Vật liệu y sinh đã và đang đƣợc nghiên cứu mạnh mẽ để đáp ứng nhu cầu thay thế các
bộ phận cơ thể, cấy ghép mô, xƣơng của con ngƣời, hứa hẹn cho việc chữa trị và tái tạo các
mô và cơ quan bị mất hoặc bị tổn thƣơng do chấn thƣơng, bệnh tật hoặc lão hóa.
Trong lĩnh vực vật liệu dùng cho xƣơng, nhiều loại vật liệu dùng trong cấy ghép và
thay thế xƣơng đã phát triển đáng kể trong những thập kỷ qua nhƣ kim loại và hợp kim (titan,
hợp kim của titan, thép không rỉ.). Những vật liệu này tuy tƣơng hợp sinh học nhƣng tính
chất cơ lý của kim loại, hợp kim khác biệt nhiều so với xƣơng dẫn đến nguy cơ gãy xƣơng do
kém tƣơng thích giữa phần xƣơng tiếp xúc với kim loại ghép.
Vì vậy, các nhà khoa học trên thế giới hiện nay quan tâm đến vật liệu trên cơ sở
Hydroxyapatite (HAp) và biphase calcium phosphate (BCP). HAp và BCP có tính tƣơng hợp
sinh học, hoạt tính sinh học cao, và khả năng chữa lành xƣơng do thành phần tƣơng tự thành
phần khoáng trong xƣơng. Mặt khác, HAp và BCP có thể từ từ hòa tan trong cơ thể giải
phóng ion calcium và phosphate có lợi trong việc hình thành và phát triển xƣơng. Tuy nhiên
HAp và BCP ở dạng bột nên khó tạo hình có thành phần, cấu trúc xốp tƣơng tự nhƣ xƣơng.
Hydrogel composite trên cơ sở BCP và polymer sinh học có thành phần, cấu trúc xốp
tƣơng tự xƣơng, tƣơng hợp sinh học, suy giảm sinh học và BCP thúc đẩy sự tạo khoáng, cải
thiện tính chất cơ học của vật liệu. Nhƣng các vật liệu này suy giảm nhanh, chƣa phù hợp với
sự phát triển của xƣơng.
26 trang |
Chia sẻ: tienduy345 | Lượt xem: 1788 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt luận án Nghiên cứu tổng hợp vật liệu mới trong cấy ghép và tái tạo xương trên cơ sở Hydrogel Composite sinh học gồm Biphasic Calcium Phosphate và Polymer Sinh học (Gelatin, Chitosan), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC
VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM
VIỆN KHOA HỌC VẬT LIỆU
NGUYỄN THỊ PHƢƠNG
NGHIÊN CỨU TỔNG HỢP VẬT LIỆU
MỚI TRONG CẤY GHÉP VÀ TÁI TẠO
XƢƠNG TRÊN CƠ SỞ HYDROGEL
COMPOSITE SINH HỌC GỒM BIPHASIC
CALCIUM PHOSPHATE VÀ POLYMER
SINH HỌC (GELATIN, CHITOSAN)
Chuyên ngành: VẬT LIỆU CAO PHÂN TỬ VÀ TỔ HỢP
Mã số : 62440125
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÀNH KHOA HỌC VẬT LIỆU
TP.HCM-2015
Công trình đƣợc hoàn thành tại:
Phòng Vật liệu hóa dƣợc, Viện Khoa học vật liệu ứng dụng, Viện Hàn lâm Khoa học
và Công nghệ Việt Nam
Những ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
1. PGS. TS. NGUYỄN CỬU KHOA
2. TS. TRẦN NGỌC QUYỂN
Phản biện 1:
Phản biện 2:
Phản biện 3:
Luận án sẽ đƣợc bảo vệ trƣớc Hội đồng chấm luận án cấp Viện tổ chức tại Viện Khoa
học vật liệu ứng dụng, viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt nam vào hồi
giờ ngày tháng năm 2015
Có thể tìm hiểu luận án tại thƣ viện:
Thƣ viện Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Tóm tắt luận án tiến sĩ ngành khoa học vật liệu
Trang 3
MỞ ĐẦU
Vật liệu y sinh đã và đang đƣợc nghiên cứu mạnh mẽ để đáp ứng nhu cầu thay thế các
bộ phận cơ thể, cấy ghép mô, xƣơng của con ngƣời, hứa hẹn cho việc chữa trị và tái tạo các
mô và cơ quan bị mất hoặc bị tổn thƣơng do chấn thƣơng, bệnh tật hoặc lão hóa.
