Lợn Rừng, với quần thể khá lớn và phân bố rộng khắp lãnh thổ Âu - Á
(Euasia) từ lâu đã được loài người khai thác làm thực phẩm, các vật dụng. Lợn
rừng có nguồn gốc từ Bắc châu Phi và phần lớn từ vùng Âu - Á (Eurasia) kéo
từ các đảo nước Anh (British Isles) đến Triều Tiên và các bán đảo Sunda
Islands. Vùng bắc kéo từ Nam Scandinavia tới Nam Siberia và Nhật Bản.
Ý tưởng khai thác lợn Rừng - trong đó có việc chăn nuôi - để phục vụ con
người, ở nước ta được Lê Hiền Hào (1973) khởi xướng trong cuốn sách “Thú
kinh tế ở miền Bắc Việt Nam”. Tuy nhiên mãi đến 2001, một nông dân Bình
Phước đã thuần dưỡng một vài con lợn Rừng và lai chúng với một loại lợn đen
thường được các đồng bào vùng cao nuôi.
Năm 2005 một công ty tại Bình Phước đã nhập từ Thái Lan 100 con lợn
Rừng Thái Lan về nuôi thử nghiệm. Và sau đó hàng ngàn con được tiếp tục
nhập. Một phong trào nuôi lợn Rừng đã được nhen nhóm lên từ đó và được sự
ủng hộ của nhà nước Việt Nam với mong muốn đa dạng vật nuôi và tạo điều
kiện cho nông dân.
Hiện nay, có nhiều giống lợn nhập ngoại được nuôi phổ biến ở khắp các
địa phương trong cả nước, giúp nâng cao năng suất chăn nuôi, sản phẩm thịt
lợn được cung ứng đầy đủ trên thị trường hàng ngày; nhu cầu về thực phẩm
sạch có chất lượng tốt ngày càng lớn. Thịt lợn Rừng thơm ngon đặc trưng, bì
giòn, ít mỡ, hàm lượng cholesterol thấp, được rất nhiều người ưa thích và trở
thành món ăn đặc sản. Nguồn thịt lợn Rừng trước đây chủ yếu là săn bắn trên
Rừng, nhưng giờ đây nguồn cung cấp đó đã cạn kiệt; hơn nữa, nhà nước ta đã
cấm săn bắn để bảo vệ loài lợn Rừng. Chính vì vậy nghề chăn nuôi lợn Rừng
hình thành và phát triển đã đáp ứng kịp thời nhu cầu của người tiêu dùng.
Những năm đầu tiên, ở Việt Nam nuôi chủ yếu loại lợn Rừng có nguồn
gốc từ Thái Lan, Trung Quốc; nhập theo con đường tiểu ngạch hay chính
ngạch về, số khác được thuần dưỡng từ lợn Rừng Việt Nam.
27 trang |
Chia sẻ: thientruc20 | Lượt xem: 490 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Nghiên cứu xác định một số chỉ tiêu sinh sản và thử nghiệm thụ tinh nhân tạo cho lợn rừng trong điều kiện nuôi nhốt tại khu vực phía bắc Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯
PHÙNG QUANG TRƯỜNG
NGHIÊN CỨU XÁC ĐỊNH MỘT SỐ CHỈ TIÊU SINH SẢN
VÀ THỬ NGHIỆM THỤ TINH NHÂN TẠO CHO
LỢN RỪNG TRONG ĐIỀU KIỆN NUÔI NHỐT
TẠI KHU VỰC PHÍA BẮC VIỆT NAM
Chuyên ngành : Sinh sản và Bệnh sinh sản gia súc
Mã số : 62.64.01.06
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
Hµ NéI, 2017
Công trình được hoàn thành tại:
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. Nguyễn Văn Thanh
2. TS. Vũ Như Quán
Phản biện 1: PGS.TS. Nguyễn Tấn Anh
Hội Chăn nuôi
Phản biện 2: TS. Sử Thanh Long
Học viện Nông nghiệp Việt Nam
Phản biện 3: TS. Đào Đức Thà
Viện Chăn nuôi
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án cấp
Học viện, họp tại: Học viện Nông nghiệp Việt Nam
Vào hồi 08h30 ngày 28 tháng 12 năm 2017
Có thể tìm hiểu Luận án tại thư viện:
- Thư viện Quốc gia
- Thư viện Học viện Nông nghiệp Việt Nam
1
PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Lợn Rừng, với quần thể khá lớn và phân bố rộng khắp lãnh thổ Âu - Á
(Euasia) từ lâu đã được loài người khai thác làm thực phẩm, các vật dụng. Lợn
rừng có nguồn gốc từ Bắc châu Phi và phần lớn từ vùng Âu - Á (Eurasia) kéo
từ các đảo nước Anh (British Isles) đến Triều Tiên và các bán đảo Sunda
Islands. Vùng bắc kéo từ Nam Scandinavia tới Nam Siberia và Nhật Bản.
