1. Tính cấp thiết của đềtài nghiên cứu
Cạnh tranh là sựtranh giành, sựganh đua giữa các
thành viên tham gia kinh tếthịtrường để đạt được lợi nhuận tối
đa trong điều kiện nguồn lực hạn chế. Cạnh tranh trong kinh tế
thịtrường có thểmang lại lợi ích cho người này, doanh nghiệp
này nhưng lại gây ra các thiệt hại cho người khác doanh nghiệp
khác. Song, xét trên phạm vi toàn xã hội thì cạnh tranh luôn có
tác động tích cực: Cạnh tranh tạo ra động lực cải tiến khoa học
công nghệvà đào thải các công nghệlỗi thời. Cạnh tranh
hướng việc sửdụng các nhân tốsản xuất vào những nơi có có
lợi thế đểsản xuất ra của cải xã hội ngày càng có hiệu quảhơn.
Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế
từcơchếkếhoạch hoá tập trung sang kinh tếthịtrường và
đang trong lộtrình hội nhập kinh tếquốc tế. Do vậy, các doanh
nghiệp trong nước đang từng bước phải chấp nhận và đối diện
với sựcạnh tranh ngày càng gay gắt hơn.
Trong khoảng 3 thập kỷvừa qua, việc trồng mía và
công nghiệp chếbiến đường mía ởViệt Nam phát triển khá
mạnh và có những bước tiến đáng khích lệ, đặc biệt là quy mô
sản xuất của ngành đường mía ngày càng tăng lên, chất lượng
sản phẩm ngày càng được cải thiện hơn, sản phẩm đường
mía đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu tiêu dùng đường
trong nước. Tuy nhiên, ngành đường mía Việt Nam vẫn còn
nhiều hạn chếvềsản xuất mía nguyên liệu; mối quan hệvà sự
phối hợp giữa nhà máy đường với hộnông dân trồng mía; quy
mô, công nghệvà thiết bịcủa các nhà máy đường; cơchếchính
sách và trình độquản lý. Những hạn chếnày dẫn đến chi phí
sản xuất và giá thành sản xuất đường mía ởViệt Nam khá cao,
rất khó cạnh tranh trên thịtrường quốc tế.
Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành hàng đường
mía của Việt Nam là vấn đềmang tính thời sựvà đang được
Đảng, Chính phủ, các cấp chính quyền, các doanh nghiệp,
nhiều nông dân hết sức quan tâm. Chỉcó nâng cao năng lực
được cạnh tranh thì ngành hàng đường mía của Việt Nam
mới có thểtồn tại và phát triển bền vững.
2. Một sốcông trình nghiên cứu liên quan đến luận án
Trên thếgiới đã có nhiều công trình nghiên vềnăng lực
cạnh tranh quốc gia như: “Năng lực cạnh tranh quốc gia” của M.
Porter năm 1990; “Cạnh tranh một sốngành công nghiệp Việt
Nam” của DIS và JICA và nhiều công trình khác nữa. Trong
nước cũng đã có một sốcông trình nghiên cứu liên quan đến
cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của ngành đường mía Việt
Nam như: “Nghiên cứu năng lực cạnh tranh và tác động xã hội
của ngành công nghiệp đường mía trong bối cảnh hội nhập quốc
tế” do Quỹnghiên cứu ICARD-MISPA tài trợ(2004); ”Nghiên
cứu ngành đường mía Việt Nam đến 2010-2020”; do BộNN và
PTNT và Cơquan Phát triển Pháp thực hiện (1999); ”Nghiên
cứu vềqui hoạch vùng nguyên liệu, nghiên cứu tổng quan ngành
hàng đường mía” của Viện Quy hoạch và Thiết kếnông nghiệp
(2005); “Nghiên cứu giải pháp cơbản đểngành đường mía phát
triển bền vững” của Nguyễn Xuân Thảo (2004) và nhiều nghiên
cứu khác. Các nghiên cứu tiêu biểu trên đây đã đềcập một số
vấn đềliên quan đến năng lực cạnh tranh của ngành hàng đường
mía. Song, cho đến nay vẫn chưa có nghiên cứu nào đánh giá
thực sựtoàn diện và đầy đủvềnăng lực cạnh tranh của công
nghiệp đường mía làm cơsởcho việc xây dựng các giải pháp và
đềxuất cơchếchính sách đối với ngành hàng này. Do vậy,
chúng tôi đã lựa chọn đềtài “Nghiên cứu năng lực cạnh tranh
của ngành đường mía Việt Nam trong điều kiện hội nhập
kinh tế”nhằm nghiên cứu cảvềlý thuyết và thực tế để đánh giá
năng lực cạnh tranh và đềxuất các giải pháp của ngành đường
mía Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tếThếgiới.
