Bước vào thế kỷ XXI thế giới có những biến đổi nhanh chóng, sâu sắc và
phức tạp với những cơ hội và thách thức to lớn đối với từng quốc gia, đặc biệt
là đối với các nước nghèo và chậm phát triển. Mặc dù thế giới có thể còn có
nhiều diễn biến phức tạp với sự hợp tác và đấu tranh đan xen lẫn nhau, song
xu thế hòa bình, ổn định, hợp tác để tiếp tục phát triển vẫn là xu thế chủ đạo
trên thế giới, chi phối các quan hệ quốc tế cũng như chiến lược phát triển của
từng nước. Hội nhập quốc tế nhằm mở rộng hoạt động hợp tác quốc tế trên
mọi lĩnh vực đời sống đã và đang trở thành xu thế nổi bật của thời đại. Bất cứ
quốc gia nào muốn xây dựng đất nước, phát triển kinh tế xã hội tất yếu phải
tham gia vào xu thế đó. Trong bối cảnh ấy, Việt Nam không thể không hội nhập
quốc tế, tranh thủ mọi cơ hội để phát triển.
Để chủ động hội nhập với thế giới, đảm bảo phát triển nhanh, bền vững,
Việt Nam cần phải tích cực, chủ động phát huy và sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực, cả nội lực và ngoại lực để phát triển kinh tế - xã hội, đưa đất nước
vững bước tiến lên con đường chủ nghĩa xã hội. Phát huy nội lực và ngoại lực
giúp chúng ta mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế, tiếp thu thành tựu văn minh
nhân loại, phát huy mọi lợi thế so sánh của quốc gia, rút ngắn quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa để phát triển. Phát huy nội lực và ngoại lực trở thành
yêu cầu tất yếu, là nhu cầu bức thiết đối với Việt Nam trong xu thế hội nhập
để phát triển đất nước hiện nay. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI của Đảng đã chỉ rõ: “Phát huy nội lực và sức mạnh dân tộc là yếu tố quyết
định, đồng thời tranh thủ ngoại lực và sức mạnh thời đại là yếu tố quan trọng
để phát triển nhanh, bền vững và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ”.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong những năm qua, nhà nước đã không
ngừng hoàn thiện chính sách, pháp luật, tạo môi trường thuận lợi để phát huy
nội lực, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, an ninh quốc gia, phát triển kinh
tế, đồng thời chủ động thu hút được nhiều nguồn ngoại lực và khai thác, sử
dụng ngày càng có hiệu quả hơn các nguồn lực cho sự phát triển, đưa đất
nước từng bước hội nhập sâu rộng với thế giới. Thành tựu đó cho thấy vai trò
to lớn của nhà nước đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực cho sự phát
triển kinh tế - xã hội ở nước ta.
Tuy nhiên, trong quá trình quản lý, điều hành việc phát huy nội lực và
ngoại lực, vai trò của nhà nước có lúc chưa thực sự được thể hiện đúng mức
và đầy đủ do sự chi phối đa dạng, phức tạp của quá trình hội nhập quốc tế, đặc
biệt là do những hạn chế thuộc về bản thân nhà nước như: bộ máy cồng kềnh,
chậm thích ứng với những biến động của thế giới; trình độ quản lý, điều tiết vĩ
mô của nhà nước chưa đáp ứng được yêu cầu của việc phát huy nội lực và
ngoại lực; hệ thống pháp luật, chính sách thiếu đồng bộ; công tác cán bộ còn
2
chậm đổi mới; công tác tổ chức thực hiện việc phát huy nội lực và ngoại lực
còn lúng túng, thiếu chủ động
Những hạn chế đó của nhà nước đặt việc phát huy nội lực và ngoại lực trước
những khó khăn, thách thức và chưa đạt hiệu quả như mong muốn. Cụ thể là:
Việc phát huy nội lực còn dưới mức khả năng phát triển của đất nước.
Việc thu hút ngoại lực đã tích cực hơn nhưng chưa thực sự chủ động. Việc
khai thác và sử dụng các nguồn lực, cả nội lực và ngoại lực để phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước chưa hợp lý, chưa tương xứng với tiềm năng, chưa
phát huy hết vai trò của nó trong việc thúc đẩy quá trình chủ động hội nhập
quốc tế ở nước ta.