Ý tưởng khai thác lợn Rừng - trong đó có việc chăn nuôi - để phục vụ con
người, ở nước ta được Lê Hiền Hào (1973) khởi xướng trong cuốn sách “Thú
kinh tế ở miền Bắc Việt Nam”. Tuy nhiên mãi đến 2001, một nông dân Bình
Phước đã thuần dưỡng một vài con lợn Rừng và lai chúng với một loại lợn đen
thường được các đồng bào vùng cao nuôi..
Năm 2005 một công ty tại Bình Phước đã nhập từ Thái Lan 100 con lợn
Rừng Thái Lan về nuôi thử nghiệm. Và sau đó hàng ngàn con được tiếp tục
nhập. Một phong trào nuôi lợn Rừng đã được nhen nhóm lên từ đó và được sự
ủng hộ của nhà nước Việt Nam với mong muốn đa dạng vật nuôi và tạo điều
kiện cho nông dân.
Hiện nay, có nhiều giống lợn nhập ngoại được nuôi phổ biến ở khắp các
địa phương trong cả nước, giúp nâng cao năng suất chăn nuôi, sản phẩm thịt
lợn được cung ứng đầy đủ trên thị trường hàng ngày; nhu cầu về thực phẩm
sạch có chất lượng tốt ngày càng lớn. Thịt lợn Rừng thơm ngon đặc trưng, bì
giòn, ít mỡ, hàm lượng cholesterol thấp, được rất nhiều người ưa thích và trở
thành món ăn đặc sản. Nguồn thịt lợn Rừng trước đây chủ yếu là săn bắn trên
Rừng, nhưng giờ đây nguồn cung cấp đó đã cạn kiệt; hơn nữa, nhà nước ta đã
cấm săn bắn để bảo vệ loài lợn Rừng. Chính vì vậy nghề chăn nuôi lợn Rừng
hình thành và phát triển đã đáp ứng kịp thời nhu cầu của người tiêu dùng.
Những năm đầu tiên, ở Việt Nam nuôi chủ yếu loại lợn Rừng có nguồn
gốc từ Thái Lan, Trung Quốc; nhập theo con đường tiểu ngạch hay chính
ngạch về, số khác được thuần dưỡng từ lợn Rừng Việt Nam.
Đối với các nhà khoa học Việt Nam, lợn Rừng thực sự là đối tượng mới,
các thông tin hay các nghiên cứu về nó còn rất ít. Cũng giống như các loài vật
nuôi khác, lợn Rừng nuôi trong gia đình, trang trại cũng gặp phải những khó
khăn: Sân chơi hẹp, năng suất sinh sản thấp, dịch bệnh do chưa được nghiên
cứu đầy đủ và ứng dụng rộng rãi các tiến bộ kỹ thuật.
Trong chăn nuôi lợn Rừng tại Việt Nam, việc khai thác, đánh giá chất
lượng tinh dịch và thụ tinh nhân tạo trên lợn Rừng và lợn Rừng với lợn bản địa
còn rất hạn chế, chưa có nhiều nghiên cứu trong lĩnh vực này. Vì vậy các số
liệu khoa học, những thông tin về vấn đề này còn bỏ ngỏ và mới mẻ. Việc
nghiên cứu về khai thác, đánh giá chất lượng tinh dịch và Thụ tinh nhân tạo
trên đối tượng lợn Rừng là một vấn đề vô cùng cấp thiết hiện nay.
