Một vài thập niên trước khủng hoảng tài chính 1997-1998, ở Đông Á,
các tập đoàn gia đình trịlà động lực mạnh mẽcho tăng trưởng kinh tế ởkhu
vực này. Mô hình quản trịcông ty (QTCT) gia đình trị, kết hợp với hội đồng
quản trị(HĐQT) có đại diện của chính phủvà ngân hàng cung cấp vốn cho
công ty, đã tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty Đông Á được tiếp cận với
nguồn vốn dài hạn, duy trì tỷlệ đầu tưcao, từ đó nâng cấp công nghệvà cải
thiện năng lực cạnh tranh. Khu vực công ty ở Đông Á đã gặt hái nhiều thành
công, với tỷsuất lợi nhuận trên vốn cao hơn nhiều so với các công ty trên thế
giới với con sốlà 10% - 15% giai đoạn 1986-1996.
Cuộc khủng hoảng Châu Á 1997-1998 diễn ra đã phơi bày nhiều yếu
kém của nền kinh tếcác nước Đông Á. Theo nhiều đánh giá, nguyên nhân
sâu xa bắt nguồn từcấu trúc thểchếcủa khu vực công ty. Cấu trúc HĐQT
gồm cả đại diện của chính phủvà khu vực tài chính đã tạo điều kiện cho cho
các tập đoàn lớn tại Đông Á sẵn sàng mạo hiểm, tiến hành vay các khoản tín
dụng ngắn hạn để đầu tưdài hạn. Quy mô và quyền lực của các tập đoàn gia
đình trịtrởnên lớn mạnh đến mức chính phủkhông thểquản lý, lợi ích của
các tập đoàn trởnên mâu thuẫn với lợi ích của xã hội. Cuộc khủng hoảng đã
cho thấy vấn đềQTCT không chỉquan trọng đối với việc bảo vệquyền lợi
của các nhà đầu tư, mà còn giúp giảm thiểu rủi ro thịtrường và giữ ổn định
tài chính.
Một trong những ưu tiên hàng đầu của các nước Đông Á sau khủng
hoảng là thiết lập một khuôn khổthểchếhiệu quả để điều chỉnh hoạt động
của các công ty vận hành trong nền kinh tế. Có nhiều nghiên cứu cho rằng,
sau khủng hoảng các nước Đông Á tập trung điều chỉnh hệthống QTCT của
mình theo mô hình Anh-Mỹ, mô hình QTCT dựa vào thịtrường, ở đó quyền
lợi của cổ đông được đặt lên hàng đầu và thịtrường đóng vai trò điều chỉnh
hành vi và thái độcủa các ban giám đốc điều hành và của HĐQT. Một số
nghiên cứu khác lại cho rằng việc áp đặt mô hình QTCT Anh-Mỹlà không
phù hợp trong môi trường Đông Á.
Việt Nam là nước nằm trong khu vực Đông Nam Á, chúng ta cũng bị
ảnh hưởng không nhỏcủa khủng hoảng tài chính Châu Á 1997-1998. Khu
vực công ty và thịtrường tài chính tại nhiều nước Đông Á có lịch sửdài và
phát triển hơn chúng ta. Thịtrường vốn Việt Nam mới bắt đầu vận hành
chính thức từnăm 2001. Từ đó đến nay, thịtrường vốn đã bắt đầu đóng góp
ngày càng quan trọng vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP), đồng thời thu hút
được sựquan tâm và luồng tiền đầu tưkhông chỉcủa các nhà đầu tưtrong
nước mà của cảcác nhà đầu tưnước ngoài. Ủy ban Chứng khoán Nhà nước
(SSC), với tưcách là cơquan quản lý nhà nước đối với thịtrường vốn, đã
cho ra đời nhiều quy định điều chỉnh hoạt động của thịtrường. Tuy nhiên,
cho đến năm 2005, các quy định vẫn chưa phải là đầy đủ để điều chỉnh thị
trường. Ngoài ra, các quy định này chưa được tuân thủbởi các bên tham gia
thịtrường, đặc biệt là các công ty đại chúng. Mặc dù vai trò của QTCT là rất
quan trọng trong việc tạo ra một môi trường đầu tưhấp dẫn và một thịtrường
tài chính hiệu quả, tuy nhiên, theo đánh giá của Chương trình Phát triển Khu
vực Sông Mê Kông (MPDF) thuộc Công ty Tài chính Quốc tế(IFC) năm
2004, QTCT vẫn còn là một khái niệm mới [30, tr.9-10] đối các công ty Việt
Nam và vẫn còn nhiều cách hiểu không đúng vềQTCT trong các doanh
nghiệp Việt Nam.
