ MnSt2/FeSt3 trong màng thì khả năng phân hủy oxy hóa nhiệt tăng: độ bền
cơ lý của mẫu M2 giảm nhiều hơn mẫu M1 sau 5 ngày oxy hóa nhiệt, nhưng
khả năng phân hủy oxy hóa quang nhiệt ẩm lại giảm: sau 96 giờ oxy hóa, tính
chất cơ lý của màng M1 giảm nhiều hơn mẫu M2.
Tính chất cơ lý của 2 màng chứa CoSt2 trong cả 2 trường hợp oxy hóa
quang và oxy hóa nhiệt đều nhỏ hơn so với màng không chứa CoSt2. Kết quả
còn cho thấy khi tăng tỷ lệ CoSt2 thì thúc đẩy quá trình phân hủy nhanh hơn.
3.1.2. Phổ IR của màng LLDPE sau khi oxy hóa
Sự thay đổi trong cường độ pic 1700 cm-1 của các màng sau 96 giờ oxy
hóa quang nhiệt ẩm được thể hiện trên hình 3.2.
Hình 3.2. Sự thay đổi cường độ pic 1700 cm-1 của
các màng LLDPE sau khi oxy hóa
6
Kết quả cho thấy, cường độ pic 1700 cm-1 của mẫu M3 sau khi oxy hóa
quang nhiệt ẩm mạnh nhất. Sự thay đổi cường độ hấp thụ của nhóm carbonyl
của các mẫu màng LLDPE đều phù hợp với sự biến đổi tính chất cơ học như
đã trình bày ở mục 3.1.1.
Do đó trong luận án này, hỗn hợp phụ gia MnSt2/FeSt3/CoSt2 với tỷ lệ
18:4:1 được sử dụng cho các nghiên cứu tiếp theo.
3.2. Ảnh hƣởng của hàm lƣợng hỗn hợp phụ gia xúc tiến oxy hóa đến
quá trình phân hủy giảm cấp của màng polyetylen (PE)
3.2.1. Quá trình phân hủy oxy hóa nhiệt của màng PE
3.2.1.1. Tính chất cơ học của màng PE sau khi oxy hóa nhiệt
Để đánh giá khả năng phân hủy của polyme thì độ dãn dài khi đứt hay
được dùng hơn các tính chất khác. Theo tiêu chuẩn ASTM D5510 và ASTM D
3826, màng được coi là tự hủy khi giá trị độ dãn dài khi đứt ≤ 5%. Độ dãn dài
khi đứt của các mẫu màng PE chứa và không chứa phụ gia xúc tiến oxy hóa
trong quá trình oxy hóa nhiệt được thể hiện tương ứng trong hình 3.5 và 3.6.
Hình 3.5. Sự thay đổi độ dãn dài khi đứt
của các mẫu màng HDPE sau 12 ngày
oxy hóa nhiệt
Hình 3.6. Sự thay đổi độ dãn dài khi đứt
của các mẫu màng LLDPE sau 7 ngày
oxy hóa nhiệt
Hình 3.6 cho thấy sau 7 ngày oxy hóa nhiệt độ dãn dài khi đứt của
màng LLD1 còn 2,8%, màng LLD2 còn 1,2%, màng LLD3 đã mất hoàn toàn
tính chất cơ học, trong khi màng LLD0 chỉ giảm 20,1%. Độ dãn dài khi đứt
của các mẫu màng HDPE cũng giảm chậm hơn màng LLDPE, giá trị này ở
các màng HD1, HD2, HD3 sau 12 ngày oxy hóa nhiệt còn lại lần lượt là
283,6%; 112,7%; 4,8%. Như vậy dù có hay không có phụ gia xúc tiến oxy
hóa thì nhựa HDPE đều bị oxy hóa chậm hơn LLDPE.
Kết quả cho thấy sự có mặt của phụ gia xúc tiến oxy hóa đã làm tăng
tốc quá trình lão hóa nhiệt của nhựa polyetylen, làm giảm tính chất cơ học
của mẫu màng.
3.2.1.2. Phổ IR của màng PE sau khi oxy hóa nhiệt
Kết quả đo phổ IR của một số mẫu màng PE chứa phụ gia xúc tiến oxy
hóa ban đầu và sau khi oxy hóa nhiệt được trình bày trong hình 3.7 a và b.