2
1.2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
- Xác định, đánh giá một số chỉ tiêu sinh sản của lợn Rừng nhập nội từ Thái
Lan qua các chỉ tiêu: Tuổi thành thục về tính, tuổi phối giống lần đầu, thời điểm phối
giống thích hợp, thời gian mang thai, tuổi đẻ lứa đầu, thời gian động dục lại sau khi
cai sữa, số lượng con sinh ra/lứa, khối lượng ở các lứa tuổi, tỉ lệ nuôi sống đến 24h, tỉ
lệ nuôi sống đến 60 ngày, khoảng cách 2 lứa đẻ, chu kì động dục.
- Khai thác đánh giá chất lượng tinh lợn Rừng đực Thái Lan và thử
nghiệm thụ tinh nhân tạo cho lợn Rừng lợn bản địa trong điều kiện nuôi nhốt:
Phương pháp huấn luyện và khai thác tinh lợn, chất lượng tinh dịch, thử
nghiệm thụ tinh nhân tạo cho lợn Rừng và lợn bản địa.
1.3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1.3.1. Địa điểm
* Nội dung 1: Các chỉ tiêu sinh sản trên đàn lợn Rừng được thực hiện tại
các địa điểm: Vĩnh Phúc, Hòa Bình và Hà Nội.
* Nội dung 2: Thử nghiệm thụ tinh nhân tạo cho lợn Rừng trong điều kiện
nuôi nhốt, được thực hiện tại trang trại lợn Rừng Mỹ Hạnh và Huệ Linh của
huyện Ba Vì - Hà Nội.
1.3.2. Thời gian
* Nội dung 1: Các chỉ tiêu sinh sản trên đàn lợn Rừng được thực hiện từ
năm 2012.
* Nội dung 2: Thử nghiệm thụ tinh nhân tạo cho lợn Rừng trong điều kiện
nuôi nhốt thực hiện từ tháng 3 năm 2014 đến tháng 2 năm 2016.
1.4. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI
- Kết quả của luận án là công trình khoa học công bố tổng hợp về một số
chỉ tiêu sinh sản của lợn Rừng trong điều kiện nuôi nhốt tại miền Bắc Việt Nam .
- Kết quả của luận án là công trình khoa học lần đầu tiên đã đánh giá được
số lượng, chất lượng tinh dịch và thử nghiệm thụ tinh nhân tạo cho lợn Rừng và
lợn Rừng lai lợn Móng cái.
1.5. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
- Kết quả nghiên cứu của đề tài về một số chỉ tiêu sinh sản của lợn Rừng
trong điều kiện nuôi nhốt tại miền Bắc Việt Nam là tư liệu cơ sở cho người
chăn nuôi và nhà chuyên môn đề ra phương pháp quản lý, chăm sóc nuôi
dưỡng nâng cao khả năng sinh sản của lợn Rừng
- Kết quả nghiên cứu về khai thác và thử nghiệm thụ tinh nhân tạo cho
lợn Rừng và lợn Rừng lai lợn Móng cái là cơ sở cho việc nhân giống lợn Rừng
chất lượng cao và tăng hiệu quả kinh tế cho người chăn nuôi lợn Rừng. Đây là
nội dung mới được nghiên cứu tại Việt Nam.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài là cơ sở cho việc đề ra những chính sách
cụ thể nhằm quản lý và phát triển đàn lợn Rừng cả về số lượng và chất lượng,
nâng cao hiệu quả chăn nuôi, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn và nhu cầu ngày
càng cao của xã hội.
3
PHẦN 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. TÌNH HÌNH CHĂN NUÔI LỢN RỪNG TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
2.1.1. Nguồn gốc của lợn Rừng
Lợn Rừng có nguồn gốc từ Bắc châu Phi và phần lớn từ vùng Âu - Á
(Eurasia) kéo từ các đảo nước Anh (British Isles) đến Triều Tiên và các bán
đảo Sunda Islands. Vùng bắc kéo dài từ Nam Scandinavia tới Nam Siberia
và Nhật Bản.