14 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 4212 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tóm tắt luận án Nghiên cứu năng lực cạnh tranh của ngành đường mía Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
NGUYỄN HỮU ĐIỆP
NGHI£N CøU N¡NG LùC C¹NH TRANH
CñA NGμNH §−êng mÝa viÖt nam
trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ
Chuyªn ngµnh: kinh tÕ c«ng nghiÖp
M∙ sè : 62.31.09.01
tãm t¾t luËn ¸n tiÕn sü kinh tÕ
HÀ NỘI-2008
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ
1. Nguyễn Hữu Điệp (2006) “Định hướng cơ bản về tăng cường năng
lực cạnh tranh sản phẩm đường mía của Việt Nam tới năm 2010”
Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, (2), tr. 12-13.
2. Nguyễn Hữu Điệp (2005) “Chính sách hỗ trợ vốn của Nhà nước
cho các nhà máy chế biến đường” Tạp chí Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn, (1), tra. 108-110.
3. Nguyễn Hữu Điệp (2005) Những bất cập trong môi trường chính
sách vĩ mô liên quan đến khả năng cạnh tranh của ngành mía
đường” Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, (10),
tr. 74-75;79.
4. Nguyễn Hữu Điệp (2005) “Sắp xếp đổi mới và hỗ trợ doanh nghiệp
trong ngành mía đường” Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn. (17), tr. 13-14;56.
5. Nguyễn Hữu Điệp (2004) “Xúc tiến thương mại hợp lực bốn nhà,
động lực để nông sản xuất khẩu phát triển” Tạp chí Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn, (4), tr. 394-395.
6. Nguyễn Hữu Điệp (2003) “Kinh nghiệm đẩy mạnh nông sản xuất
khẩu của một số quốc gia” Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn, (4), tr. 517-518.
7. Nguyễn Hữu Điệp (2007) “Nâng cao khả năng cạnh tranh của sản
phẩm mía đường ở nước ta” Báo Quân đội Nhân dân, số 16464
ngày 23/2/2007.
8. Nguyễn Hữu Điệp (2003) “Phát triển cơ cấu hàng nông sản xuất
khẩu” Báo Doanh nghiệp nhỏ và vừa ngành nghề nông thôn Việt
Nam, số 31 ngày 16/4/2003.
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Cạnh tranh là sự tranh giành, sự ganh đua giữa các
thành viên tham gia kinh tế thị trường để đạt được lợi nhuận tối
đa trong điều kiện nguồn lực hạn chế. Cạnh tranh trong kinh tế
thị trường có thể mang lại lợi ích cho người này, doanh nghiệp
này nhưng lại gây ra các thiệt hại cho người khác doanh nghiệp
khác. Song, xét trên phạm vi toàn xã hội thì cạnh tranh luôn có
tác động tích cực: Cạnh tranh tạo ra động lực cải tiến khoa học
công nghệ và đào thải các công nghệ lỗi thời. Cạnh tranh
hướng việc sử dụng các nhân tố sản xuất vào những nơi có có
lợi thế để sản xuất ra của cải xã hội ngày càng có hiệu quả hơn.
Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế
từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường và
đang trong lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế. Do vậy, các doanh
nghiệp trong nước đang từng bước phải chấp nhận và đối diện
với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn.