Bên cạnh đó, việc phát huy nội lực và ngoại lực chưa thực sự đem lại sự
phát triển bền vững cho đất nước. Nền kinh tế Việt Nam phát triển năng động
với tốc độ tăng trưởng khá nhưng hiệu quả kinh tế còn thiếu bền vững, “chất
lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh thấp; chuyển dịch cơ cấu theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa còn chậm, cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc; chế độ
phân phối còn nhiều bất hợp lý”. Việc khai thác, sử dụng nội lực và ngoại lực
chưa hợp lý dẫn đến suy kiệt nhiều nguồn tài nhiên thiên nhiên, hủy hoại môi
trường sinh thái, làm thay đổi mô hình bệnh tật, ảnh hưởng đến chất lượng
nguồn nhân lực
Mặt khác, việc phát huy nội lực và ngoại lực trong bối cảnh hội nhập
quốc tế với nhiều biến động phức tạp hiện nay đã đặt ra không ít khó khăn,
thách thức cho sự phát triển đất nước. Sự tác động mạnh mẽ của các nguồn
ngoại lực từ nhiều phía có thể thu hẹp phạm vi tác động của nhà nước, gây
mất an toàn hệ thống kinh tế, tài chính, an ninh quốc gia; làm trầm trọng sự
bất công xã hội, đào sâu hố ngăn cách giữa người giàu, người nghèo, giữa các
quốc gia trên thế giới; nhiều nguồn viện trợ, hợp tác chuyển giao công nghệ
mang động cơ chính trị có thể dẫn tới nguy cơ chệch hướng;. Khủng hoảng
kinh tế toàn cầu đặt các nước có nền kinh tế trung bình và chậm phát triển
trước nguy cơ đỗ vỡ và khủng hoảng nguồn lực cho phát triển do bị mất hoặc
giảm các nguồn viện trợ, vốn vay nước ngoài Tình hình đó ảnh hưởng lớn
đến vai trò quản lý, điều hành của nhà nước đối với các nguồn lực phát triển
đất nước, đặt nhà nước trước những yêu cầu, nhiệm vụ mới
27 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2246 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt luận án Nhà nước với việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN KIM PHƯỢNG
nhµ níc víi viÖc ph¸t huy néi lùc
vµ ngo¹i lùc trong héi nhËp quèc tÕ
ë ViÖt Nam hiÖn nay
Chuyên ngành : CNDVBC & CNDVLS
Mã số : 62 22 80 05
tãm t¾t LuËn ¸n tiÕn sÜ triÕt häc
Hµ Néi - 2014
C«ng tr×nh ®îc hoµn thµnh
t¹i Häc viÖn ChÝnh trÞ Quèc gia Hå ChÝ Minh
Ngêi híng dÉn khoa häc: PGs.TS trÇn thµnh
Ph¶n biÖn 1:
Ph¶n biÖn 2:
Ph¶n biÖn 3:
LuËn ¸n sÏ ®îc b¶o vÖ tríc Héi ®ång chÊm luËn ¸n cÊp Häc
viÖn häp t¹i Häc viÖn ChÝnh trÞ Quèc gia Hå ChÝ Minh.
Vµo håi giê ngµy th¸ng n¨m 2014
Cã thÓ t×m hiÓu luËn ¸n t¹i: Th viÖn Quèc gia
vµ Th viÖn Häc viÖn ChÝnh trÞ Quèc gia Hå ChÝ Minh
1MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bước vào thế kỷ XXI thế giới có những biến đổi nhanh chóng, sâu sắc và
phức tạp với những cơ hội và thách thức to lớn đối với từng quốc gia, đặc biệt
là đối với các nước nghèo và chậm phát triển. Mặc dù thế giới có thể còn có
nhiều diễn biến phức tạp với sự hợp tác và đấu tranh đan xen lẫn nhau, song
xu thế hòa bình, ổn định, hợp tác để tiếp tục phát triển vẫn là xu thế chủ đạo
trên thế giới, chi phối các quan hệ quốc tế cũng như chiến lược phát triển của
từng nước. Hội nhập quốc tế nhằm mở rộng hoạt động hợp tác quốc tế trên
mọi lĩnh vực đời sống đã và đang trở thành xu thế nổi bật của thời đại. Bất cứ
quốc gia nào muốn xây dựng đất nước, phát triển kinh tế xã hội tất yếu phải
tham gia vào xu thế đó. Trong bối cảnh ấy, Việt Nam không thể không hội nhập
quốc tế, tranh thủ mọi cơ hội để phát triển.