Vùng sống của lợn Rừng Eurasian khá đa dạng, từ ôn đới tới nhiệt đới,
bán sa mạc tới các rừng ẩm ướt, đồng cỏ cho tới rừng rậm, và thường đến
những vùng cây trồng để kiếm ăn. Lợn Rừng sống ngay cả vùng Pyrenees có
độ cao 2400 m, nhưng ở châu Á chúng còn sống cao hơn (theo Wikipedia,
2010).
Lợn Rừng có tên khoa học là Sus scrofa, được phân loại là động vật có
hộp sọ, có xương sống, có quai hàm, có 4 chân, có màng ối, có vú, có nhau, bộ
guốc chẵn, thuộc chi Lợn.
Tính tới năm 2005, có 16 phân loài được công nhận. Lợn Rừng sống theo
nhóm mẫu hệ gồm các con đực non, con cái và con của chúng. Con đực trưởng
thành thường sống đơn độc trừ khi vào mùa sinh sản. Sói xám là thiên địch chính
của lợn Rừng tại hầu hết phạm vi sinh sống của chúng. Chúng là tổ tiên của hầu
hết các giống lợn nhà và là một loài thú săn trong nhiều nghìn năm.
Loài lợn rừng có tên khoa học là Sus Scrofa, thuộc chi Sus, họ Suidae, bộ
Artiodactyla, lớp động vật có vú, ngành Chordata, giới animalia tiếng Anh là
wild hogs, wild boars. Synonyms: Eurasian wild boar (Wikipedia, 2010).
Theo đó vùng duyên hải nam Trung Quốc và nam Việt Nam có giống
Sus.Serofa Moupinensis và Thái Lan có Sus.Serofa Cristatus.
Tuy nhiên lợn rừng tại Thái Lan là phân loài Sus.Serofa Jubatus (dẫn theo
Kvisna Keo Sua Um và Phira Krai Xeng Xri, 2005). Phân loài này cũng có tại
Malaysia.
2.1.2. Chăn nuôi lợn Rừng trên thế giới
Trong một số nước như Pháp và Italia, lợn Rừng được nuôi để ăn thịt và
thường được bán trong quán ăn hoặc khách sạn, mặc dù người ta cho rằng thịt
lợn Rừng có liên quan đến việc lây truyền bệnh Hepatitis E từng đã được phát
hiện ở Nhật. Ở Đức thịt lợn Rừng được xếp vào hạng thịt đắt tiền.
Pháp là nước nuôi khá nhiều lợn Rừng, có đến 800 trại (Chăm niên
Thoong Phăn Chăng, 2005). Ngay trong tự nhiên số này đã rất lớn: năm 2004-
2006 ước tính có 415 000 con và năm 2007-2008 đã tăng lên 522 000 con
(Selena, 2010).
Nước Anh nuôi lợn Rừng theo kiểu chăn nuôi hữu cơ (organic
farming). Tại nước này có hai kiểu được ứng dụng: đó là quảng canh (thả
tự do – free managed) và thâm canh (brown-dirt’ farming). Kiểu đầu được
ưa chuộng hơn vì đảm bảo được yêu cầu về quyền động vật (animal
welfare) và thịt lợn sản xuất ra cũng có vị ngon hơn. Kiểu này yêu cầu phải
có các trang bị như đất, hàng rào, các công cụ xử lý lợn, đàn giống. Tuy
4
nhiên nhược điểm lớn nhất của kiểu này là lợn phá hủy lớp trên của bề mặt
đất. Lợn Rừng được xem là động vật nguy hiểm và nằm trong sự quản chế
của luật “- Luật động vật nguy hiểm - Dangerous Wild Animals Act 1976
(Modification) Order 1984” (Farm Diversitification, 2010).
Theo Farm Diversitification (2010) thì tại nước Anh hiện có 100 trại,
riêng tại Scotland đã có 30 với khoảng 2000 lợn nái sinh sản.