27 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 1787 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt luận án Nghiên cứu sự điều chỉnh quản trị công ty ở Đông Á sau khủng hoảng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bé gi¸o dôc
vμ ®μo t¹o
ViÖn khoa häc x∙ héi
viÖt nam
ViÖn kinh tÕ vμ chÝnh trÞ thÕ giíi
Tr−¬ng thÞ nam th¾ng
NGHI£N cøu sù ®iÒu chØnh
qu¶n trÞ c«ng ty ë ®«ng ¸ sau khñng ho¶ng
Chuyªn ngμnh: Kinh tÕ thÕ giíi vμ Quan hÖ Kinh tÕ quèc tÕ
M· sè: 62.31.07.01
Tãm t¾t LuËn ¸n tiÕn sÜ kinh tÕ
Hμ néi - 2009
C«ng tr×nh ®−îc hoμn thμnh t¹i ViÖn Kinh tÕ vμ
ChÝnh trÞ ThÕ giíi,ViÖn Khoa häc X∙ héi ViÖt Nam
Ng−êi h−íng dÉn khoa häc:
1) PGS.TS. phan ®¨ng tuÊt
2) ts. Bïi quang tuÊn
Ph¶n biÖn 1: GS. TS. Hoµng V¨n Ch©u
- Tr−êng §¹i häc Ngo¹i th−¬ng
Ph¶n biÖn 2: GS. TS. §ç §øc B×nh
- Tr−êng §¹i häc Kinh tÕ Quèc d©n
Ph¶n biÖn 3: TS. Vâ TrÝ Thµnh
- ViÖn Nghiªn cøu Qu¶n lý Kinh tÕ TW
LuËn ¸n sÏ ®−îc b¶o vÖ tr−íc héi ®ång chÊm luËn ¸n cÊp nhµ n−íc, Häp t¹i
Héi tr−êng tÇng 4 ViÖn Kinh tÕ & ChÝnh trÞ ThÕ giíi, 176 Th¸i Hµ, Hµ Néi.
vµo håi ...... giê ..... ngµy ..... th¸ng .... n¨m 200 ...
Cã thÓ t×m hiÓu luËn ¸n t¹i:
- Th− viÖn Quèc gia
- Thu viÖn ViÖn Kinh tÕ vµ ChÝnh trÞ ThÕ giíi
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Một vài thập niên trước khủng hoảng tài chính 1997-1998, ở Đông Á,
các tập đoàn gia đình trị là động lực mạnh mẽ cho tăng trưởng kinh tế ở khu
vực này. Mô hình quản trị công ty (QTCT) gia đình trị, kết hợp với hội đồng
quản trị (HĐQT) có đại diện của chính phủ và ngân hàng cung cấp vốn cho
công ty, đã tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty Đông Á được tiếp cận với
nguồn vốn dài hạn, duy trì tỷ lệ đầu tư cao, từ đó nâng cấp công nghệ và cải
thiện năng lực cạnh tranh. Khu vực công ty ở Đông Á đã gặt hái nhiều thành
công, với tỷ suất lợi nhuận trên vốn cao hơn nhiều so với các công ty trên thế
giới với con số là 10% - 15% giai đoạn 1986-1996.