Để chủ động hội nhập với thế giới, đảm bảo phát triển nhanh, bền vững,
Việt Nam cần phải tích cực, chủ động phát huy và sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực, cả nội lực và ngoại lực để phát triển kinh tế - xã hội, đưa đất nước
vững bước tiến lên con đường chủ nghĩa xã hội. Phát huy nội lực và ngoại lực
giúp chúng ta mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế, tiếp thu thành tựu văn minh
nhân loại, phát huy mọi lợi thế so sánh của quốc gia, rút ngắn quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa để phát triển. Phát huy nội lực và ngoại lực trở thành
yêu cầu tất yếu, là nhu cầu bức thiết đối với Việt Nam trong xu thế hội nhập
để phát triển đất nước hiện nay. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI của Đảng đã chỉ rõ: “Phát huy nội lực và sức mạnh dân tộc là yếu tố quyết
định, đồng thời tranh thủ ngoại lực và sức mạnh thời đại là yếu tố quan trọng
để phát triển nhanh, bền vững và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ”.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong những năm qua, nhà nước đã không
ngừng hoàn thiện chính sách, pháp luật, tạo môi trường thuận lợi để phát huy
nội lực, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, an ninh quốc gia, phát triển kinh
tế, đồng thời chủ động thu hút được nhiều nguồn ngoại lực và khai thác, sử
dụng ngày càng có hiệu quả hơn các nguồn lực cho sự phát triển, đưa đất
nước từng bước hội nhập sâu rộng với thế giới. Thành tựu đó cho thấy vai trò
to lớn của nhà nước đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực cho sự phát
triển kinh tế - xã hội ở nước ta.
Tuy nhiên, trong quá trình quản lý, điều hành việc phát huy nội lực và
ngoại lực, vai trò của nhà nước có lúc chưa thực sự được thể hiện đúng mức
và đầy đủ do sự chi phối đa dạng, phức tạp của quá trình hội nhập quốc tế, đặc
biệt là do những hạn chế thuộc về bản thân nhà nước như: bộ máy cồng kềnh,
chậm thích ứng với những biến động của thế giới; trình độ quản lý, điều tiết vĩ
mô của nhà nước chưa đáp ứng được yêu cầu của việc phát huy nội lực và
ngoại lực; hệ thống pháp luật, chính sách thiếu đồng bộ; công tác cán bộ còn
2chậm đổi mới; công tác tổ chức thực hiện việc phát huy nội lực và ngoại lực
còn lúng túng, thiếu chủ động…
Những hạn chế đó của nhà nước đặt việc phát huy nội lực và ngoại lực trước
những khó khăn, thách thức và chưa đạt hiệu quả như mong muốn. Cụ thể là:
Việc phát huy nội lực còn dưới mức khả năng phát triển của đất nước.
Việc thu hút ngoại lực đã tích cực hơn nhưng chưa thực sự chủ động. Việc
khai thác và sử dụng các nguồn lực, cả nội lực và ngoại lực để phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước chưa hợp lý, chưa tương xứng với tiềm năng, chưa
phát huy hết vai trò của nó trong việc thúc đẩy quá trình chủ động hội nhập
quốc tế ở nước ta.