Lợn Rừng sinh sản một năm một lần, đẻ con vào mùa xuân, 6 con / ổ, 12-
18 tháng đạt trưởng thành. Mức sinh sản như thế không lợi về kinh tế. Vì thế
một số nông dân lai lợn Rừng với lợn nhà nhằm cải tạo tính trạng này, nhưng
mùi vị (flavour) lại không đạt được như lợn Rừng (Farm Diversitification
(2010).
Tại Mỹ:
Có hình thức là tạo con lai giữa lợn Rừng và lợn nhà và nuôi thả trong các
vuờn quốc gia để phục vụ săn bắn - gọi là Wild Game boar (American Wild
Game, 2010). Lọai lợn này cũng được mổ thịt và xuất bán. Công ty B W
Procurement LLC tại bang Texas là một trong những tổ chức hoạt động bán
thịt lợn Rừng lọai này với chứng chỉ chất lượng của (USDA) (Bộ Nông nghiệp
Hoa Kỳ) và EU.
Tại Thái Lan:
Theo Chăm niên Thoong Phăn Chăng (2002) việc săn bắn lợn Rừng ở
Thái Lan cũng xảy ra nhiều do không bị cấm. Có ngày hàng ngàn kilogram thịt
lợn Rừng bị săn bắn được bán trên thị trường. Hơn thế, "Tổ hợp tác nuôi lợn
Rừng Sa Sơng Sau" cho biết do thiếu nên thịt lợn Rừng cũng được nhập từ
Malaysia với số lượng khoảng 10 tấn trong một ngày. Tuy nhiên do nhu cầu
tăng nên dân chúng đã thuần dưỡng và chăn nuôi chúng.
Theo Chăm niên Thoong Phăn Chăng (2002), tỉ lệ chết đến khi cai sữa là
20%, các loại bệnh xảy ra với lợn nhà cũng có thể xảy ra với lợn Rừng và lây
sang lợn Rừng được như nhau, như bệnh lây nhiễm vi khuẩn vi rút, nấm mốc,
sán lãi kể cả bên ngoài và bên trong. Trên thực tế mà nói, thường hay gặp các
loại vi trùng lạ ở trong làng mạc mà đem lợn Rừng về nuôi có khả năng lây lan
sang lợn nhà được.
2.1.3. Chăn nuôi lợn Rừng tại Việt Nam.
Theo Lê Hiền Hào (1973), ở miền Bắc, lợn Rừng hầu như có mặt tất cả
các vùng, với môi trường sống rất đa dạng. Số lượng săn bắn và đánh bẫy được
hàng năm khoảng 1 vạn con.
Chăn nuôi lợn Rừng tại Việt Nam bắt đầu từ năm 2001 với việc ông Bảy
Dũng (50 tuổi, cán bộ Phòng Kiểm sát huyện Đông Phú, tỉnh Bình Phước) vốn
là một thợ săn. Ông thuần hóa một số lợn đực Rừng và đồng thời dùng lợn đực
Rừng lai với giống lợn đen của các dân tộc thiểu số vùng đó. Ông cũng nuôi 1
lợn con (20 kg) lợn Rừng VN. Một bước ngoặt lớn đã đến với nghề chăn nuôi
mới mẻ này. Đó là tháng 5/2005 Công ty TNHH Khánh Giang đã nhập đầu tiên
100 lợn rừng Thái Lan về Bình Phước Theo Giấy phép số 409/CV - NN - CN
ngày 23/3/2005 và số 594/TY - KD ngày 25/5/2005 (Đỗ Kim Tuyên, 2006).
5
Tiếp đó hàng ngàn lợn được các công ty khác nhau, nhiều nhất là “Công ty Bạn
của Bạn” của ông Trương Ngạt, nhập về.