Cuộc khủng hoảng Châu Á 1997-1998 diễn ra đã phơi bày nhiều yếu
kém của nền kinh tế các nước Đông Á. Theo nhiều đánh giá, nguyên nhân
sâu xa bắt nguồn từ cấu trúc thể chế của khu vực công ty. Cấu trúc HĐQT
gồm cả đại diện của chính phủ và khu vực tài chính đã tạo điều kiện cho cho
các tập đoàn lớn tại Đông Á sẵn sàng mạo hiểm, tiến hành vay các khoản tín
dụng ngắn hạn để đầu tư dài hạn. Quy mô và quyền lực của các tập đoàn gia
đình trị trở nên lớn mạnh đến mức chính phủ không thể quản lý, lợi ích của
các tập đoàn trở nên mâu thuẫn với lợi ích của xã hội. Cuộc khủng hoảng đã
cho thấy vấn đề QTCT không chỉ quan trọng đối với việc bảo vệ quyền lợi
của các nhà đầu tư, mà còn giúp giảm thiểu rủi ro thị trường và giữ ổn định
tài chính.
Một trong những ưu tiên hàng đầu của các nước Đông Á sau khủng
hoảng là thiết lập một khuôn khổ thể chế hiệu quả để điều chỉnh hoạt động
của các công ty vận hành trong nền kinh tế. Có nhiều nghiên cứu cho rằng,
sau khủng hoảng các nước Đông Á tập trung điều chỉnh hệ thống QTCT của
2
mình theo mô hình Anh-Mỹ, mô hình QTCT dựa vào thị trường, ở đó quyền
lợi của cổ đông được đặt lên hàng đầu và thị trường đóng vai trò điều chỉnh
hành vi và thái độ của các ban giám đốc điều hành và của HĐQT. Một số
nghiên cứu khác lại cho rằng việc áp đặt mô hình QTCT Anh-Mỹ là không
phù hợp trong môi trường Đông Á.
Việt Nam là nước nằm trong khu vực Đông Nam Á, chúng ta cũng bị
ảnh hưởng không nhỏ của khủng hoảng tài chính Châu Á 1997-1998. Khu
vực công ty và thị trường tài chính tại nhiều nước Đông Á có lịch sử dài và
phát triển hơn chúng ta. Thị trường vốn Việt Nam mới bắt đầu vận hành
chính thức từ năm 2001. Từ đó đến nay, thị trường vốn đã bắt đầu đóng góp
ngày càng quan trọng vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP), đồng thời thu hút
được sự quan tâm và luồng tiền đầu tư không chỉ của các nhà đầu tư trong
nước mà của cả các nhà đầu tư nước ngoài. Ủy ban Chứng khoán Nhà nước
(SSC), với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước đối với thị trường vốn, đã
cho ra đời nhiều quy định điều chỉnh hoạt động của thị trường. Tuy nhiên,
cho đến năm 2005, các quy định vẫn chưa phải là đầy đủ để điều chỉnh thị
trường. Ngoài ra, các quy định này chưa được tuân thủ bởi các bên tham gia
thị trường, đặc biệt là các công ty đại chúng. Mặc dù vai trò của QTCT là rất
quan trọng trong việc tạo ra một môi trường đầu tư hấp dẫn và một thị trường
tài chính hiệu quả, tuy nhiên, theo đánh giá của Chương trình Phát triển Khu
vực Sông Mê Kông (MPDF) thuộc Công ty Tài chính Quốc tế (IFC) năm
2004, QTCT vẫn còn là một khái niệm mới [30, tr.9-10] đối các công ty Việt
Nam và vẫn còn nhiều cách hiểu không đúng về QTCT trong các doanh
nghiệp Việt Nam.