Bên cạnh đó, việc phát huy nội lực và ngoại lực chưa thực sự đem lại sự
phát triển bền vững cho đất nước. Nền kinh tế Việt Nam phát triển năng động
với tốc độ tăng trưởng khá nhưng hiệu quả kinh tế còn thiếu bền vững, “chất
lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh thấp; chuyển dịch cơ cấu theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa còn chậm, cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc; chế độ
phân phối còn nhiều bất hợp lý”. Việc khai thác, sử dụng nội lực và ngoại lực
chưa hợp lý dẫn đến suy kiệt nhiều nguồn tài nhiên thiên nhiên, hủy hoại môi
trường sinh thái, làm thay đổi mô hình bệnh tật, ảnh hưởng đến chất lượng
nguồn nhân lực…
Mặt khác, việc phát huy nội lực và ngoại lực trong bối cảnh hội nhập
quốc tế với nhiều biến động phức tạp hiện nay đã đặt ra không ít khó khăn,
thách thức cho sự phát triển đất nước. Sự tác động mạnh mẽ của các nguồn
ngoại lực từ nhiều phía có thể thu hẹp phạm vi tác động của nhà nước, gây
mất an toàn hệ thống kinh tế, tài chính, an ninh quốc gia; làm trầm trọng sự
bất công xã hội, đào sâu hố ngăn cách giữa người giàu, người nghèo, giữa các
quốc gia trên thế giới; nhiều nguồn viện trợ, hợp tác chuyển giao công nghệ
mang động cơ chính trị có thể dẫn tới nguy cơ chệch hướng;... Khủng hoảng
kinh tế toàn cầu đặt các nước có nền kinh tế trung bình và chậm phát triển
trước nguy cơ đỗ vỡ và khủng hoảng nguồn lực cho phát triển do bị mất hoặc
giảm các nguồn viện trợ, vốn vay nước ngoài… Tình hình đó ảnh hưởng lớn
đến vai trò quản lý, điều hành của nhà nước đối với các nguồn lực phát triển
đất nước, đặt nhà nước trước những yêu cầu, nhiệm vụ mới.
Những hạn chế, thách thức trên đều là những vấn đề thời sự cấp bách đã
và đang trở thành lực cản cho sự phát triển bền vững của đất nước đòi hỏi
phải tăng cường công tác quản lý, điều tiết, cân đối vĩ mô đối với việc khai
thác, sử dụng hợp lý các nguồn lực, cả nội lực và ngoại lực. Thực trạng đó đặt
ra yêu cầu cấp thiết phải đổi mới, hoàn thiện, tăng cường vai trò của nhà nước
để phát huy tối đa những tác động tích cực và giảm thiểu những tiêu cực trong
việc phát huy nội lực và ngoại lực nhằm đạt mục tiêu phát triển nhanh và bền
vững, đảm bảo công bằng xã hội, đồng thời tránh tình trạng suy giảm vai trò của
nhà nước và nguy cơ chệch hướng trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay.
3Với mong muốn góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn
về vai trò của nhà nước đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội
nhập quốc tế góp phần thúc đẩy sự phát triển nhanh và bền vững đất nước, tôi
chọn chủ đề: “Nhà nước với việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội
nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận án tiến sỹ chuyên ngành
Triết học của mình.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích
Trên cở sở làm rõ vai trò của nhà nước, thực trạng, và những vấn đề đặt
ra đối với vai trò của nhà nước trong việc phát huy nội lực, ngoại lực trong hội
nhập quốc tế, luận án đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao
vai trò của nhà nước đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực, đảm bảo phát
triển bền vững đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ
Luận án tập trung giải quyết những nhiệm vụ chính sau:
- Làm rõ sự cần thiết phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế
và vai trò của Nhà nước đối với việc phát huy đó ở Việt Nam hiện nay.
- Đánh giá thực trạng, phân tích một số vấn đề đặt ra đối với vai trò của
Nhà nước trong việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở
Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò
của Nhà nước đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực đảm bảo phát triển
bền vững đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu: Vai trò của nhà nước đối với việc phát huy nội lực
và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu về vai trò của nhà
nước trong việc phát huy nội lực và ngoại lực để phát triển đất nước trong bối
cảnh hội nhập quốc tế.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận án dựa trên cơ sở những nguyên tắc phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử như nguyên tắc khách
quan, toàn diện, phát triển, lịch sử - cụ thể, thực tiễn, lôgíc - lịch sử…
Luận án còn kết hợp các phương pháp khác như: phân tích và tổng hợp,
quy nạp và diễn dịch, thống kê, mô tả, so sánh...
5. Những đóng góp mới của luận án
- Luận án góp phần làm rõ dưới góc độ triết học vai trò của nhà nước đối với
việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
- Đánh giá thực trạng và đề xuất một số quan điểm, giải pháp nhằm nâng
cao vai trò nhà nước đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực trong bối cảnh
hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay.
46. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Về mặt lý luận
Luận án bước đầu làm sáng tỏ về mặt lý luận vai trò của nhà nước đối với
việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay.
Luận án góp phần vào công tác tổng kết thực tiễn thông qua việc làm rõ
thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với vai trò của nhà nước trong việc phát
huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay.
Từ đó, công trình này đề xuất những quan điểm, giải pháp cơ bản và thiết
thực nhằm nâng cao vai trò của nhà nước đối với việc phát huy nội lực và
ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay.
6.2. Về thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho
việc học tập, nghiên cứu lý luận, phục vụ công tác giảng dạy ở các trường đại
học, học viện…
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, Kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án được
trình bày trong 4 chương, 10 tiết.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH
NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Các công trình nghiên cứu về nội lực, ngoại lực và vai trò của
chúng trong sự phát triển đất nước
Trên thế giới, từ lâu, các học giả đã dày công nghiên cứu về nội lực,
ngoại lực và tổng thể các nguồn lực cho sự phát triển của các quốc gia.
Adam Smith chỉ ra nguồn lực chủ yếu của xã hội thời kỳ ông sống chính
là vốn, sức lao động và đất đai. David Ricardo coi lợi thế so sánh chính là
nguồn gốc thịnh vượng của ngoại thương, là nguyên nhân thúc đẩy sự tăng
trưởng kinh tế, phát triển xã hội.
C.Mác chỉ ra nguồn lực cho sự phát triển của CNTB như: giá trị hàng hóa
sức lao động, tư bản (vốn), khoa học kỹ thuật… Trong đó ông nhấn mạnh và
khẳng định giá trị của nguồn lực con người, con người là chủ thể sáng tạo nên
lịch sử phát triển của loài người.
Ngày nay, các nhà kinh tế học hiện đại phân tích các nguồn lực dựa trên
sự đóng góp của chúng vào sự phát triển của nền kinh tế bao gồm những yếu
tố vật chất đầu vào (như vốn, máy móc, thiết bị, vật tư, nguồn tài nguyên, sức
lao động…) và một số yếu tố khác (tổ chức, chính sách, quản trị, công nghệ,
bí quyết công nghệ)…
Ở Việt Nam, có khá nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài
nguồn lực như: Bộ Khoa học và Công nghệ, đề tài KX.04.08/06-10, Nguồn
5lực và động lực cho sự phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế Việt Nam
giai đoạn 2011 - 2020; GS.TSKH Lê Du Phong, chủ biên (2006), Nguồn lực
và động lực phát triển trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam, Nxb Lý luận Chính trị; Hồ Bá Thâm (2004), Động lực và
tạo động lực phát triển xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Hoàng Ngọc
Hòa (2005),“Quá trình nhận thức của Đảng ta về phát huy nội lực, tranh thủ
ngoại lực, phát triển nền kinh tế tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”,
Nhìn lại quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng 1986-2005, Nxb Lý luận
chính trị…
Các công trình nghiên cứu trên đã cung cấp một số lý luận cơ bản và các
cơ sở khoa học được đúc rút từ thực tiễn về tính tất yếu của việc phát huy nội
lực và ngoại lực, vai trò của phát huy nội lực, ngoại lực đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội đất nước qua các thời kỳ. Đó là gợi mở cho tác giả luận án này
đi sâu nghiên cứu và tìm hiểu.
1.2. Các công trình nghiên cứu về vai trò của nhà nước và những giải
pháp nâng cao vai trò của nhà nước đối với việc phát huy nội lực và ngoại
lực trong hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, đã có nhiều học giả, các nhà nghiên cứu
đã tập trung tìm hiểu bản chất, chức năng, vai trò của nhà nước đối với sự
phát triển như: A.Smith, J.M Keynes, Samuelson, C.Mác, Ăngghen, Lênin…
Ngày nay, dưới tác động của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, các nguồn
lực di chuyển tự do trên phạm vi toàn cầu,vượt khỏi sự kiểm soát của nhà
nước, quốc gia. Các nhà khoa học tiếp tục nêu ra nhiều quan niệm khác nhau
về vai trò của nhà nước đối với sự phát triển.