Trong lĩnh vực vật liệu dùng cho xƣơng, nhiều loại vật liệu dùng trong cấy ghép và
thay thế xƣơng đã phát triển đáng kể trong những thập kỷ qua nhƣ kim loại và hợp kim (titan,
hợp kim của titan, thép không rỉ...). Những vật liệu này tuy tƣơng hợp sinh học nhƣng tính
chất cơ lý của kim loại, hợp kim khác biệt nhiều so với xƣơng dẫn đến nguy cơ gãy xƣơng do
kém tƣơng thích giữa phần xƣơng tiếp xúc với kim loại ghép.
Vì vậy, các nhà khoa học trên thế giới hiện nay quan tâm đến vật liệu trên cơ sở
Hydroxyapatite (HAp) và biphase calcium phosphate (BCP). HAp và BCP có tính tƣơng hợp
sinh học, hoạt tính sinh học cao, và khả năng chữa lành xƣơng do thành phần tƣơng tự thành
phần khoáng trong xƣơng. Mặt khác, HAp và BCP có thể từ từ hòa tan trong cơ thể giải
phóng ion calcium và phosphate có lợi trong việc hình thành và phát triển xƣơng. Tuy nhiên
HAp và BCP ở dạng bột nên khó tạo hình có thành phần, cấu trúc xốp tƣơng tự nhƣ xƣơng.
Hydrogel composite trên cơ sở BCP và polymer sinh học có thành phần, cấu trúc xốp
tƣơng tự xƣơng, tƣơng hợp sinh học, suy giảm sinh học và BCP thúc đẩy sự tạo khoáng, cải
thiện tính chất cơ học của vật liệu. Nhƣng các vật liệu này suy giảm nhanh, chƣa phù hợp với
sự phát triển của xƣơng.
Để giải quyết vấn đề trên cần thiết phải biến tính các polymer sinh học nhằm giảm
khối lƣợng suy giảm, hƣớng tới ứng dụng các vật liệu hydrogel composite này trong cấy ghép
và tái tạo xƣơng.
Trên cơ sở đó, chúng tôi đề xuất đề tài “Nghiên cứu tổng hợp vật liệu mới trong cấy
ghép và tái tạo xƣơng trên cơ sở hydrogel composite sinh học gồm biphasic calcium
phosphate và polymer sinh học (gelatin, chitosan)”.
Mục tiêu của luận án:
Nghiên cứu tổng hợp vật liệu mới trên cơ sở hydrogel composite sinh học gồm
biphasic calcium phosphate và polymer sinh học (gelatin, chitosan) nhằm mục đích tạo ra vật
liệu có khả năng tƣơng hợp sinh học, kích thích sự phát triển xƣơng, có thời gian suy giảm
phù hợp với thời gian xƣơng phát triển để có thể ứng dụng trong lĩnh vực cấy ghép và tái tạo
xƣơng.
Nội dung nghiên cứu luận án bao gồm:
- Nghiên cứu tổng hợp nano BCP bằng phƣơng pháp kết tủa kết hợp sóng siêu âm
ứng dụng trong vật liệu sinh y.
Tóm tắt luận án tiến sĩ ngành khoa học vật liệu
Trang 4
- Nghiên cứu tổng hợp và xác định các tính chất của hydrogel tyramin gelatin (TA-
Gelatin) và hydrogel composite TA-Gelatin/BCP.
- Nghiên cứu tổng hợp và xác định các tính chất của hydrogel tyramin
polyethyleneglycol gelatin (TA-PEG-Gelatin) và hydrogel composite TA-PEG-Gelatin/BCP.