Chính vì những quan điểm trái chiều về một mô hình QTCT phù hợp đối
với các nước Đông Á và sự nhận biết còn hạn chế về vai trò của QTCT đối
3
với nền kinh tế, cũng như hoạt động nghiên cứu còn mỏng về QTCT tại Việt
Nam, cần thiết phải có nghiên cứu về “Nghiên cứu sự điều chỉnh QTCT ở
Đông Á”. Nghiên cứu giúp cung cấp một cái nhìn hệ thống QTCT tại các
nước Đông Á trước khủng hoảng, khuôn khổ thể chế điều chỉnh hoạt động
QTCT của các nước này sau khủng hoảng, từ đó rút ra một số bài học có thể
tham khảo đối với những nước có điều kiện tương tự trong đó có Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Về các công trình nghiên cứu trong nước, đã có nhiều nghiên cứu được
thực hiện về khu vực Đông Á, về nguyên nhân khủng hoảng và bài học từ
cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á 1997. Tuy nhiên, các nghiên cứu về
QTCT nói chung và đặc biệt là QTCT tại Đông Á mới chỉ ở giai đoạn ban
đầu. Số lượng các công trình đăng tải về QTCT và QTCT ở Đông Á có thể
nói là khá khiêm tốn.
Trong cuốn “Khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu Á: Nguyên nhân và
Bài học” (Trung tâm Tư vấn và Đào tạo Kinh tế Thương mại (1998), Nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia), các tác giả đã đề cập đến các nguyên nhân của
cuộc khủng hoảng trong đó có mối quan hệ chính phủ-ngân hàng-tập đoàn
kinh doanh, hệ thống luật pháp thiếu đồng bộ, thiếu minh bạch và sai lầm của
các nhà đầu tư trong nước. Các chương trình cải cách kinh tế của IMF tài trợ
cho các nước Đông Á cũng được đề cập trong đó bao gồm hỗ trợ việc công
bố và minh bạch thông tin, tái cơ cấu khu vực tài chính, giúp thiết lập và phổ
biến các “thông lệ tốt nhất” trong lĩnh vực ngân hàng.
Trong cuốn “Điều chỉnh cơ cấu kinh tế ở Hàn Quốc, Malaixia và Thái
Lan” (PGS. TS. Hoàng Thị Thanh Nhàn (2003), Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia), tác giả đề cập đến các biện pháp liên quan đến việc tăng cường
các nguyên tắc điều tiết và kiểm soát công ty, trong đó có: tách dần quyền
4
quản lý ra khỏi quyền sở hữu công ty; đưa ra các quy định về việc áp dụng
các tiêu chuẩn toàn cầu và điều chỉnh hệ thống luật pháp.
Bài “Cải cách thể chế Đông Á sau khủng hoảng” (Trần Văn Tùng
(2004), Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới, số 2(94)) đã nêu ra cơ cấu
QTCT của các nước Đông Á trước khủng hoảng theo mô hình gia đình trị,
kết hợp với HĐQT bao gồm chính phủ và ngân hàng tài trợ cho công ty.
“Cải cách QTCT và tác động đến mô hình việc làm Nhật Bản gần đây”
(2005), Đề tài cấp Viện của PGS. TS. Lưu Ngọc Trịnh, Viện Kinh tế và
Chính trị Thế giới, Hà Nội. Tác giả đã phân tích mô hình truyền thống của
các dạng thức công ty Nhật Bản. Thông qua khái quát những vấn đề mới nảy
sinh trong bối cảnh môi trường kinh doanh có nhiều biến đổi, tác giả đi đến
phân tích các quan hệ lao động và sự tham gia của nhân viên vào QTCT. Từ
đó, đề xuất tương lai cho QTCT Nhật Bản.
Về các công trình nghiên cứu ngoài nước. Cuốn sách “Đông Á: Phục hồi
và Phát triển” (2000), Ngân hàng Thế giới, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia,
đã xem xét quá trình phục hồi, đánh giá tính bền vững và tìm ra các thách
thức cần phải vượt qua để quá trình phục hồi được lâu dài và lan rộng.