Liên quan đến đề tài này, có một số công trình nghiên cứu tiêu biểu như:
bài viết “Toàn cầu hóa kinh tế và chức năng của nhà nước” của Giáo sư Lei
Da, Tạp chí những vấn đề chính trị xã hội, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh; bài viết “Quá trình toàn cầu hóa và Nhà nước: Cái mới trong việc
điều chỉnh kinh tế ở các nước phát triển” của Osadchaja I, Tạp chí những vấn
đề xã hội, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; cuốn sách “Cơ chế thị
trường và vai trò của nhà nước trong nền kinh tế Việt Nam” của GS.TS
Lương Xuân Quỳ , Nxb Thống kê, Hà Nội, 1994 …
Bên cạnh đó, các tác giả cũng đi sâu nghiên cứu các giải pháp nâng cao
vai trò của nhà nước đối với việc phát huy nội lực, ngoại lực đất nước trong
bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay được thể hiện trong từng lĩnh vực của đời
sống xã hội. Tiêu biểu có các công trình: Bài viết “Phát huy nội lực, xây dựng
nền kinh tế Việt Nam độc lập, tự chủ mở rộng hợp tác quốc tế” của PGS.TS
Vũ Văn Phúc, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 9 năm 2005, Cuốn sách “Tác
động của nhà nước nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay” do PGS. TS Nguyễn Cúc chủ biên, Nxb
Chính trị quốc gia, 1997; Luận án Tiến sĩ Triết học “Vai trò định hướng xã hội
chủ nghĩa của nhà nước đối với sự phát triển nền kinh tế Việt Nam hiện nay” của
6Lê Thị Hồng, Hà Nội, 2001; Luận án Tiến sĩ Triết học “Vai trò nhà nước đối với
việc xây dựng nền kinh tế Việt Nam độc lập tự chủ trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế hiện nay” của Trần Thị Thu Hường, Hà Nội, 2011…
Từ các công trình, đề tài trong nước và trên thế giới có thể thấy số lượng các
đề tài nghiên cứu về “vai trò của nhà nước” rất phong phú, đồ sộ. Các công trình
đó là tài liệu quý giá, là cơ sở khoa học để nghiên cứu sinh này tiếp thu và tiếp
tục nghiên cứu, phát triển trong phạm vi nghiên cứu của luận án này.
1.3. Những giá trị của các công trình đã nghiên cứu và một số định
hướng mà luận án tiếp tục phải thực hiện
Từ tổng quan tình hình nghiên cứu, có thể thấy, các công trình, đề tài, trên
đã có những đóng góp khoa học, có giá trị về cả lý luận và thực tiễn khi
nghiên cứu vấn đề phát huy nội lực, ngoại lực cho sự phát triển và vấn đề
nâng cao vai trò của nhà nước đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực để
xây dựng và phát triển đất nước trong hội nhập quốc tế hiện nay. Những đóng
góp đó thể hiện trên một số phương diện cơ bản sau:
Một là, làm sáng tỏ những lý luận căn bản về toàn cầu hóa và hội nhập
quốc tế, những tác động của quá trình này đến vai trò của nhà nước nói riêng
và sự phát triển của của mỗi quốc gia trong đó có Việt Nam. Hai là, từng
bước làm sáng tỏ khái niệm nguồn lực, nội lực, ngoại lực và vai trò của chúng
trong việc xây dựng và phát triển đất nước của mỗi quốc gia. Ba là, làm rõ
tính tất yếu của việc phát huy nội lực và ngoại lực cho sự phát triển trong hội
nhập quốc tế ở Việt Nam, đồng thời đánh giá thực trạng, khai thác, sử dụng
các nguồn lực đó và đề xuất những phương hướng, giải pháp để sử dụng có
hiệu quả các nguồn lực. Bốn là, làm rõ vai trò của nhà nước, đánh giá thực
trạng và đề xuất các giải pháp nâng cao vai trò của nhà nước đối với sự phát
triển kinh tế xã hội, trong đó chỉ ra vai trò tác động của nhà nước đối với
từng nguồn lực, từng mặt, từng lĩnh vực của đời sống. Hầu hết các công
trình đều chỉ ra những hạn chế của nhà nước như: chất lượng văn bản pháp
lý, bộ máy chưa hiệu quả, đội ngũ công chức còn thiếu và yếu... từ đó, đề
xuất các giải pháp khắc phục trên nhiều phương diện, ở nhiều góc độ
nghiên cứu khác nhau.