0
200
400
600
800
1000
0 3 6 9 12
Đ
ộ
d
ãn
d
ài
k
h
i
đ
ứ
t
(%
)
Thời gian (ngày)
HD0
HD1
HD2
HD3
0
200
400
600
800
1000
1200
0 1 2 3 4 5 6 7
Đ
ộ
d
ãn
d
ài
k
h
i
đ
ứ
t
(%
)
Thời gian (ngày)
LLD0 LLD1
LLD2 LLD3
7
Hình 3.7a. Phổ IR của các mẫu màng
HDPE sau khi oxy hóa nhiệt
Hình 3.7b. Phổ IR của các mẫu màng
LLDPE sau khi oxy hóa nhiệt
Hình 3.7 a và b cho thấy sự tăng độ hấp thụ của nhóm carbonyl theo
thời gian ở các mẫu chứa phụ gia xúc tiến oxy hóa. Phổ hồng ngoại cho thấy
pic 1640 - 1850 cm
-1
đặc trưng cho các nhóm carbonyl, được xác định bởi sự
chồng chéo của các nhóm chức như: acid (1710-1715 cm-1), keton (1714 cm-
1
), aldehyde (1725 cm
-1
), este (1735 cm
-1
) và lacton (1780 cm
-1) được quan
sát, do đó chỉ ra sự hiện diện của các sản phẩm oxy hóa khác nhau. Cực đại
hấp thụ có thể được gán cho acid carboxylic và keton là các thành phần chính,
tiếp theo là este, tương tự với kết quả thu được của Chiellini và các cộng sự.
3.2.1.3. Chỉ số carbonyl (CI) của màng PE sau khi oxy hóa nhiệt
Hình 3.10 và 3.11 biểu diễn sự thay đổi chỉ số carbonyl của các mẫu
màng HDPE và LLDPE chứa và không chứa phụ gia xúc tiến oxy hóa trong quá
trình phân hủy oxy hóa nhiệt.
Hình 3.10. Chỉ số carbonyl của các mẫu
màng HDPE sau 12 ngày oxy hóa nhiệt
Hình 3.11. Chỉ số carbonyl của các mẫu
màng LLDPE sau 7 ngày oxy hóa nhiệt
Chỉ số CI tỷ lệ với độ hấp thụ của nhóm carbonyl trên phổ IR. Với các
mẫu màng HDPE chứa phụ gia xúc tiến oxy hóa, khi tăng thời gian oxy hóa,
mức độ hấp thụ oxy tăng và tốc độ hình thành các sản phẩm trung gian tăng
dẫn đến sự gia tăng nhanh chóng nồng độ nhóm carbonyl. Đồng thời khi tăng
hàm lượng phụ gia xúc tiến oxy hóa thì chỉ số carbonyl cũng tăng lên. Sự có
mặt của phụ gia xúc tiến oxy hóa có lẽ đã đẩy nhanh quá trình oxy hóa của
các mẫu màng.
3.2.1.4. Nhiệt lượng quét vi sai (DSC) của màng PE sau khi oxy hóa nhiệt
Nhiệt độ nóng chảy (Tm), nhiệt nóng chảy (ΔHf), phần trăm kết tinh (IC)
0
5
10
0 3 6 9 12
C
h
ỉ
số
c
ar
b
o
n
yl
(
C
I)
Thời gian (ngày)
HD0
HD1
HD2
HD3
0
5
10
15
20
0 1 3 5 7
C
h
ỉ
số
c
ar
b
o
n
yl
(
C
I)
Thời gian (ngày)
LLD0
LLD1
LLD2
LLD3
8
của các mẫu HDPE và LLDPE trước và sau 12 ngày oxy hóa nhiệt được tổng
hợp trong bảng 3.1.
Bảng 3.1. Nhiệt độ nóng chảy (Tm), nhiệt nóng chảy (ΔHf), phần trăm kết tinh
của các mẫu HDPE, LLDPE ban đầu và sau 12 ngày oxy hóa nhiệt
Mẫu
Ban đầu Oxy hóa nhiệt 12 ngày
Tm (
oC) ΔHf (J/g) IC (%) Tm (
oC) ΔHf (J/g) IC (%)
HD0 135,3 172,3 58,8 135,1 175,0 59,7
HD1 134,8 170,3 58,1 133,7 186,3 63,6
HD2 134,9 170,7 58,3 133,5 190,9 65,2
HD3 134,6 170,5 58,2 133,0 195,2 66,6
LLD0 121,8 73,61 25,1 121,5 86,8 29,6
LLD1 121,5 73,67 25,1 120,6 124,5 42,5
LLD2 121,3 73,74 25,2 120,3 130,6 44,6
LLD3 121,0 73,86 25,2 120,0 139,6 47,7
Phần trăm kết tinh thu được từ giản đồ DSC cho thấy khi oxy hóa nhiệt
Ic của các mẫu đã tăng, và đối với cả hai loại nhựa HDPE và LLDPE, phần
trăm kết tinh ở các mẫu chứa phụ gia xúc tiến oxy hóa tăng mạnh hơn so với
các mẫu đối chứng HD0, LLD0. So sánh hai loại nhựa HDPE và LLDPE cho
thấy với cùng hàm lượng phụ gia xúc tiến oxy hóa thì độ biến thiên phần trăm
kết tinh của các mẫu LLDPE (17,4 – 22,4%) cao hơn nhiều so với mẫu HDPE
(5,5 – 8,4%). Đây chính là một minh chứng giúp khẳng định nhựa LLDPE bị
phân hủy nhanh hơn nhựa HDPE dù có phụ gia xúc tiến oxy hóa hay không.