Trong cuốn sách “Suy ngẫm lại sự thần kỳ Đông Á” (Josepth E. Stiglitz
và Shahid Yusuf (2002), Ngân hàng Thế giới, Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia), các tác giả đã đưa ra một cái nhìn mới về kinh nghiệm khu vực Đông Á
thông qua khảo sát cuộc khủng hoảng và sự phục hồi của khu vực này. Trong
chương 7 “Chính phủ kiểm soát công tác quản trị doanh nghiệp như một thể
chế tạm thời: bài học từ Trung Quốc”, tác giả Yingyi Qian khuyến nghị về
trình tự cải cách, trong giai đoạn đầu của cải cách kinh tế, cần phải có sự
tham gia sâu của chính phủ vào QTCT, tuy nhiên khi các cải cách đã sâu sắc
hơn, chính phủ nên rút lui từng bước khỏi công tác QTCT. Trong chương 9
5
“Sự thần kỳ chỉ là khúc dạo đầu: Nhà nước và cải cách khu vực công ty ở
Hàn Quốc”, tác giả Meredith Woo-Cumings đã tiến hành nghiên cứu cơ chế
QTCT tại Đông Á gắn với sự hình thành mối quan hệ nhà nước-doanh
nghiệp ở Hàn Quốc và Đông Nam Á. Tác giả nhấn mạnh rằng việc áp dụng
các tiêu chuẩn lý tưởng điển hình của phương Tây vào việc cải cách công tác
QTCT tại Đông Nam Á cũng đồng nghĩa với việc bảo các doanh nghiệp
người Hoa thôi không làm người Hoa nữa.
Cuốn “Chống tham nhũng ở Đông Á: Giải pháp từ khu vực kinh tế tư
nhân” (J-F Arvis và R. E. Berenbeim (2004), Ngân hàng Thế giới, NXB
Chính trị Quốc gia), một phần của chương 5 đề cập đến vai trò của QTCT,
đạo đức kinh doanh, HĐQT và văn hoá kinh doanh trong việc hạn chế hiện
tượng tham nhũng tại các nước Đông Á.
Cải cách hệ thống QTCT tại các nước Đông Á sau khủng hoảng 1997
được nhiều học giả Đông Á và các nước bàn luận. Các công trình nghiên cứu
đáng chú ý bao gồm: (i) Sang-Woo Nam and Il Chong Nam, “Corporate
Governance in Asia: Recent Evidence from Indonesia, Republic of Korea,
Malaysia and Thailand”, Asian Development Bank Institute, October 2004;
(ii) “Corporate Governance and Finance in East Asia”, Asian Development
Bank, 2001; (iii) Stephen Prowse, “Corporate Governance: Emerging Issues
and Lessons from East Asia”, The World Bank Group, 1998; (iv) B. S.
Black, H. Jang, W. Kim, “Does Corporate Governance Matter? Evidence
from the Korean Market”, Stanford Law School, May 2002; (v) Stephen
Prowse “Corporate Governance in East Asia: A Framework for Analysis”,
United Nations Economic and Social Commission for Asia and Pacific,
1998; (vi) Eduardo T. Gonzalez, “The Impact of Corporate Governance on
Productivity: Evidence Across 10 Asian Countries”, APO 2004; (vii) OECD,
6
“White Paper on Corporate Governance in Asia”, 2003; (viii) Kenneth E.
Scott, “Corporate Governance and East Asia”, Stanford Law School, June
1999; (ix) Philip Koh, “Corporate Governance in Malaysia – Current
Reforms in light of Post 1998 crisis”, 2003.