- Nghiên cứu tổng hợp và xác định các tính chất của hydrogel hydroxyphenyl acetic
chitosan (HPA-Chitosan) và hydrogel composite HPA-Chitosan /BCP.
- Nghiên cứu tổng hợp và xác định các tính chất của hydrogel tyramin tetronic
chitosan (TA-TE-Chitosan) và hydrogel composite TA-TE-Chitosan/BCP.
- Nghiên cứu tổng hợp và xác định các tính chất của hydrogel tyramin
polyethyleneglycol chitosan (TA-PEG-Chitosan) và hydrogel composite TA-PEG-
Chitosan/BCP.
- Nghiên cứu tổng hợp và xác định các tính chất của hydrogel tyramin
polyethyleneglycol chitosan oxi hóa (TA-PEG-Chitosan oxi hóa) và hydrogel composite TA-
PEG-Chitosan oxi hóa /BCP.
Ý nghĩa khoa học của luận án:
Kết quả nghiên cứu của luận án cho thấy một số kết luận có ý nghĩa khoa học sau:
- Kết hợp sóng siêu âm trong quá trình tổng hợp BCP sẽ tạo thành các hạt kích
thƣớc nano và đồng đều hơn so với không sử dụng sóng siêu âm. BCP and HAp obtained by
untrasound assisted process
- Để polymer sinh học tạo đƣợc hydrogel, cần thiết phải biến tính chúng với các
phân tử hữu cơ đa nhóm chức (nhƣ TA, HPA,...) và tạo liên kết ngang bằng các hệ xúc tác
enzyme nhƣ H2O2/HRP. Bằng các lƣợng H2O2 và HRP khác nhau có thể điều chỉnh đƣợc thời
gian gel hóa.
- Các hydrogel và hydrogel composite của polymer sinh học (gelatin, gelatin
biến tính, chitosan và chitosan biến tính) với BCP đều không độc và đều có tính tƣơng hợp
sinh học tốt với tế bào xƣơng MG-63.
- Khối lƣợng suy giảm của polymer sinh học (gelatin và chitosan) đƣợc giảm
xuống sao cho phù hợp với quá trình ghép và tái tạo xƣơng bằng cách biến tính các polymer
sinh học trên với các hợp chất hữu cơ khác nhau nhƣ PEG, Te,...
- Hydrogel composite gelatin biến tính và chitosan biến tính với BCP có khả
năng tạo khoáng tốt hơn hẳn hydrogel tƣơng ứng và rất có triển vọng ứng dụng trong lĩnh vực
ghép và tái tạo xƣơng.
Tóm tắt luận án tiến sĩ ngành khoa học vật liệu
Trang 5
Bố cục của luận án:
Luận án có 159 trang với 14 bảng, 85 hình. Ngoài phần mở đầu (3 trang), kết luận (23
trang), danh mục các công trình công bố (2 trang) và tài liệu tham khảo (20 trang) luận án
đƣợc chia thành 3 chƣơng nhƣ sau:
Chƣơng 1: Tổng quan 38 trang
Chƣơng 2: Thực nghiệm 20 trang
Chƣơng 3: Kết quả và biện luận 68 trang
Đóng góp mới của luận án:
1. Đã nghiên cứu tổng hợp thành công BCP với các tỷ lệ HAp:-TCP khác nhau
(1,53; 1,57; 1,61) tại pH khác nhau (7; 9; 11) bằng phƣơng pháp kết tủa kết hợp sóng siêu âm.
Sản phẩm thu đƣợc có kích thƣớc nano và đồng đều hơn so với phƣơng pháp kết tủa không
kết hợp với sóng siêu âm.
2. Đã nghiên cứu tổng hợp và xác định tính chất của hydrogel TA-Gelatin, HPA-
Chitosan và hydrogel composite TA-Gelatin/BCP, HPA-Chitosan/BCP. Kết quả cho thấy cả
hydrogel và hydrogel composite có khối lƣợng suy giảm quá nhanh không phù hợp cho ghép
và tái tạo xƣơng.