3.2.1.5. Phân tích nhiệt trọng lượng (TGA) của màng PE sau khi oxy hóa nhiệt
Giản đồ phân tích nhiệt trọng lượng của một số mẫu màng PE sau khi
oxy hóa nhiệt được trình bày trong hình 3.13.
HD0 – 12 ngày LLD0 – 12 ngày
HD3 – 12 ngày LLD3 – 12 ngày
Hình 3.13. Giản đồ TGA của một số mẫu màng PE sau khi oxy hóa nhiệt
9
Kết quả cho thấy quá trình phân hủy của các mẫu màng ban đầu và sau
12 ngày oxy hóa nhiệt đều chỉ có 1 giai đoạn duy nhất. Nhiệt độ phân hủy
của mẫu HD3, LLD3 sau 12 ngày oxy hóa nhiệt thấp hơn so với mẫu HD0 và
LLD0. Điều này đã khẳng định sự suy giảm khối lượng phân tử của các mẫu
màng khi bị oxy hóa nhiệt.
3.2.1.6. Hình thái học bề mặt của màng PE sau khi oxy hóa nhiệt
Sự thay đổi hình thái học bề mặt ở các mẫu màng HDPE sau 12 ngày
oxy hóa nhiệt và màng LLDPE sau 7 ngày oxy hóa nhiệt được biểu diễn lần
lượt trên hình 3.14 và hình 3.15.
PE (ban đầu) HD0 HD2 HD3
Hình 3.14. Ảnh SEM bề mặt của các màng HDPE sau 12 ngày oxy hóa nhiệt
LLD0 LLD1 LLD2 LLD3
Hình 3.15. Ảnh SEM bề mặt của các màng LLDPE sau 7 ngày oxy hóa nhiệt
Ảnh SEM cho thấy bề mặt mẫu màng đối chứng sau khi oxy hóa nhiệt
vẫn tương đối nhẵn, chỉ xuất hiện một vài khuyết tật. Ảnh SEM của các mẫu
màng chứa phụ gia xúc tiến oxy hóa cho thấy bề mặt hoàn toàn bị phá hủy,
phát triển thành các vết lõm và các rãnh do hoạt tính xúc tác của các phụ gia
xúc tiến oxy hóa dưới tác động của nhiệt.
3.2.2. Quá trình phân hủy oxy hóa quang, nhiệt, ẩm
3.2.2.1. Tính chất cơ học của màng PE sau khi oxy hóa quang, nhiệt, ẩm
Mức độ suy giảm độ dãn dài khi đứt của các mẫu màng PE trong quá
trình phân hủy oxy hóa quang nhiệt ẩm được thể hiện trong hình 3.18 và 3.19.
Hình 3.18. Độ dãn dài khi đứt của các
mẫu màng HDPE sau 96 giờ oxy hóa
quang, nhiệt, ẩm
Hình 3.19. Độ dãn dài khi đứt của các
mẫu màng LLDPE sau 120 giờ oxy hóa
quang, nhiệt, ẩm
0
200
400
600
800
0 24 48 72 96
Đ
ộ
d
ãn
d
ài
k
h
i
đ
ứ
t
(%
)
Thời gian (giờ)
HD0
HD1
HD2
HD3
0
200
400
600
800
1000
0 24 48 72 96 120
Đ
ộ
d
ãn
d
ài
k
h
i
đ
ứ
t
(%
)
Thời gian (giờ)
LLD0
LLD1
LLD2
LLD3
10
Độ dãn dài khi đứt giảm khi tăng thời gian lão hóa cấp tốc quang nhiệt
ẩm và giảm ngay khi chiếu UV. Kết quả cho thấy sau 96 giờ lão hóa gia tốc,
độ dãn dài khi đứt của mẫu HD1, HD2, HD3 lần lượt là 4,7 %; 2,5 %, 0,2 %
trong khi giá trị này ở mẫu HD0 là 478,4%; độ dãn dài khi đứt của mẫu
LLD1, LLD2, LLD3 lần lượt là 3,2%; 2,1%, 0,2%, mẫu LLD0 còn 365,9%.
So sánh quá trình phân hủy oxy hóa nhiệt và oxy hóa quang nhiệt ẩm
của các mẫu màng PE cho thấy:
- Trong cả hai trường hợp thì màng HDPE đều lão hóa chậm hơn màng
LLDPE. Điều này là do sự khác nhau về hàm lượng phần vô định hình trong
hai loại nhựa này, do sự cắt mạch chỉ xảy ra ở vùng vô định hình. Bởi
LLDPE là polyme có độ kết tinh thấp (khoảng 25%), phần còn lại là vô định
hình do đó oxy dễ dàng thâm nhập vào mạng lưới polyme, oxy hóa mạch
LLDPE tạo thành các sản phẩm oxy hóa trong khi đó HDPE có độ kết tinh
cao hơn (khoảng 58%).
- Tính chất cơ học của cả hai loại màng L