Theo Đỗ Kim Tuyên (2006), qua nghiên cứu chăn nuôi của Công ty
Khánh Giang, cho biết, lợn rừng Thái Lan “ăn và sử dụng có hiệu quả nhiều
loại thức ăn có trong tự nhiên hơn bất kỳ vật nuôi nào mà con người đã có”,
như “cây chuối, hoa chuối, bẹ chuối, rau muống, rau đắng, ngọn mía, bèo tây,
lá rau lấp, ngô hạt, ngô bắp, cây ngô, củ sắn, khoai tây, măng tre, cỏ tươi, xoài,
dưa hấu, vỏ mít, rau sống v.v. Chúng có khả năng thích ứng và đề kháng tốt
với khí hậu nóng ẩm của Miền Đông Nam Bộ, ít bệnh tật, dễ thích ứng với điều
kiện nuôi dưỡng và chăm sóc của nông dân Việt Nam.
Đa phần lợn Rừng nuôi tại Việt Nam là lợn Thái Lan. Kỹ thuật nuôi
cũng một phần được du nhập từ nước này. Theo Tăng Xuân Lưu và cs.
(2010) lợn Rừng chủ yếu được nuôi ở các tỉnh phía nam (khoảng 65%) tại
các tỉnh: Bình Dương, Bình Phước, Thành phố Hồ Chí Minh. Trang trại của
công ty Khánh Gia được coi là lớn nhất phía Nam với 200 con lợn Rừng nái.
Ngoài ra, còn các trang trại khác: Trang trại ở Long An có 60 nái, trang trại ở
Vũng Tàu có 80 nái, trang trại ở Tây Nguyên với 35 nái, trang trại ở Nha
Trang có 30 nái, trang trại ở Phú Yên có 20 nái, ở Đà Nẵng có 40 nái, trang
trại Lý Phong Sắc ở Hà Tĩnh có 30 nái, ở Vĩnh Yên có 80 nái, 8 trang trại ở
Hoà Lạc có 170 nái, hệ thống thuộc mô hình của Viện Chăn nuôi đặt tại khu
vực Ba Vì có 120 nái. Các trang trại ở các tỉnh khác cũng phát triển rải rác
với 5 - 15 nái được bắt nguồn từ các trang trại của Viện Chăn nuôi từ năm
2008 tới nay.
2.2. ĐẶC ĐIỂM, ĐẶC TÍNH, SINH TRƯỞNG VÀ SINH SẢN CỦA LỢN RỪNG
2.2.1. Đặc điểm và đặc tính của lợn Rừng
Cơ thể tròn trịa (compact), đầu to, chân hơi ngắn. Bộ lông gồm lông thô
cứng và lông mịn hơn. Màu biến động từ xám tối tới màu đen hay màu nâu và
có sự khác nhau giữa các vùng địa lý. Con trưởng thành dài khoảng 120–
180 cm và cao vai khoảng 90 cm, nặng khoảng 50–90 kg với sự dao động lớn
Theo vùng địa lý. Tại Italia lợn rừng nặng 80-100 kg; tại Tuscany có con nặng
150 kg, tại Pháp là 227 kg, tại Rumani và Nga có khi đến 300 kg (theo
Wikipedia, 2010).
Theo Tăng Xuân Lưu (2010), Lợn con khi mới sinh ra có các sọc dưa kéo
dọc thân màu son, sô cô la và kem. Các sọc này sẽ mất đi lúc 6 tháng tuổi. Lợn
trưởng thành đều có những điểm chung là má bạc, lợn đực thường có bộ răng
nanh to và dài.
Một đặc điểm quan trọng nữa là mỗi sợi lông của lợn rừng dài và nhám,
có lỗ chân lông ở trên lớp da tạo thành cụm, mỗi cụm có 3 lỗ, mỗi lỗ có 1 sợi
lông. Còn đối với lợn nhà lông được phân bố đều khắp thân mình và không
gom thành búi.
Trên sống lưng lợn Rừng từ trán cho đến sát đuôi có mào lông, mỗi sợi
lông dài khoảng trên 6 cm. Mào lông này sẽ dựng đứng lên khi nó nghe âm
thanh lạ hoặc ngửi thấy mùi kẻ thù. Lợn nhà không có lông mào.