3. Đã nghiên cứu tổng hợp và xác định tính chất của hydrogel TA-PEG-Gelatin,
TA-TE-Chitosan, TA-PEG-Chitosan , TA-PEG-Chitosan oxi hóa và hydrogel composite TA-
PEG-Gelatin/BCP, TA-TE-Chitosan/BCP, TA-PEG-Chitosan/BCP , TA-PEG-Chitosan oxi
hóa/BCP. Kết quả cho thấy hydrogel và hydrogel composite với hệ xúc tác H2O2/HRP có thời
gian gel hóa nhanh, có cấu trúc xốp phù hợp cho xƣơng, không độc với tế bào xƣơng MG-63,
tƣơng hợp sinh học tốt, khối lƣợng suy giảm phù hợp cho ghép và tái tạo xƣơng, tuy nhiên chỉ
có hydrogel composite có khả năng kích thích và tạo mầm tinh thể HAp trên bề mặt. Do đó
chỉ có hydrogel composite phù hợp cho ghép và tái tạo xƣơng.
Phƣơng pháp nghiên cứu:
Sử dụng phƣơng pháp mới trong tổng hợp nano BCP là phƣơng pháp kết tủa kết hợp
sóng siêu âm tổng hợp hạt nano BCP ứng dụng trong vật liệu sinh y.
Sử dụng phƣơng pháp phổ nhiễu xạ tia X, phổ hồng ngoại để phân tích cấu trúc của
sản phẩm
Sử dụng kính hiển vi điện tử quét SEM để đánh giá hình thái của sản phẩm.
Sử dụng các phƣơng pháp biến tính vật liệu sinh học hiện đại và kỹ thuật dùng màng
thẩm tách để điều chế các polymer.
Sử dụng các phƣơng pháp phân tích cấu trúc và đánh giá độ chuyển hoá của quá trình
biến tính các polymer nhƣ : 1H NMR, UV-Vis.
Tóm tắt luận án tiến sĩ ngành khoa học vật liệu
Trang 6
Sử dụng các kỹ thuật nuôi cấy tế bào để đánh giá tƣơng hợp sinh học của các loại
hydrogel và hydrogel composite tổng hợp.
Sử dụng kính hiển vi điện tử quét SEM và phƣơng pháp phân tích nguyên tố EDS để
khảo sát khả năng tạo khoáng của hydrogel và hydrogel composite.
KẾT QUẢ VÀ BIỆN LUẬN
3. 1. TỔNG HỢP BCP
3.1.1. Kết quả phân tích XRD của BCP
Hình 3.1: Giản đồ XRD của HAp và β-TCP với tỉ lệ Ca/P = 1,53 tại các pH: (a) pH=7,
(b) pH=9 và (c) pH=11
Giản đồ nhiễu xạ tia X của các mẫu nghiên cứu đƣợc tổng hợp với tỉ lệ mol Ca/P =
1,53 (hình 3.1), tại pH=7 và pH=9 có các pic đặc trƣng của β-TCP: 25,80 (10 10); 27,77
(214); 31,03 (0210); 34,37 (220); 52,94 (20 20) [62, 104, 105] và các pic đặc trƣng của HAp:
25,90 (002); 29,14 (210); 31,86 (211); 32,20 (112); 32,90 (300); 34,22 (310); 46,69 (222);
49,51 (320); 53,27 (411) [101-103]. Điều này khẳng định các mẫu đƣợc tổng hợp với tỉ lệ mol
Ca/P = 1,53, tại pH=7 và pH=9 là BCP (hỗn hợp β-TCP và HAp).
Giản đồ nhiễu xạ tia X với tỉ lệ mol Ca/P = 1,53 (hình 3.1) tại pH=11 chỉ tồn tại các
pic đặc trƣng của HAp: 25,90 (002); 29,14 (210); 31,86 (211); 32,20 (112); 32,90 (300);
34,22 (310); 46,69 (222); 49,51 (320); 53,27 (411) [101-103]. Điều này khẳng định các mẫu
đó là HAp tại pH=11.