Trong khoảng 3 thập kỷ vừa qua, việc trồng mía và
công nghiệp chế biến đường mía ở Việt Nam phát triển khá
mạnh và có những bước tiến đáng khích lệ, đặc biệt là quy mô
sản xuất của ngành đường mía ngày càng tăng lên, chất lượng
sản phẩm ngày càng được cải thiện hơn, sản phẩm đường
mía đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu tiêu dùng đường
trong nước. Tuy nhiên, ngành đường mía Việt Nam vẫn còn
nhiều hạn chế về sản xuất mía nguyên liệu; mối quan hệ và sự
phối hợp giữa nhà máy đường với hộ nông dân trồng mía; quy
mô, công nghệ và thiết bị của các nhà máy đường; cơ chế chính
sách và trình độ quản lý. Những hạn chế này dẫn đến chi phí
sản xuất và giá thành sản xuất đường mía ở Việt Nam khá cao,
rất khó cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành hàng đường
mía của Việt Nam là vấn đề mang tính thời sự và đang được
Đảng, Chính phủ, các cấp chính quyền, các doanh nghiệp,
nhiều nông dân hết sức quan tâm. Chỉ có nâng cao năng lực
được cạnh tranh thì ngành hàng đường mía của Việt Nam
mới có thể tồn tại và phát triển bền vững.
2
2. Một số công trình nghiên cứu liên quan đến luận án
Trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên về năng lực
cạnh tranh quốc gia như: “Năng lực cạnh tranh quốc gia” của M.
Porter năm 1990; “Cạnh tranh một số ngành công nghiệp Việt
Nam” của DIS và JICA và nhiều công trình khác nữa. Trong
nước cũng đã có một số công trình nghiên cứu liên quan đến
cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của ngành đường mía Việt
Nam như: “Nghiên cứu năng lực cạnh tranh và tác động xã hội
của ngành công nghiệp đường mía trong bối cảnh hội nhập quốc
tế” do Quỹ nghiên cứu ICARD-MISPA tài trợ (2004); ”Nghiên
cứu ngành đường mía Việt Nam đến 2010-2020”; do Bộ NN và
PTNT và Cơ quan Phát triển Pháp thực hiện (1999); ”Nghiên
cứu về qui hoạch vùng nguyên liệu, nghiên cứu tổng quan ngành
hàng đường mía” của Viện Quy hoạch và Thiết kế nông nghiệp
(2005); “Nghiên cứu giải pháp cơ bản để ngành đường mía phát
triển bền vững” của Nguyễn Xuân Thảo (2004) và nhiều nghiên
cứu khác. Các nghiên cứu tiêu biểu trên đây đã đề cập một số
vấn đề liên quan đến năng lực cạnh tranh của ngành hàng đường
mía. Song, cho đến nay vẫn chưa có nghiên cứu nào đánh giá
thực sự toàn diện và đầy đủ về năng lực cạnh tranh của công
nghiệp đường mía làm cơ sở cho việc xây dựng các giải pháp và
đề xuất cơ chế chính sách đối với ngành hàng này. Do vậy,
chúng tôi đã lựa chọn đề tài “Nghiên cứu năng lực cạnh tranh
của ngành đường mía Việt Nam trong điều kiện hội nhập
kinh tế” nhằm nghiên cứu cả về lý thuyết và thực tế để đánh giá
năng lực cạnh tranh và đề xuất các giải pháp của ngành đường
mía Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế Thế giới.
3. Mục đích của luận án
- Góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về năng lực
cạnh tranh của ngành kinh tế nói chung ngành đường mía nói
riêng trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
- Đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của ngành
đường mía của Việt Nam, chỉ ra những mặt mạnh, mặt yếu và
3
nguyên nhân hạn chế năng lực cạnh tranh của ngành đường mía
của Việt Nam .
- Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao
năng lực cạnh tranh của ngành đường mía của Việt Nam trong
diều kiện hội nhập kinh tế .
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận án là năng lực
cạnh tranh của ngành đường mía Việt Nam trong tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: (i) Các tác nhân trong ngành hàng đường
mía từ khâu sản xuất nguyên liệu đến khâu chế biến, lưu thông
và tiêu thụ sản phẩm đường; (ii) Năng lực cạnh tranh của ngành
hàng đường mía được xem xét thông qua các chỉ tiêu đánh giá
kết quả và hiệu quả sản xuất, kinh doanh sản phẩm đường mía
như: sản lượng, thị phần, chi phí và lợi nhuận.
Về không gian: Luận án nghiên cứu về ngành hàng
đường mía trên phạm vi cả nước.