Qua khảo sát các công trình nghiên cứu nêu trên, có thể thấy hầu hết các
học giả đều thống nhất nhận định rằng sau khủng hoảng 1997, các nước
Đông Á đã tích cực tiến hành các biện pháp cải cách và điều chỉnh chính
sách về QTCT và đã đạt được những thành công nhất định. Tuy nhiên, nhiều
công trình mới chỉ dừng lại ở các điều chỉnh trong các lĩnh vực riêng lẻ như
ngân hàng và tài chính. Hơn nữa, đánh giá của các học giả về nguyên nhân
và các áp lực dẫn đến các điều chỉnh, những thành tựu đạt được, các hạn chế,
các bài học kinh nghiệm và mô hình khuyến nghị áp dụng cho các nước
Đông Á là không giống nhau. Phần lớn các công trình thường tập trung vào
hệ thống QTCT nói chung, áp dụng cho mọi loại hình doanh nghiệp. Mặc
khác, phần lớn các công trình được hoàn thành ngay sau khi khủng hoảng kết
thúc, ít có các nghiên cứu gần đây giúp có thể đánh giá được tính bền vững,
chuẩn xác của mô hình mà các nước Đông Á đang áp dụng và phát triển. Do
đó đó, nhiều nhận xét, đánh giá rút ra từ một số công trình nghiên cứu trước
đây cần phải được xem xét lại, điều chỉnh và bổ sung thêm.
Như vậy, tình hình nghiên cứu ở Việt Nam cũng như ở nước ngoài về đề
tài cho thấy cần thiết phải tiến hành tìm hiểu một cách tổng thể khuôn khổ
thể chế về QTCT đối với các công ty đại chúng niêm yết tại các nước Đông
Á bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi khủng hoảng tài chính-tiền tệ 1997 trong
quá trình cải cách, điều chỉnh chính sách vượt ra khỏi khủng hoảng và vực
dậy nền kinh tế, đưa ra sự đánh giá khách quan và rút ra bài học kinh nghiệm
đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
7
3. Mục đích nghiên cứu của luận án
Mục đích bao trùm của luận án là nghiên cứu cơ sở lý luận về QTCT, cơ
sở thực tiễn cho sự điều chỉnh hệ thống QTCT tại các nước Đông Á, và
nghiên cứu chi tiết lộ trình và các điều chỉnh khuôn khổ thể chế về QTCT tại
bốn nước Đông Á và rút ra bài học tham khảo cho các nước đi sau trong đó
có Việt Nam.
Để triển khai mục tiêu bao trùm trên, luận án hướng vào các mục đích cụ
thể sau: thứ nhất, nghiên cứu khái quát cơ sở lý luận về QTCT và cơ sở thực
tiễn cho sự điều chỉnh về QTCT của bốn nước Đông Á; thứ hai, nghiên cứu
khuôn khổ thể chế và các điều chỉnh về QTCT tại bốn nước Đông Á từ sau
khủng hoảng; thứ ba, đánh giá kết quả các điều chỉnh và tác động đối với
khu vực công ty và đối với nền kinh tế các nước này; thứ tư, rút ra một số bài
học kinh nghiệm từ các điều chỉnh của các nước Đông Á để làm cơ sở tham
khảo thực tế cho các nhà hoạch định chính sách và góp phần làm phong phú
thêm sự hiểu biết về QTCT trong công tác nghiên cứu và học tập tại Việt
Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là các điều chỉnh khuôn khổ thể chế
về QTCT tại bốn nước Đông Á bao gồm Inđônêxia, Hàn Quốc, Malaixia và
Thái Lan.
Phạm vi nghiên cứu: Về thời gian, luận án tập trung nghiên cứu hệ thống
QTCT tại các nước Đông Á từ sau khủng hoảng 1997, tuy nhiên tập trung
vào giai đoạn 1998 – 2004. Ngoài ra, các điều chỉnh quan trọng cũng được
cập nhật cho đến năm 2008. Về không gian: luận án tập trung nghiên cứu hệ
thống QTCT tại bốn nước Đông Á bao gồm: Inđônêxia, Malaixia, Hàn Quốc
và Thái Lan. Về nội dung nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu khuôn
8
khổ thể chế về QTCT tại bốn nước Đông Á. Luận án không nghiên cứu toàn
bộ hệ thống QTCT tại các nước này. Khuôn khổ thể chế về QTCT được phân
tích dựa trên 5 nội dung chính trong Bộ Nguyên tắc QTCT của Tổ chức Hợp
tác và Phát triển Kinh tế (OECD) bao gồm: (i) Đảm bảo nền tảng cơ bản cho
QTCT hiệu quả; (ii) Quyền của cổ đông và đối xử công bằng với mọi cổ
đông; (iii) Vai trò của bên hữu quan trong QTCT; (iv) Công bố thông tin và
minh bạch; và (v) Trách nhiệm của HĐQT. Luận án tập trung nghiên cứu
khuôn khổ thể chế điều chỉnh hoạt động các công ty niêm yết và đại chúng.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng là tổng hợp, phân tích,
đánh giá, nghiên cứu so sánh, phỏng vấn chuyên gia, và nghiên cứu trường
hợp điển hình. Luận án sử dụng dữ liệu thứ cấp là các nghiên cứu đáng tin
cậy của các học giả và tổ chức quốc tế uy tín. Phỏng vấn chuyên gia được
thực hiện đối với cả chuyên gia trong và ngoài nước. Luận án có sử dụng
phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình được áp dụng đối với một số
công ty Việt Nam.