Trong khi đó, giản đồ nhiễu xạ tia X với tỉ lệ mol Ca/P=1,57 [phụ lục 3] cũng cho kết
quả giống nhƣ với tỉ lệ mol Ca/P=1,53, sản phẩm tại pH=7 và pH=9 có hai pha tinh thể β-TCP
và HAp và tại pH=11 chỉ tồn tại pha HAp.
Tuy nhiên, giản đồ nhiễu xạ tia X với tỉ lệ mol Ca/P=1,61 [phụ lục 4] tại pH=7 sản
phẩm có hai pha tinh thể β-TCP và HAp, còn tại pH=9 và pH=11 sản phẩm chỉ có 1 pha HAp.
Các công trình nghiên cứu trƣớc [62] cho thấy với tỉ lệ mol Ca/P=1,50 thì tổng hợp
đƣợc β-TCP, còn với tỉ lệ mol Ca/P=1,67 [64, 65] thì sẽ tổng hợp đƣợc HAp, nên khi tỉ lệ
mol Ca/P càng gần 1,67 thì xu thế tạo thành sản phẩm HAp càng nhiều. Tuy nhiên, khi môi
Tóm tắt luận án tiến sĩ ngành khoa học vật liệu
Trang 7
trƣờng phản ứng càng base thì phản ứng càng có xu thế tạo thành sản phẩm HAp. Do đó với
tỉ lệ mol Ca/P=1,53 và 1,57 tại pH=7 và pH=9 phản ứng vẫn có xu hƣớng tạo thành β-TCP,
nên sản phẩm có hai pha tinh thể β-TCP và HAp. Còn tỉ lệ mol Ca/P=1,53 và 1,57 tại pH=11
sản phẩm tạo thành chỉ có HAp.
Với tỉ lệ mol Ca/P=1,61 tại pH=7 phản ứng vẫn có xu hƣớng tạo thành β-TCP, nên
sản phẩm có hai pha tinh thể β-TCP và HAp. Còn tỉ lệ mol Ca/P=1,61 tại pH=9 và pH=11 sản
phẩm tạo thành chỉ có HAp.
Kết quả này phù hợp với những nghiên cứu đã đƣợc công bố của Bahman Mirhadi
(2011) [62], Byong- Taek Lee [63].
Thành phần HAp hoặc β-TCP, theo Sylvie Raynaud [106] đƣợc tính toán dựa trên các
pic nhiễu xạ là mặt phẳng (2 1 0) tại 2θ = 29,14° hoặc mặt phẳng (2 1 1) 2θ = 31,86° đối với
HAp và mặt phẳng (0 2 10) tại 2θ= 31,08° đối với β-TCP (các pic này đƣợc đánh dấu bằng
mũi tên trên hình 3.1). Tỷ lệ cƣờng độ đƣợc sử dụng để phân tích định lƣợng calcium
phosphate hai pha chứa HAp và β-TCP đƣợc xác định dựa trên đƣờng chuẩn của R1 theo
lƣợng (%) HAp [phụ lục 8] hoặc đƣờng chuẩn của R2 theo lƣợng (%) β-TCP [phụ lục 9]. Phần
trăm khối lƣợng của β-TCP và HAp của các mẫu nghiên cứu đƣợc tổng hợp đƣợc thể hiện
trong bảng 3.1.
Bảng 3.1: Tổng hợp các thông số và phần trăm khối lƣợng của β-TCP và HAp theo tỉ
lệ mol Ca/P
Tỉ lệ mol pH R2 %mβ-TCP %m HAp
1,53
7 2,8 35,8 64,2
9 2,7 33,8 66,2
11 0,0 0,0 100,0
1,57
7 2,4 26,3 73,7
9 1,6 18,8 81,2
11 0,0 0,0 100,0
1,61
7 2,1 23,6 76,4
9 0,0 0,0 100,0
11 0,0 0,0 100,0
Theo các nghiên cứu của Carlos A. Garrido [52] sản phẩm BCP với tỉ lệ % khối lƣợng
-TCP:HAp là 35: 65 phù hợp với ứng dụng cho xƣơng. Cho nên trong luận án này, chúng tôi
sử dụng sản phẩm BCP có % khối lƣợng -TCP:HAp là 33,8: 66,2 dùng tạo hydrogel
composite nhằm giúp xƣơng phát triển (BCP đƣợc tổng hợp với tỉ lệ mol Ca/P là 1,53, pH
môi trƣờng phản ứng là 9).