Về thời gian: Luận án nghiên cứu các vấn đề liên quan
đến năng lực cạnh tranh của ngành hàng đường mía từ năm
1990 trở lại đây.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận và cách tiếp cận
Luận án vận dụng phương pháp luận của trường phái
Tân cổ điển và sử dụng 3 cách tiếp cận: (i). Tiếp cận theo lý
thuyết hệ thống; (ii). Tiếp cận theo lý thuyết kinh tế phát triển ;
(iii). Tiếp cận theo phương pháp phân tích kinh tế ngành hàng.
5.2. Phương pháp thu thập thông tin, số liệu:
Luận án đã vận dụng các phương pháp: (i). Phương
pháp kế thừa; (ii). Phương pháp thống kê kinh tế.
4
5.3. Phương pháp phân tích
Để hoàn thành các nội dung nghiên cứu, tác giả luận án
đã vận dụng các phương pháp phân tích sau: (i). Các phương
pháp nghiên cứu truyền thống của khoa học kinh tế; (ii).
Phương pháp phân tích kinh tế ngành hàng; (iii). Phương pháp
phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức (phân tích
SWOT); (iv). Phương pháp phân tích đối chiếu chính sách.
6. Những đóng góp của luận án
Luận án có những đóng góp chủ yếu sau đây:
Một là: Hệ thống hoá, làm rõ các vấn đề lý luận về cạnh
tranh. Đặc biệt, đề tài đã làm rõ chuỗi giá trị ngành hàng đường
mía, xây dựng phương pháp đánh giá năng lực cạnh tranh của
ngành đường mía trong kinh tế thị trường và tiến trình hội nhập.
Hai là: Mô tả bức tranh tổng quát về sự hình thành và
phát triển của ngành đường mía Việt Nam, những đóng góp của
ngành đường mía đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam trong
điều kiện đổi mới.
Ba là: Đánh giá đúng năng lực cạnh tranh của ngành
đường mía Việt Nam, chỉ ra những thành tựu, hạn chế và
nguyên nhân hạn chế năng lực cạnh tranh của ngành đường mía
Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế thế giới và khu vực.
Bốn là: Đề xuất về định hướng và giải pháp ở cả tầm vi
mô và vĩ mô nhằm tăng cường năng lực cạnh tranh ngành
đường mía Việt Nam những năm tới.
7. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu
tham khảo, các phụ lục có liên quan, luận án gồm 3 chương:
Chương 1: Luận cứ cơ bản về năng lực cạnh tranh của
ngành trong điều kiện hội nhập kinh tế.
Chương 2: Phân tích năng lực cạnh tranh của ngành
đường mía ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Định hướng, giải pháp nâng cao năng lực
cạnh tranh của ngành đường mía ở Việt Nam những năm tới.
5
Chương 1
LUẬN CỨ CƠ BẢN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA
NGÀNH TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ
1.1. Cạnh tranh và vai trò của cạnh tranh trong điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế
1.1.1. Cạnh tranh
1.1.1.1. Khái niệm cạnh tranh
Thuật ngữ cạnh tranh được sử dụng một cách phổ biến, kể
từ khi nền sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa phát triển và đã
được nhiều nhà kinh tế học bàn luận. Bản chất của cạnh tranh
là sự ganh đua giữa các thành viên tham gia kinh tế thị trường
nhằm tối đa hoá lợi nhuận.
Mục đích cạnh tranh của các chủ thể kinh tế là giành
những lợi thế để hạ thấp giá cả các yếu tố “đầu vào” hoặc nâng
cao giá sản phẩm “đầu ra” để tối đa hoá lợi nhuận.
Cạnh tranh là xu thế tất yếu khách quan trong nền kinh tế
thị trường. Đối với các doanh nghiệp, cạnh tranh luôn là con
dao hai lưỡi. Nó đào thải các doanh nghiệp có chi phí cao, chất
lượng sản phẩm thấp; Nó buộc tất cả các doanh nghiệp không
ngừng phấn đấu để giảm chi phí, hoàn thiện giá trị sử dụng của
sản phẩm, tổ chức tốt khâu tiêu thụ sản phẩm.
1.1.1.2. Các phương pháp cạnh tranh
Trong nền kinh tế thị trường, để cạnh tranh, các doanh
nghiệp thường sử dụng các phương pháp:
+ Nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá tiêu thụ: Với
cùng một mức chi phí, doanh nghiệp sẽ canh tranh bằng cách
bán ra thị trường sản phẩm cùng loại với cùng mức giá nhưng
chất lượng tốt hơn.