Với những đóng góp đó, các công trình nghiên cứu nêu trên đã trang bị
những cơ sở lý luận căn bản và những bằng chứng khoa học từ thực tiễn về
vấn đề phát huy nội lực, ngoại lực, nâng cao vai trò của nhà nước đối với việc
phát huy các nguồn lực cho sự phát triển. Tuy nhiên, có thể nhận thấy, cho
đến nay, chưa có một công trình, đề tài nào nghiên cứu một cách có hệ thống
dưới góc độ Triết học vấn đề vai trò của nhà nước với việc phát huy nội lực và
ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay. Điều đó thôi thúc tác
giả luận án đi sâu, tìm hiểu, nghiên cứu về vấn đề này. Trên cơ sở kế thừa có
chọn lọc và bổ sung các kết quả nghiên cứu nêu trên, luận án sẽ làm sáng tỏ
thêm một số nội dung sau:
7- Làm sáng tỏ quan niệm về nội lực, ngoại lực, nguồn lực cho sự phát
triển đất nước thời kỳ hội nhập và các luận cứ khoa học về vai trò của nhà
nước trong việc phát huy nội lực, ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở Việt
Nam hiện nay.
- Phân tích thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với nhà nước trong việc
phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế hiện nay.
- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò
của nhà nước đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc
tế hiện nay.
Chương 2
TÍNH TẤT YẾU VÀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT HUY NỘI LỰC, NGOẠI LỰC
TRONG HỘI NHẬP QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Nội lực, ngoại lực và mối quan hệ biện chứng giữa nội lực, ngoại
lực trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam
2.1.1. Quan niệm về nội lực và ngoại lực
Trên cơ sở một số quan niệm của các nhà nghiên cứu trong lịch sử, luận
án đưa ra khái niệm về nội lực và ngoại lực như sau:
* Nội lực:
Nội lực của nước ta là tổng thể toàn bộ sức mạnh về vật chất và tinh thần
bên trong của quốc gia, bao gồm những nội dung cốt lõi như: sức mạnh của
nền kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội; sức mạnh của nguồn lực con người
Việt Nam; khoa học công nghệ, tài nguyên thiên nhiên, sự lãnh đạo của Đảng
và quản lý của Nhà nước ta…
Để nhận thức đúng đắn về nội lực cần thống nhất một số quan điểm sau:
Thứ nhất, nội lực là khái niệm rộng và luôn có sự vận động, biến đổi.
Trong thực tế, nhiều yếu tố từng được xác định là nội lực của quốc gia, thậm
chí là nội lực quan trọng nhưng trải qua quá trình phát triển lại không còn giữ
vai trò đó và ngược lại. Nhiều yếu tố được xác định là nội lực trong điều kiện
này nhưng lại được xem xét là môi trường, yếu tố ảnh hưởng đến việc phát
huy nội lực và ngoại lực trong điều kiện khác. Yếu tố chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội vừa có thể coi là nội lực quốc gia, vừa có thể coi là môi trường,
điều kiện để phát huy những nguồn nội lực khác như khoa học công nghệ,
nguồn nhân lực…
Thứ hai, nội lực phụ thuộc vào trình độ nhận thức của con người, đặc biệt
là trình độ phát triển khoa học công nghệ. Với trình độ nhận thức, đặc biệt là
trình độ khoa học công nghệ ngày càng được nâng cao, con người đã nghiên
cứu, phát hiện những nguồn tài nguyên mới để đưa vào sử dụng, đồng thời
sáng chế những vật liệu mới, năng lượng mới thay thế những nguồn tài
8nguyên cạn kiệt. Đó là cơ sở, điều kiện để mỗi nước nghiên cứu và làm cho
nội lực quốc gia ngày càng phong phú.
Thứ ba, nội lực phụ thuộc vào yêu cầu phát triển của mỗi quốc gia. Mỗi
quốc gia có những điều kiện và định hướng phát triển khác nhau, theo đó,
khái niệm nội lực được xác định với những nội dung khác nhau.
Như vậy “nội lực” là khái niệm rộng, luôn vận động, biến đổi,