Tóm tắt luận án tiến sĩ ngành khoa học vật liệu
Trang 8
3.1.2. Kết quả phân tích IR của BCP
Phổ đồ FTIR cho thấy pic 3573 cm1 tƣơng ứng với các dao động của nhóm OH trong
HAp và pic 635 cm
-1 là dao động giãn của nhóm OH trong HAp. Các dải rất mạnh tại 1032
cm
-1
và 1092 cm
-1
tƣơng ứng với các nhóm PO4
-3
. Pic 962 cm
-1 tƣơng ứng với dao động bất
đối xứng của liên kết P-O trong nhóm PO4
3-
, và các pic 603 cm
-1
và 570 cm
-1
tƣơng ứng với
dao động uốn của PO4 trong HAp [62, 104, 105, 107-112].
Kết qủa phân tích này khẳng định mẫu nghiên cứu có chứa HAp.
Do đó kết hợp kết quả phân tích FTIR với kết quả phân tích XRD có thể khẳng định
tùy theo điều kiện phản ứng sẽ thu đƣợc sản phẩm là BCP (hỗn hợp β-TCP và HAp) hoặc
HAp.
3.1.3. Kết quả khảo sát hình thái của BCP bằng hình ảnh SEM
Kết qủa hình SEM cho thấy: phƣơng pháp kết tủa kết hợp sóng siêu âm (hình 3.3) cho
sản phẩm kích thƣớc nano và kích thƣớc các hạt tƣơng đối đồng đều. Trong khi đó phƣơng
pháp kết tủa không sử dụng sóng siêu âm [111] cho sản phẩm có kích thƣớc micro và đa phân
tán (hình 3.4).
Điều này có thể đƣợc giải thích bởi sóng siêu âm làm tăng hiệu ứng hóa học và hiệu
ứng vật lý, quá trình tạo-vỡ bọt xảy ra gần bề mặt phân pha lỏng-rắn làm giảm sự tích tụ của
các hạt. Ngoài ra sóng siêu âm tăng tốc độ tạo mầm tinh thể dẫn đến sản phẩm tạo thành có
kích thƣớc nhỏ hơn khi không sử dụng sóng siêu âm [113-115]. Vì vậy, trong nghiên cứu
chúng tôi sử dụng phƣơng pháp kết tủa kết hợp sóng siêu âm để tổng hợp BCP.
Hình 3.3: Hình ảnh SEM của HAp tổng hợp bằng phƣơng pháp kết tủa kết hợp sóng
siêu âm với tỉ lệ mol Ca/P= 1,61 tại pH=9
Hình 3.4: Hình ảnh SEM của HAp tổng hợp theo phƣơng pháp kết tủa không sử dụng sóng
siêu âm với tỉ lệ mol Ca/P= 1,67; tại pH=8 (h-1) và pH=9 (i-1) [111]
Tóm tắt luận án tiến sĩ ngành khoa học vật liệu
Trang 9
Phƣơng pháp kết tủa kết hợp sóng siêu âm cho sản phẩm từ các phản ứng với các tỉ lệ
mol Ca/P (1,53; 1,57; 1,61) tại các pH khác nhau (7; 9; 11) đều có kích thƣớc nano từ 70 đến
100 nm và tƣơng đối đồng đều.
3.2. HYDROGEL COMPOSITE TA-GELATIN/BCP
3.2.1. Tổng hợp TA-Gelatin
a. Xác định thành phần, cấu trúc của TA-Gelatin
Sản phẩm TA-Gelatin đƣợc tổng hợp thông qua phản ứng giữa nhóm amin của
tyramin và nhóm carboxyl của gelatin.