6. Những đóng góp của luận án
1/ Nghiên cứu một cách hệ thống khuôn khổ lý luận về QTCT, các nhân
tố cấu thành hệ thống QTCT, các lý thuyết QTCT và các hệ thống QTCT tiêu
biểu, các mô hình QTCT chính trên thế giới và xu hướng phát triển chung
của các mô hình này trong thời gian gần đây.
2/ Nghiên cứu một cách hệ thống quá trình và nội dung thực hiện các
điều chỉnh chính sách và khuôn khổ thể chế về QTCT tại bốn nước Đông Á
bao gồm Inđônêxia, Hàn Quốc, Malaixia và Thái Lan từ sau khủng hoảng và
tiến hành đánh giá kết quả điều chỉnh khuôn khổ thể chế và hệ thống QTCT
theo nhiều tiêu chí khác nhau, từ nhiều các quan điểm nhiều chiều khác nhau,
9
từ đó cho thấy những thành quả cũng như các bất cập của hệ thống QTCT
Đông Á.
3/ Tiến hành đánh giá hệ thống QTCT Việt Nam, từ cái nhìn so sánh với các
nước Đông Á và thế giới. Trên cơ sở đó, rút ra các bài học cho Việt Nam.
7. Bố cục của luận án
Ngoài các trang bìa, bảng các ký hiệu viết tắt, mục lục, danh mục các
công trình của tác giả luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung chính của luận án được chia thành 3 phần: phần mở đầu, phần nội dung
và phần kết luận. Phần nội dung bao gồm 3 chương. Chương I phân tích cơ
sở lý luận và cơ sở thực tiễn của hệ thống QTCT tại các nước Đông Á để làm
cơ sở cho sự phân tích của các chương sau. Chương II phân tích các điều
chỉnh chủ yếu về khuôn khổ thể chế về QTCT được tiến hành tại bốn nước
Đông Á từ sau khủng hoảng 1997. Chương III đánh giá chung tổng quát về
các điều chỉnh chính sách và kết quả của các điều chỉnh này đối với các nước
Đông Á, nghiên cứu tổng quan về khuôn khổ thể chế về QTCT tại Việt Nam,
từ đó rút ra một số bài học kinh nghiệm có ý nghĩa tham khảo cho Việt Nam.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ CÔNG TY VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
CHO SỰ ĐIỀU CHỈNH KHUÔN KHỔ THỂ CHẾ QUẢN TRỊ CÔNG
TY Ở ĐÔNG Á SAU KHỦNG HOẢNG 1997
1.1. Cơ sở lý luận về Quản trị công ty
1.1.1. Công ty và Quản trị công ty
1.1.1.1 Công ty và các loại hình công ty. Công ty được định nghĩa là sự liên
kết của hai hoặc nhiều người, cùng góp vốn kinh doanh vì mục đích lợi
nhuận [31, tr.256]. Có nhiều tiêu chí, nên cũng có nhiều cách phân loại công
10
ty [31, tr.253-254]. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của chủ nghĩa tư bản,
phù hợp với nhu cầu huy động vốn, công ty cổ phần trở thành một mô hình
kinh doanh phổ biến nhất, được các nhà kinh tế học gọi là công ty hiện đại.