+ Sử dụng công cụ giá cả để nâng cao năng lực cạnh tranh:
(i) dựa vào năng suất; (ii) bán phá giá; (iii) phân biệt giá; (iv)
chỉ đạo giá; (v) cạnh tranh phi giá cả.
+ Tổ chức phân phối nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh:
(i) các doanh nghiệp luôn tìm cách có được phương án vận
chuyển hợp lý nhất; (ii) cải tiến các phương pháp quản lý tồn
kho; (iii) xây dựng hệ thống kênh phân phối trung gian mạnh
và hiệu quả.
6
1.1.2. Vai trò của cạnh tranh trong điều kiện hội nhập kinh
tế quốc tế
Cạnh tranh có các vai trò quan trọng: Cạnh tranh đảm bảo
cho doanh nghiệp và sản phẩm phát triển trong điều kiện tự do
hoá thương mại và đầu tư; Cạnh tranh tạo cơ hội cho doanh
nghiệp và sản phẩm tham gia hoạt động theo yêu cầu của các
khối liên minh kinh tế khu vực và Thế giới; Cạnh tranh thúc
đẩy doanh nghiệp cải tiến và sáng tạo; Cạnh tranh góp phần đa
dạng hoá nhu cầu xã hội.
Xét dưới góc độ toàn xã hội, cạnh tranh luôn có tác động
tích cực: Đối với nền kinh tế, cạnh tranh đảm nhận chức năng
điều chỉnh cung, cầu; hướng việc sử dụng các nhân tố sản xuất
vào những nơi có hiệu quả nhất; tạo môi trường thuận lợi để sản
xuất thích ứng với sự biến đổi của cầu và công nghệ sản xuất; tác
động một cách tích cực đến phân phối thu nhập; cạnh tranh là
động lực thúc đẩy đổi mới.
1.2. Phương pháp luận phân tích năng lực cạnh tranh
1.2.1. Năng lực cạnh tranh: Khái niệm và phân loại
Trong nghiên cứu năng lực cạnh tranh, các nhà kinh tế đưa
ra ba cấp độ:
Năng lực cạnh tranh quốc gia (bao gồm cả năng lực cạnh
tranh cấp tỉnh) được xác định bởi các nhân tố: Chính sách; môi
trường đầu tư; thể chế, kết cấu hạ tầng; đất đai, tài nguyên thiên
nhiên; nguồn nhân lực; công nghệ. Có 2 chỉ tiêu được sử dụng
đồng thời khi đánh giá năng lực cạnh tranh quốc gia là: (i) chỉ số
khả năng cạnh tranh tăng trưởng (GCI); (ii) chỉ số khả năng cạnh
tranh hiện tại (CCI). Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh được thể hiện
qua 9 chỉ số thành phần: Chi phí gia nhập thị trường; tiếp cận đất
đai; tính minh bạch và tiếp cận thông tin; chi phí về thời gian để
thực hiện các quy định của Nhà nước; chi phí không chính thức;
thực hiện chính sách của Trung ương; ưu đãi đối với doanh nghiệp
nước ngoài; tính năng động và tiên phong của lãnh đạo tỉnh; và
các chính sách phát triển khu vực kinh tế tư nhân.
Năng lực cạnh tranh của một ngành kinh tế: Năng lực cạnh
tranh của ngành chịu tác động của các nhân tố có thể kiểm soát
bởi công ty (chiến lược phát triển và cạnh tranh, năng suất,
chủng loại sản phẩm); các nhân tố có thể kiểm soát bởi Chính
phủ (môi trường kinh doanh, chính sách khoa học công nghệ);
7
các nhân tố chỉ có thể kiểm soát được phần nào (giá các yếu tố
đầu vào, công tác giáo dục đào tạo); những nhân tố khó có thể
kiểm soát được (biến động tự nhiên, dịch bệnh). Khi đánh giá
năng lực cạnh tranh của ngành, người ta sử dụng các chỉ tiêu: Tỷ
lệ bảo hộ hiệu quả (ERP), chi phí các nguồn lực nội địa (DRC):
VAi d
ERP i = _________ * 100
VAi b
ΣQdi Sd
DRCi = _________________________________________
(1 + FX Premium) (PibQi - ΣQfi Pfb)
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp-sản phẩm phụ thuộc
khả năng duy trì và mở rộng thị phần, lợi nhuận của doanh nghiệp.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp-sản phẩm thể hiện qua các
chỉ tiêu: Trình độ chiến lược và hoạt động của doanh nghiệp; phân
tích theo chiến lược quản lý; uy tín của doanh nghiệp trên thị
trường; tỷ trọng thị phần hàng năm; hiệu quả-năng suất.