Phổ 1H NMR của TA-Gelatin đƣợc đo trong H2O
Hình 3.7: Phổ 1H NMR của TA-Gelatin
Phổ cộng hƣởng từ hạt nhân có các tín hiệu của các proton có trong gelatin nhƣ pic
đơn ở vị trí 4,8 ppm (proton vị trí anomeric carbone của gelatin) và các pic ở vị trí 0,8-
4,6ppm (proton của các nhóm alkyl của gelatin. Kết quả này phù hợp với các nghiên cứu của
Park [116, 117].
Sự xuất hiện của pic đôi ở vị trí 6,754; 7,105 ppm trong phổ cộng hƣởng từ hạt nhân
của TA-Gelatin chứng tỏ sự có mặt của proton Ha, Hb (nhóm -CH=CH- trong nhân thơm) của
tyramin. Kết quả này phù hợp với các nghiên cứu của Park [116, 117], điều này chứng tỏ TA-
Gelatin đã đƣợc tổng hợp thành công.
b. Xác định lượng TA trong TA-Gelatin
Lƣợng TA trong TA-Gelatin đƣợc xác định bằng phổ tử ngoại – khả kiến (UV-Vis).
Kết quả phân tích lƣợng TA trong TA-Gelatin cho thấy trong 100mg TA-Gelatin có 0,538mg
TA tƣơng đƣơng 0,00392 mmol TA.
3.2.2. Tổng hợp hydrogel TA-Gelatin và hydrogel composite TA-Gelatin/BCP
a. Xác định lượng H2O2 tối thiểu để tạo gel
Theo nghiên cứu của Kurisawa [97] số mol H2O2 tối thiểu cần phản ứng là 60% số
mol TA. Trên cơ sở đó, chúng tôi tính lƣợng H2O2 tối thiểu cần phản ứng với TA trong 10mg
TA-Gelatin để tạo gel là 0,00235 mmol tƣơng đƣơng lƣợng H2O2 là 0,008% trong dung dịch
TA-Gelatin 10%. Ngoài ra nồng độ H2O2 không sử dụng cao hơn 0,25% vì sẽ gây độc đối với
tế bào [119].
Tóm tắt luận án tiến sĩ ngành khoa học vật liệu
Trang 10
b. Khảo sát thời gian gel hóa của hydrogel TA-Gelatin và hydrogel composite TA-
Gelatin/BCP
Thời gian gel hóa của hydrogel là thông số có ý nghĩa trong việc định hƣớng ứng dụng
vật liệu nhƣ: tiêm hydrogel trực tiếp vào vết thƣơng hoặc định hình hydrogel trƣớc khi ghép
hydrogel vào vết thƣơng. Kết quả khảo sát thời gian gel hóa của hydrogel TA-Gelatin và
hydrogel composite TA-Gelatin/BCP bằng cách thay đổi lƣợng H2O2 và lƣợng HRP trong
dung dịch TA-Gelatin đƣợc thể hiện thông qua hình 3.8 và hình 3.9.
Hình 3.8: Đồ thị thời gian gel hóa của hydrogel TA-Gelatin và hydrogel composite
TA-Gelatin/BCP theo lƣợng H2O2/TA-Gelatin tại lƣợng HRP/TA-Gelatin là 0,00025% và
nồng độ TA-Gelatin 10%
Hình 3.9: Đồ thị thời gian gel hóa của hydrogel TA-Gelatin và hydrogel composite
TA-Gelatin/BCP theo lƣợng HRP/TA-Gelatin tại lƣợng H2O2/TA-Gelatin là 0,01% và nồng
độ TA-Gelatin 10%
Các đồ thị trên cho thấy thời gian gel hóa của hydrogel khá nhanh trong vài phút, và
lƣợng H2O2, lƣợng HRP ảnh hƣởng đến thời gian tạo gel.
Khi tăng lƣợng H2O2/TA-Gelatin từ 0,008 lên 0,025% (lƣợng HRP/TA-Gelatin
0,00025%, nồng độ TA-Gelatin 10%) thời gian tạo gel của hydrogel TA-Gelatin tăng từ 70
đến 180 giây. Kết quả này phù hợp với kết quả của các nghiên cứu trƣớc Jin [96], Kurisawa
[97], Veitch [119]. Điều này đã đƣợc giải thích nhƣ sau: khi lƣợng H2O2 cao, H2O2 ức chế
enzyme HRP làm cho thời gian tạo gel tăng lên.