1.1.1.2 Cơ cấu tổ chức và các vấn đề quản trị một công ty hiện đại. Trong
công ty cổ phần, thường có ba cấp độ kiểm soát: cổ đông, HĐQT và ban điều
hành. Tương ứng với cơ cấu tổ chức được phân tích ở trên, một công ty hiện
đạị thường gặp phải ba vấn đề chính: (i) phân chia quyền sở hữu và quyền
kiểm soát; (ii) bất cân xứng thông tin; và (iii) sự tự do làm theo ý mình của
ban điều hành. QTCT là cơ chế giúp giải quyết các vấn đề mà một công ty
hiện đại gặp phải trong việc đảm bảo được quyền lợi của các bên liên quan.
1.1.1.3 Khái niệm QTCT. Theo luận án này, QTCT được hiểu theo cả hai
nghĩa: nghĩa hẹp và nghĩa rộng. Theo nghĩa hẹp, QTCT là mối quan hệ giữa
cán bộ điều hành, thành viên HĐQT và các bên cung cấp vốn cho doanh
nghiệp, mối quan hệ này có thể phát triển đến các bên hữu quan và cả xã hội.
Ở nghĩa rộng hơn, QTCT bao gồm luật pháp, quy chế niêm yết, thông lệ tự
nguyện của khu vực kinh tế tư nhân, giúp cho các công ty có thể thu hút vốn,
hoạt động hiệu quả, đạt được mục tiêu của công ty và đáp ứng được yêu cầu
của pháp luật và mong đợi chung của xã hội. Luận án tập trung phân tích
“QTCT ở nghĩa rộng” đó là khuôn khổ thể chế về QTCT. Tuy nhiên, mọi
khuôn khổ thể chế được tạo dựng và phát triển cũng là để đảm bảo các công
ty vận hành hiệu quả, chính vì thế “QTCT ở nghĩa hẹp” cũng sẽ được nghiên
cứu và phân tích như là kết quả của QTCT vĩ mô.
1.1.1.4 Một số thuật ngữ được sử dụng trong luận án. Phân biệt quản lý và
QTCT, công ty cổ phần, công ty đại chúng, công ty niêm yết, thị trường kiểm
soát công ty, tiếp quản, hệ thống QTCT, khuôn khổ thể chế và pháp luật.
11
1.1.1.5 Vai trò và lợi ích của QTCT. Một hệ thống QTCT hiệu quả phải đảm
bảo 5 vai trò: khuyến khích sử dụng một cách hiệu quả các nguồn lực nội bộ
công ty và nền kinh tế; giúp các công ty và nền kinh tế thu hút nguồn vốn chi
phí thấp; đảm bảo các công ty hoạt động phù hợp với yêu cầu pháp luật, các
quy định và mong đợi của xã hội; tiến hành giám sát cán bộ điều hành trong
việc sử dụng tài sản công ty. Ngoài ra, QTCT tốt còn mang lại các lợi ích về
mặt tài chính cho công ty như: giá trị cổ phiếu cao hơn, có tỷ suất lợi nhuận
trên vốn đầu tư cao; tỷ suất lợi nhuận của cổ đông cao hơn.
1.1.2. Một số lý thuyết chính về Quản trị công ty
Có 3 lý thuyết về QTCT chính đó là lý thuyết người đại diện (Agency
Theory), lý thuyết người dẫn đường (Stewarship Theory) và lý thuyết bên
hữu quan (Stakeholder Theory). Llý thuyết người đại diện tập trung vào
giám sát ban điều hành, nhằm đảm bảo rằng họ làm việc vì quyền lợi của cổ
đông. Lý thuyết người dẫn đường tập trung trợ giúp, trao quyền cho ban điều
hành, làm cho họ có động lực để điều hành công ty hiệu quả nhất. Lý thuyết
bê