6
Chăm niên Thoong Phăn Chăng (2002): Lợn rừng thích đào bới. Vì thế
chân hàng rào phải chắc chắn, để tránh chúng thóat ra ngòai.
Lợn đực thường là những con vật hoạt động lúc hòang hôn (crepuscular),
gặm cỏ từ chạng vạng tối tới rạng đông, có khoản thời gian nghỉ ngơi ban ngày
và ban đêm. Tại Australia chúng cũng là những sát thủ của dê và cừu non.
Trong thiên nhiên lợn Rừng thích sinh sống với nhau thành bầy đàn, đàn
nhỏ có 5-6 con, đàn lớn đến 50 cũng có. Trong một đàn lợn có thể chung sống
với nhau nhiều thế hệ, cả đực lẫn cái. Con đực cỡ lớn chỉ ở chung trong mùa
phối giống. Còn bình thường sẽ tách đàn rời đi ở một mình nơi khác, thường
gọi lợn đực sống một mình là lợn độc. Có thể vì lợn độc có cơ thể cường tráng
to lớn có răng nanh dài và sắc nhọn có khả năng tự bảo vệ mình được hoặc có
thể vì nó hung dữ, lợn Rừng khác nhỏ hơn không địch lại hoặc không muốn
sống chung nên kéo nhau đi khỏi đàn. Lê Hiền Hào (1973) nghiên cứu trên lợn
Rừng Vịêt Nam, Chăm niên Thoong Phăn Chăng (2002) nghiên cứu trên lợn
Rừng Thái Lan cũng đều nói tới hiện tượng này.
2.2.2. Khả năng sinh trưởng của lợn Rừng
Theo Kvisna Keo Sua Um và Phira Krai Xeng Xri (2005), con đực có thể
cao đến 90cm, 1 năm tuổi nặng 60-70kg khi làm thịt rồi lượng thịt lấy được chỉ
40kg thịt/con. Theo Chăm niên Thoong Phăn Chăng (2002) thì tỉ lệ chết đến
khi cai sữa là 20%, lợn 2 tháng tuổi nặng 5-6 kg.
Theo Lê Hiền Hào (1973), lợn Rừng ở miền Bắc Việt Nam (Sus Scrofa
Linnaeus) mới đẻ ra dài khoảng 280-320 mm, nặng 800-1200 g, 20 ngày tuổi
nặng 2-3 kg, bú sữa 2-3 tháng, 7 tháng tuổi nặng 20-25 kg. Số con đẻ ra từ 3
đến 10 con, nhưng trung bình chỉ 5-6 con. Mùa đẻ kéo dài từ tháng 1 đến tháng
11, tức là gần như quanh năm.
Theo Nguyễn Đình Vừ (2007), lợn Rừng Việt nam trưởng thành ở Vườn
quốc gia Pù Mát nặng 40-200kg, thân dài 135-150cm, đuôi dài 20-30cm, cao
50-70cm, bàn chân sau phát triển dài 11-14cm, sọ dài 28,5- 31cm, rộng 12-
15 cm, khẩu cái dài 20-22 cm rất thích hợp cho việc đào bới, ủi đất tìm kiếm
thức ăn.
Theo Đỗ Kim Tuyên và cs. (2006), khi theo dõi lơṇ rừng ở công ty Khánh
Giang - Bình Phước cho biết lợn Rừng Thái Lan 7 - 8 tháng tuổi có thể trọng 40 -
60 kg (với lợn cái có thể cho phối giống).
2.2.3. Khả năng sinh sản của lợn Rừng
Theo Tăng Xuân Lưu (2010) cho biết lợn Rừng lúc động dục và phối
giống xong, lúc mang thai có thể sống chung với bầy đàn cho đến lúc đẻ con,
lúc gần đẻ sẽ tách bầy, làm tổ để đẻ. Phần lớn lợn làm tổ bằng cỏ và nhánh
cây tùy khả năng của nó kiếm được về đánh đống cao khoảng 1m nó kiếm
chỗ cao làm tổ.