Khi tăng lƣợng HRP/TA-Gelatin từ 0,00013 đến 0,001% (lƣợng H2O2/TA-Gelatin
0,01%, nồng độ TA-Gelatin 10%) thời gian tạo gel của hydrogel TA-Gelatin giảm từ 98 còn
48 giây. Điều này có thể giải thích nhƣ sau: khi lƣợng HRP tăng thời gian tạo gel nhanh hơn
Tóm tắt luận án tiến sĩ ngành khoa học vật liệu
Trang 11
do lƣợng enzyme xúc tác nhiều hơn nên liên kết ngang tạo thành nhanh hơn dẫn đến rút ngắn
thời gian tạo gel [96].
Trong trƣờng hợp hydrogel composite TA-Gelatin/BCP thời gian tạo gel ít thay đổi so
với thời gian tạo gel của hydrogel TA-Gelatin. Ví dụ: thời gian tạo gel của TA-Gelatin là 70
giây khi nồng độ TA-Gelatin 10%, lƣợng HRP/TA-Gelatin 0,00025 % và lƣợng H2O2/TA-
Gelatin 0,008%, khi có thêm BCP với lƣợng 10% thời gian tạo gel là 68 giây.
Điều này có thể giải thích do tƣơng tác của các hạt BCP và gelatin. Nhóm chức NH2,
OH, COOH của gelatin liên kết hydrogen với nhóm OH của HAp trong BCP, ngoài ra còn có
liên kết tạo phức của nhóm NH2 của gelatin và ion Ca
2+
của BCP [120-123]. Các liên kết giữa
các hạt BCP và gelatin làm mật độ liên kết của hydrogel composite tăng do đó thời gian tạo
gel của hydrogel composite giảm. Trái lại, BCP làm tăng độ nhớt của dung dịch nên ảnh
hƣởng đến quá trình khuếch tán xúc tác dẫn đến thời gian tạo liên kết ngang tăng dần. Dẫn
đến kết quả thời gian tạo gel của hydrogel composite TA-Gelatin/BCP ít thay đổi so với thời
gian tạo gel của hydrogel TA-Gelatin.
Tóm lại: thời gian gel hóa có thể điều chỉnh cho phù hợp với nhu cầu thực tiễn ứng
dụng bằng cách thay đổi lƣợng H2O2 hoặc HRP trong dung dịch TA-Gelatin.
3.2.3. Khảo sát hình thái của hydrogel TA-Gelatin và hydrogel composite TA-
Gelatin/BCP
Hình 3.10: Hình ảnh SEM của hydrogel TA-Gelatin và hydrogel composite TA-Gelatin/BCP
với các lƣợng BCP khác nhau
Hình ảnh SEM đƣợc sử dụng để khảo sát hình thái học của hydrogel TA-Gelatin và
hydrogel composite TA-Gelatin/BCP với các lƣợng BCP khác nhau (hình 3.10). Kết quả cho
thấy hydrogel TA-Gelatin và hydrogel composite TA-Gelatin/BCP có cấu trúc không gian ba
chiều xốp. Trong khi vật liệu đƣợc tổng hợp bằng phƣơng pháp đúc không có cấu trúc xốp
nhƣ hydrogel [124-127].
Cấu trúc không gian 3 chiều, xốp của hydrogel TA-Gelatin và hydrogel composite
TA-Gelatin/BCP tạo khoảng cƣ trú cho tế bào dịch chuyển và lƣu thông các yếu tố chuyển
hóa tạo xƣơng. Ngoài ra, tế bào và mạch máu có thể phát triển bên trong các lỗ xốp của vật
liệu giúp xƣơng phát triển bên trong vật liệu [27, 123]. Do đó, cấu trúc xốp của hydrogel và
hydrogel composite phù hợp cho ứng dụng trong lĩnh vực cấy ghép và tái tạo xƣơng.
Tóm tắt luận án tiến sĩ ngành khoa học vật li