1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng và phương pháp phân tích
năng lực cạnh tranh của ngành
1.2.2.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh
của ngành
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh: Công
nghệ, nguồn nhân lực, vốn, chính sách thương mại, đối thủ
cạnh tranh mới. Theo diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), các
yếu tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh là: Sự mở cửa nền
kinh tế, vai trò của Nhà nước, khả năng tài chính, cơ sở hạ tầng,
công nghệ, quản lý, lao động, thể chế;
Có thể phân tích năng lực cạnh tranh của ngành theo nhóm
yếu tố: (i) Các yếu tố nội tại (năng suất chế biến, quy mô các
nhà máy; giá cả trong nước và quốc tế; năng lực tài chính;
năng lực quản lý; các mối quan hệ xã hội và truyền thống
doanh nghiệp; uy tín và thương hiệu sản phẩm; và (ii) Các yếu
tố bên ngoài (môi trường pháp lý cho hoạt động cạnh tranh;
môi trường chính sách kinh tế cho hoạt động cạnh tranh; tổ
chức, quản lý của Nhà nước; hình ảnh của quốc gia).
Ngày nay các nhà kinh tế học thường sử dụng mô hình kim
cương của M.Porter và mô hình SWOT. Mô hình kim cương của
8
M.Porter cho rằng các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh
gồm: Chiến lược, cấu trúc và mức độ cạnh tranh cho biết chiến
lược phát triển, điều kiện về các yếu tố đầu vào điều kiện về cầu,
các ngành liên quan và hỗ trợ. Mô hình SWOT phân tích các mặt
mạnh (S), mặt yếu (W), Cơ hội (O), thách thức (T).
1.2.2.2. Phương pháp phân tích năng lực cạnh tranh của ngành
đường mía
Để đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành đường mía, có
thể sử dụng một số chỉ tiêu như: (i).Nhóm chỉ tiêu về năng suất
như sản lượng, doanh thu, thị phần; (ii). Nhóm chỉ tiêu về hiệu
quả của sản xuất gồm các chỉ tiêu: Chi phí, giá cả, lợi nhuận,
doanh thu/vốn và doanh thu/lao động.
Phân tích kinh tế ngành hàng cũng là một phương pháp để
đánh giá năng lực cạnh tranh. Trong ngành hàng đường mía các
tác nhân chuỗi giá trị ngành hàng được thể hiện qua sơ đồ sau:
Để nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành hàng đường
mía cần phải tiết kiệm chi phí ở cả 3 khâu: sản xuất nguyên
liệu, chế biến và lưu thông phân phối.
Các yếu tố cấu thành giá thành tiêu thụ đường mía
Giá thành mía nguyên liệu phụ thuộc 3 nhóm yếu tố
quan trọng là: Năng suất mía, chất lượng mía và chi phí vận
Sản xuất mía
nguyên liệu
Chế biến đường Phân phối
sản phẩm
Chi phí mía
nguyên liệu
Giá thành
tiêu thụ
đường mía
CP lưu thông,
tiêu thụ
CPchế biến
9
chuyển. Chi phí chế biến đường tại các nhà máy phụ thuộc 3
nhóm yếu tố quan trọng là: Công suất chế biến, công nghệ chế
biến và tỷ lệ huy động công suất nhà máy. Chi phí lưu thông
phụ thuộc 3 nhóm yếu tố quan trọng là: Hiệu quả của kênh
phân phối, chi phí bán hàng và tỷ lệ tồn kho.