Tuổi thành dục lợn cái dao động khá lớn (8 - 24 tháng tuổi), phụ thuộc
vào điều kiện môi trường và dinh dưỡng. Thời gian mang thai giống lợn nhà
(khoảng 114 ngày). Thời gian đẻ (từ con đầu đến con cuối) 2 - 4 giờ. Quá trình
đẻ diễn ra theo tự nhiên, không cần sự giúp đỡ hoặc can thiệp của con người. Lợn
7
Rừng đẻ 2 - 2,5 lứa/năm, lứa đầu (con so) đẻ 3 - 5 con, lứa rạ đẻ nhiều hơn (7 -
12 con). Lợn Rừng sơ sinh có tầm vóc nhỏ, khối lượng bình quân 0,5 - 0,9
kg/con. Lợn 1 - 2 tháng tuổi: 5 - 10 kg, 3 - 4 tháng tuổi: 15 - 20 kg, 8 - 12 tháng:
60 - 70 kg, khi trưởng thành: trên 100 kg. Theo Lê Đình Phùng và cs. (2011), lợn
Rừng Thái Lan có số con sơ sinh 5,87 con/lứa, số con còn sống đến cai sữa 4,43
con/lứa, khối lượng sơ sinh đạt 0,37 kg/con, khối lượng cai sữa lúc 120 ngày tuối
đạt 13,83 kg/con, khoảng cách lứa đẻ là 229,3 ngày. Bên cạnh đó, đã có ít công
trình nghiên cứu lai giữa lợn Rừng Thái Lan và với lợn địa phương (Nguyễn
Ngọc Phục và cs., 2010a).
Theo Chăm niên Thoong Phăn Chăng (2002) thì bản năng của lợn mẹ
không nằm đè lên lợn con (nhưng các giống lợn như Vân Pa, hoặc lợn
Landrace ... thì có).
Đối với lợn sinh ra, cần có khoảng rộng để chúng có thể chạy nhảy. Ghép
mẹ: có thể bị mẹ ghẻ hoặc con của mẹ ghẻ xua đuổi, cắn chết.
Theo Kvisna Keo Sưa Um và Phira Krai Xeng Xri (2005), khi đẻ lợn
nái sẽ tự tạo ra ổ. Khi sắp sửa đẻ phải nhốt con mẹ riêng tránh tình trạng
lợn khác ăn thịt lợn con, con mới đẻ có dính chất bầy nhầy trên thân, mùi
tanh, hấp dẫn cho các con lợn Rừng khác vào ăn thịt lợn con vì vậy đó là
nguyên nhân phải nhốt lợn mẹ ở riêng 1 chuồng. Ngoài ra chúng ta còn lấy
rơm, cỏ, cành cây quẳng vào chuồng để lợn mẹ làm ổ để đẻ để cho lợn rừng
tự đào hầm để đẻ.
2.2.4. Nuôi dưỡng chăm sóc lợn Rừng
Theo Kvisna Keo Sưa Um và Phira Krai Xeng Xri (2005), chuồng trại:
Nền chuồng lợn có thể là xi măng hoặc đất.
Khi đẻ lợn nái sẽ tự tạo ra ổ. Khi lợn đến ngày đẻ phải nhốt con mẹ
riêng tránh tình trạng lợn khác ăn thịt lợn con, con mới đẻ có dính chất bầy
nhầy trên thân, mùi tanh, hấp dẫn cho các con lợn rừng khác vào ăn thịt lợn
con.
Theo Tăng Xuân Lưu (2010) cho rằng Lợn Rừng Việt Nam lai Thái Lan:
Đây được coi là loại giống ưu việt nhất, do con giống ở đời này đã loại bỏ được
những nhược điểm ở lợn Rừng Thái và phát huy được những ưu điểm của lợn
Rừng Việt Nam, lợn mẹ trưởng thành cũng chỉ khoảng 35-50 kg, mõm dài và
nhọn, cổ dài thắt ngẫn, đầu nhỏ, không có má, dáng cao, thân dài, đẻ con vừa
phải (khoảng 5-7 con/lứa). Áp dụng đúng kỹ thuật nuôi lợn không có mỡ (95%
là thịt nạc), bán được giá và được thị trường ưa