Bảng 1. Các chỉ tiêu phân tích năng lực cạnh tranh ngành
đường mía
Nhóm các chỉ tiêu Sử dụng đánh giá cho
1. Chỉ tiêu về NS, sản lượng
1.1. Năng suất mía nguyên liệu SX mía nguyên liệu
1.2. Năng suất lao động SX nguyên liệu, chế biến, tiêu thụ SP
1.3. Sản lượng, doanh thu SX nguyên liệu, chế biến, tiêu thụ SP
1.4. Thị phần ngành đường mía Chế biến, tiêu thụ
2. Chỉ tiêu về hiệu quả SXKD
2.1. Giá thành mía nguyên liệu Sản xuất nguyên liệu
2.2. Giá thành CB, tiêu thụ đường Chế biến, tiêu thụ SP
2.3. Giá trị gia tăng SX nguyên liệu, chế biến, tiêu thụ SP
2.4. GTGT, lợi nhuận/lao động SX nguyên liệu, chế biến, tiêu thụ SP
2.5. Thu nhập hỗn hợp/lao động Sản xuất nguyên liệu mía
1.3. Kinh nghiệm một số nước nâng cao năng lực cạnh
tranh của ngành đường mía và khả năng vận dụng đối với
Việt Nam
Đã nghiên cứu kinh nghiệm nâng cao khả năng cạnh tranh
của ngành đường mía ở một số nước như: Trung Quốc, Thái
lan, Philipines, Indonesia và rút ra một số bài học kinh nghiệm
cho Việt Nam như: Vận dụng hợp lý quy luật tuần tự của quá
trình phát triển, nâng cao năng lực ở khâu sản xuất, chế biến,
tiêu thụ; khai thác ưu thế sẵn có, đồng thời biến bất lợi thành
lợi thế, nâng cao năng lực cạnh tranh ở khâu nguyên liệu; tăng
cường vai trò nhà nước trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh
ngành đường mía.
10
Chương 2
PHÂN TÍCH NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA NGÀNH ĐƯỜNG MÍA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÀNH
ĐƯỜNG MÍA HIỆN NAY
2.1.1. Thực trạng phát triển của ngành đường mía Việt Nam
Kết quả nghiên cứu về sản xuất đường mía ở Việt Nam
những năm gần đây cho thấy (i) tốc độ phát triển sản lượng
đường ở Việt Nam tăng rất nhanh. Nếu so với Thái Lan, thì
trong 20 năm tốc độ tăng của Thái Lan chỉ đạt 290% còn Việt
Nam chỉ trong vòng 11 năm tăng tới 203%. Tuy nhiên, về sản
lượng đường trên đầu người hiện nay ở Việt Nam chỉ bằng 1/5-
1/4 của Thái Lan; (ii) năng suất lao động ngành đường mía của
Việt Nam còn thua xa các nước khác trên Thế giới. Năng suất
mía của Việt Nam chỉ cao hơn Cu Ba và thấp hơn các nước
khác. Sản lượng đường trung bình của Việt Nam là 2,6 tấn/lao
động (Thái Lan 14 tấn/lao động, Brazil 68 tấn/lao động, Úc 221
tấn/lao động). Qua các chỉ số bình quân của toàn chuỗi ngành
hàng đường mía về sản xuất mía cũng như chế biến đường có
thể khẳng định rằng khả năng cạnh tranh của ngành đường mía
Việt Nam là rất kém.
2.1.2. Hiệu quả của ngành đường mía
Để phân tích chỉ tiêu hiệu quả của ngành đường mía, đã
tiến hành phân tích (i) chi phí sản xuất ở các khâu. Trong khâu
trồng mía, chi phí lao động trung bình cho sản xuất 1 tấn mía
nguyên liệu bình quân chung cả nước là 3,8 công/tấn mía. Giá
thành sản xuất 1 tấn mía cây bình quân chung cả nước là 169,5
ngàn đồng, (10,9 USD/tấn); (ii) chi phí lao động sản xuất mía,
giá thành nguyên liệu mía và năng suất mía hoà vốn cho từng
vùng, làm rõ những nơi có chi phí và giá thành thấp, trung bình
và cao để thấy rõ lợi thế của từng vùng; (iii) đồng thời đã so
sánh khả năng cạnh tranh của cây mía nguyên liệu với một số
cây trồng khác trong cùng điều kiện canh tác như ngô, lạc, sắn
cho chế biến công nghiệp, cà phê, dứa Cayeen, điều, đỗ tương, cỏ
cho chăn nuôi, cây ăn quả để thấy được lợi thế và khó khăn của
cây mía trong cuộc cạnh t